Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

CHĂM SÓC RỐN TRẺ pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.84 KB, 27 trang )

CHĂM SÓC RỐN TRẺ

TÓM TẮT
Mở đầu: Nhiễm khuẩn rốn và uốn ván rốn là một vấn đề y tế công cộng vì
tần số cao trong cộng đồng và có thể dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng
như tử vong ở trẻ em sơ sinh. Ơ Thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ nhiễm khuẩn
rốn và uốn ván rốn dao động từ 23% đến 43%. Tổ chức Y tế Thế giới ước
tính rằng mỗi năm có khoảng nửa triệu trẻ em tử vong vì nhiễm khuẩn rốn
và uốn ván rốn, phần lớn xảy ra ở các nước đang phát triển. Một trong
những nguyên nhân của nhiễm khuẩn rốn và uốn ván rốn là do các bà mẹ
thiếu kiến thức, có thái độ không đúng, và thực hành chăm sóc rốn không
thích hợp.
Mục tiêu: Nghiên cứu này có mục tiêu tìm hiểu các yếu tố có ảnh hưởng
đến tình trạng thiếu kiến thức cũng như thái độ và thực hành không đúng ở
các bà mẹ.
Phương pháp: Nghiên cứu được thiết kế như là một cuộc khảo sát cắt
ngang và mô tả. Đối tượng nghiên cứu gồm 265 bà mẹ mới sinh con (trẻ
dưới 4 tháng tuổi) cư ngụ tại huyện Cần Giờ, một huyện ngoại ô thuộc
Thành phố Hồ Chí Minh. Kiến thức (như phương pháp chăm sóc, hiểu biết
dịch tiết, thời gian rụng rốn), thái độ (bao gồm tháo băng, không tắm rốn,
giữ cuốn rốn khô sạch), và thực hành chăm rốn (như băng rốn, bôi rốn, tắm
rốn, lau rốn) được thẩm định bằng một bộ câu hỏi đã được kiểm định trước.
Ba biến số được tính từ kiến thức, thái độ, và thực hành: KA (kiến thức và
thái độ), KP (kiến thức và thực hành), và AP (thái độ và thực hành). Các yếu
tố ảnh hưởng được nghiên cứu là độ tuổi, nghề nghiệp, học vấn, thành phần
kinh tế, và được thu thập qua phỏng vấn trực tiếp từng bà mẹ. Mô hình hồi
qui đa biến logistic được ứng dụng để phân tích mối liên hệ giữa các yếu tố
và KA, KP và AP.
Kết quả: Trong số 265 bà mẹ, có 30% có kiến thức đúng, 69% (n = 184) có
thái độ đúng, và 33% (n = 88) có những thực hành đúng hay và thích hợp về
chăm sóc rốn cho trẻ em.Phân tích hồi qui logistic cho thấy tình trạng kinh tế


gia đình khó khăn có liên quan đến kiến thức + thực hành và thái độ + thực
hành chăm sóc rốn.Những bà mẹ trên 25 tuổi và kinh tế gia đình trên trung
bình có thái độ và thực hành chăm sóc trẻ em đúng hơn các bà mẹ trẻ tuổi
hay tình trạng kinh tế gia đình khó khăn.Kết quả phỏng vấn trực tiếp phát
hiện 3 nhóm nguyên nhân ảnh hưởng đến kiến thức, thực hành và thái độ
chăm sóc trẻ em: nhân viên y tế, người thân trong gia đình, và do chính bà
mẹ.
Kết luận: Tóm lại, tình trạng kinh tế gia đình và độ tuổi của bà mẹ có ảnh
hưởng đến kiến thức, thái độ và thực hành chăm sóc rốn cho trẻ sơ sinh. Các
kết quả này còn chỉ ra một nhu cầu cấp thiết cho một chương trình hướng
dẫn về chăm sóc rốn cho trẻ sơ sinh, và một chương trình như thế cần phải
có sự tương tác giữa ba nhân tố: nhân viên y tế, người thân, và bà mẹ.
ABSTRACT
Background:The public health significance of umbilical infection and
umbilical tetanus is well-recognized because these disorders can lead to
sepsis and increased risk of mortality among newborn infants in developing
countries. Hospital-based studies in Ho Chi Minh City suggested that the
prevalence of umbilical infection and umbilical tetanus ranged between 23%
and 43%. The World Health Organization estimates that annually, about half
a million infants in the world, mostly from developing countries, die of
umbilical infection and umbilical tetanus. One of the most important factors
that lead to umbilical infection and umbilical tetanus is the traditional but
unhygienic practice of cord care which has root in cultural background.
Objectives: The present study was therefore designed to investigate the
factors that affect the inadequate knowledge, attitude and practice of
postnatal cord care among mothers.
Method: The study was designed as a cross-sectional and descriptive
investigation, in which 265 mothers with newborn babies (under 4 months
old) were included. The mothers were residents of the Cần Giờ, a semi-rural
district of Ho Chi Minh City. None of the children was diagnosed with

umbilical infection or umbilical tetanus. Knowledge (methods of care,
understanding of umbilical mucus, and time of umbilical removal), attitude
towards hygiene of natal cord, and practice of cord care were collected by a
structured questionnaire which had previously been validated. Three
outcome variables were combined from the three primary variables to yield:
KA (knowledge and attitude), KP (knowledge and practice), and AP
(attitude and practice). Each outcome variable was dichotomized into correct
versus incorrect score. In addition, data on mother’s age, occupation,
educational levels, family economic status, and parity were also obtained
from each mother by direct interview. These covariates were then analyzed
in relation to the three outcome variables by the multiple logistic regression
model.
Results: The average age of mothers was 27 (range: 22-29), with
approximately 60% having age above 25 years. Among the 265 mothers,
30%, 69% and 33% was deemed to have adequate knowledge, appropriate
attitude, and correct practice of cord care, respectively. Mothers aged 25 or
older and with economic hardship were found to have higher probability of
poor KA, KP, and AP. Furthermore, qualitative analysis suggested that the
practice and attitude of cord care were influenced by healthcare workers,
relatives, and the mothers themselves.
Conclusion: In summary, these results indicate that in the Can Gio
community, economic hardship and mothers’ age were associated with
knowledge attitude and practice of post-natal cord care. These results also
underscore an urgent need for a educational program to help prospective
mothers in the care of postnatal cord, and that such a program must
incorporate the participation of healthcare workers and relatives. .
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tại các nước đang phát triển, uốn ván rốn (UVR) và nhiễm khuẩn rốn
(NKR) là những nguyên nhân chính đưa đến tử vong ở trẻ sơ sinh. Mỗi năm,
theo tổ chức y tế thế giới (TCYTTG) độ 500.000 trẻ chết do UVR và độ

460.000 trẻ chết vì những hậu quả của nhiễm khuẩn nặng
(27)
.
Một trong 3 yếu tố thường gặp sự tồn tại những hủ tục nuôi con, những thói
quen tập quán có hại gây mất vệ sinh trong việc chăm sóc rốn trẻ ở cộng
đồng dân cư.
Từ 1984 có rất nhiều nghiên cứu, thảo luận quanh việc “chăm sóc rốn như
thế nào là an toàn và lợi ích nhất”, nhằm tránh NKR, UVR xảy ra tại bệnh
viện cũng như khi trẻ xuất viện về nhà, tập trung chủ yếu tại các nước phát
triển
(11,21,28,29)
. Tại những nước đang phát triển còn ít nghiên cứu về vấn đề
này
(9,15,19,26)
.
Tại Việt Nam, tỷ lệ NKR được ghi nhận tại các Bệnh viện (BV) Thành phố
Hồ Chí Minh thay đổi từ 23% đến 43% và cá biệt vài trường hợp nặng dẫn
đến nhiễm khuẩn huyết và gây tử vong rất đáng tiếc
(2,3,4)
.
Nghiên cứu này chỉ tập trung ở yếu tố thứ 3 làm gia tăng tần suất NKR và
UVR ở những nước đang phát triển là “Sự tồn tại những hủ tục nuôi con,
những thói quen tập quán có hại gây mất vệ sinh trong việc chăm sóc rốn trẻ
ở cộng đồng dân cư” qua các mục tiêu:
1. Xác định liên quan giữa các yếu tố kiến thức, thái độ, thực hành CSRTSS
của các bà mẹ. 2. Thăm dò những nguyên nhân ảnh hưởng đến thực hành
CSRTSS của các bà mẹ.
KHÍA CẠNH DỊCH TỄ CỦA NHIỄM TRÙNG RỐN SƠ SINH
Trên thế giới, tỷ lệ NKR sơ sinh tương đối hiếm ở các nước phát triển,
nhưng những trường hợp đơn lẻ và các dịch nhỏ NKR vẫn xảy ra dù việc

sinh trong các bệnh viện đã được thực hiện vô trùng
(29)
. NKR thường gặp
nhiều hơn ở những nước đang phát triển
(28,29)
.
Một nghiên cứu tại BV ở Ấn Độ đã cho thấy, trong số những trẻ nhập viện do
nhiễm khuẩn huyết thì 47% có nguồn lây từ rốn và trên những trẻ nhập viện 21%
là do NKR
(28)
. Theo nghiên cứu tổng quan của TCYTTG, mỗi năm độ 500.000 trẻ
chết do UVR và độ 460.000 trẻ chết vì những hậu quả của nhiễm khuẩn nặng
(27)
.
Nguồn lây chính cho bệnh lý này là việc sử dụng phân bò thoa lên rốn, đây là một
thực hành có nguồn gốc từ tôn giáo hay phong tục tập quán, nhất là ở Ấn Độ,
Pakistan, Bangladesh, Thổ Nhĩ Kỳ và những quốc gia Châu Phi như Zạre,
Nigeria, Sudan
(27,28,29)
. Ngay tại Hoa kỳ năm 1998 vẫn còn báo cáo có ca UVR tại
Montana. Một nghiên cứu tại Pakistan năm 2004 cho thấy trong 3 năm đã có 125
bệnh nhi UVR. Một nghiên cứu tiền cứu trong đô thị ở Ấn Độ cho thấy tỷ lệ mới
mắc của NKR là 30/1000, tỷ lệ bệnh mới mắc của NKR của sơ sinh tại bệnh viện
là 2,3% ; tại nhà là 21,3% . Theo Obimbo và cộng sự, tại khoa Nhi, Trường Đại
học Nairobi, Kenya trong một nghiên cứu về KT-TĐ-TH của các bà mẹ và KT
của NVYT liên quan đến vấn đề CSRTSS, cho thấy các bà mẹ có KT tốt trong
việc giữ vệ sinh khi cắt rốn nhưng lại không biết và TH sai việc CSRTSS sau khi
sinh
(24)
. Tại Việt Nam, một nghiên cứu năm 2000 tại quận 8 TP HCM, cho thấy bà

mẹ có KT tốt, TĐ tốt trong việc CSRTSS, nhưng TH còn nhiều vướng mắc và
chịu nhiều ảnh hưởng của mẹ chồng, mẹ ruột
(14)
.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu định lượng
Tiêu chí chọn vào
Bà mẹ đang nuôi con dưới 4 tháng; Mẹ cư trú tại Cần Giờ từ sáu tháng trở
lên; Trẻ chưa từng được chẩn đoán NKR từ NVYT.
Tiêu chí loại ra
Bà mẹ bị chậm phát triển tâm thần hoặc có những biểu hiện bệnh lý về tâm
thần kinh; Trẻ trong nhóm tuổi nghiên cứu không có mặt khi phỏng vấn viên
đến phỏng vấn và đã từng được chẩn đoán là nhiễm tùng rốn bởi NVYT.
Nghiên cứu định tính
Tất cả các NVYT và bà mẹ được chọn vào phỏng vấn sâu có định hướng và
thảo luận nhóm có trọng tâm đều tự nguyện và ký tên vào bảng thỏa thuận
tham gia nghiên cứu, các NVYT đang làm việc tại TTYT Cần Giờ, các bà
mẹ cư ngụ tại huyện Cần Giờ.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu định lượng (mục tiêu 1)
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu định lượng: cắt ngang, mô tả và phân tích
(18,22,23)
.
Cỡ mẫu
Theo công thức tính cỡ mẫu cho mục tiêu ước lượng một tỷ lệ với sai số
nhất định, với : = 0,05; do đó Z (1-/2) = 1,96, p = là tỷ lệ các bà mẹ có KT,
TĐ, TH đúng, mong đạt được trong nghiên cứu. Trong 1 nghiên cứu về KT-
TĐ-TH về CSRTSS của các bà mẹ tại Quận 8 năm 2000

(14)
, tỷ lệ các bà mẹ
có kiến thức đúng là 0,35; thái độ hợp tác là 0,64; thực hành đúng la 0,25.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi chọn tỷ lệ sẽ cho mẫu được chọn là lớn
nhất, do đó p = 0,64. d= 0,07. Chúng tôi được n= 180, dự trù khoảng 10%
các bà mẹ sẽ không trả lời đầy đủ các câu phỏng vấn, chúng tôi có cộng
thêm 10% của mẫu cần thu thập, tức 18 người nữa. Vậy mẫu cần thu thập là
180 + 18 = 198, làm tròn 200. Do số bà mẹ hiện cư ngụ tại địa phương
khoảng gấp rưỡi số mẫu dự kiến nên chúng tôi quyết định phương pháp lấy
mẫu toàn thể để đảm bảo tính chính xác của ước lượng và tránh các sai lầm
có thể có do việc chọn mẫu không đại diện.
Kỹ thuật chọn mẫu: lấy mẫu toàn thể
Biến số nghiên cứu
Các biến số về kiến thức, thái độ và thực hành (biến phụ thuộc)
 Các biến số kiến thức về CSRTSS là biến số nhị giá với hai giá trị: kiến
thức đúng và kiến thức chưa đúng, bao gồm các biến kiến thức sau đây: thời
gian rốn rụng; phương pháp chăm sóc rốn: giữ rốn không ướt lúc tắm trẻ
(khi rốn chưa rụng), tháo băng rốn đã được NVYT quấn kín lúc rời nhà bảo
sanh, không băng rốn kín (khi rốn chưa rụng), không băng rốn kín (khi rốn
đã rụng), giữ rốn khô và sạch; dịch tiết tại rốn gồm dịch sinh lý, dịch bệnh
và biến số kiến thức chung (thời gian rụng rốn+ chăm sóc rốn + dịch rốn).
 Các biến số thái đo về CSRTSS là biến số nhị giá với hai giá trị: thái độ
hợp tác (đúng) hoặc không không hợp tác (chưa đúng), với việc:tháo băng
rốn đã được NVYT băng kín lúc rời nhà bảo sanh; không tắm rốn đồng thời
lúc tắm trẻ (khi rốn chưa rụng); giữ cuống rốn luôn khô sạch (khi rốn chưa
rụng); không bôi bất kỳ dung dịch nào lên chồi rốn trẻ và biến số thái độ
chung (gồm 4 thái độ về chăm sóc rốn kể trên).
 Các biến số thực hành về CSRTSS là biến số nhị giá với hai giá trị: thực
hành đúng và thực hành chưa đúng gồm: không băng rốn; không bôi thuốc
lên rốn lúc rốn chưa rụng (khi có tiết dịch sinh lý tại rốn); không bôi thuốc

lên rốn lúc rốn đã rụng; giữ rốn khô khi tắm trẻ (= không tắm rốn đồng thời
với tắm trẻ); lau rốn (khi rốn ướt, dùng gòn sạch hay vải sạch lau khô rốn)
và biến số thực hành chung (5 thực hành chăm sóc rốn kể trên).
Các biến số về đặc trưng cá nhân và xã hội (ĐTCNXH) (biến độc lập)
 Những biến số đặc trưng cá nhân và xã hội của bà me
Tuổi: hai lớp: từ 25 tuổi trở lên; từ 24 tuổi trở xuống; nghề nghiệp: hai lớp:
có nghề nghiệp; nội trợ: tức thất nghiệp; học vấn: hai lớp: từ cấp 2 trở lên; từ
cấp 1 trở xuống; số con: hai nhóm: nhóm từ 2 con trở lên; nhóm chỉ có 1
con; khoảng cách sinh: hai nhóm:nhóm trên 2 năm; nhóm từ 2 năm trở
xuống; nơi sinh: 2 nhóm: nhóm sinh con tại TTYT huyện, BV TP HCM;
nhóm sinh con tại nhà, bệnh viện tư; kinh tế gia đình (theo phân loại của
chính quyền địa phương): được chia hai nhóm: nhóm 1: từ trung bình đến giàu;
nhóm 2: nghèo.
 Biến số đặc trưng của con: nam hoặc nữ
Nghiên cứu định tính (mục tiêu 2)
Thiết kế nghiên cứu: thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu để tìm hiểu những
nguyên nhân ảnh hưởng đến các bà mẹ có thực hành CSRTSS chưa đúng
Cỡ mẫu với thảo luận nhóm, chúng tôi có 4 nhóm cho mỗi đối tượng: 20
nhân viên y tế và 30 bà mẹ. Tổng cộng 50 người. Trong phỏng vấn sâu,
chúng tôi mời 3 người của mỗi nhóm: có tất cả 24 người.
Kỹ thuật chọn mẫu: Được thực hiện với 4 nhóm cho mỗi đối tượng là
NVYT và bà mẹ, mỗi nhóm có từ 6-8 người. Bà mẹ được phân tầng theo
tuổi, trình độ học vấn, tình trạng kinh tế xã hội. NVYT được phân tầng theo
trình độ chuyên môn. Để kiểm tra tính chính xác, thông tin được thu thập
theo phương pháp tam giác hóa
(25)
.
Biến số nghiên cứu qua thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu.
Chủ đề được thảo luận: lý do các bà mẹ thực hành chưa đúng việc CSRTSS.
PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ & PHÂN TÍCH DỮ LIỆU

Nghiên cứu định lượng
Phân tích đa biến các mối liên quan
Phân tích đa biến mối liên quan giữa TH với KT, giữa TH với TĐ bằng
phương pháp hồi qui đa biến với phần mềm STATA 8.0 để tìm hiểu yếu tố
nào có ảnh hưởng mạnh lên TH CSRTSS.
Kiểm soát hiện tượng gây nhiễu
Các yếu tố đặc trưng kinh tế xã hội gây nhiễu cho mối quan hệ giữa KT và
TH chăm sóc rốn được kiểm soát bằng phương pháp phân tầng và hồi quy
logistic.
Nghiên cứu định tính
Ghi chép và thu âm
Các buổi thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu được ghi âm đầy đủ. Sau đó
chúng tôi nghe lại nhiều lần phần ghi âm để kiểm tra tính đúng đắn khi ghi
chép lại.
Thẩm tra và phân tích dữ liệu
Giai đoạn 1: Phân tích biên bản gỡ băng, mã hóa các ý cần thiết
- Trước tiên, chúng tôi đọc toàn bộ biên bản gỡ băng để có những cảm nhận
chung nhất, dựa vào mục tiêu và những ý tưởng đã được chúng tôi giả định
trước.
- Tiếp đó, chúng tôi đọc biên bản gỡ băng ở những mục chuyên biệt, dựa vào
những nội dung cần thu thập. Tuy nhiên có thể phát hiện thêm nhiều ý mới
quan trọng trong quá trình thảo luận nhóm hay phỏng vấn sâu. Những ý mới
này sẽ được bổ sung thêm vào bảng mã hóa. Tất cả các băng ghi âm sẽ được
người nghiên cứu chính chép lại. Xác định từ khóa và phân tích theo biến số,
theo chủ đề, riêng cho KT-TĐ-TH.
- Tiếp theo, chúng tôi loại bỏ những câu trả lời của người tham gia bị ép buộc do
kỹ năng điều phối kém của người dẫn buổi thảo luận.
- Sau đó, sử dụng bảng mã hóa để mã hóa ngay cạnh các đoạn đối thoại.
- Khi phát hiện một câu trả lời đem lại ý tưởng hoặc chủ đề mà không được
giả định trước, thì chúng tôi mã hóa với tên mới và ghi lại ý tưởng mới ghi

nhận vào. Điều quan trọng là cuối giai đoạn này, chúng tôi hình thành được 1
bảng mã hóa, tức là bảng ghi lại tất cả mã số và ý nghĩa của nó qua các biên
bản gỡ băng.
- Để đảm bảo sự khách quan trong phân tích số liệu, số liệu này được gởi
cho một người am hiểu về rốn của trẻ sơ sinh để đọc và mã hoá lại. Những
điểm khác nhau trong việc mã hóa sẽ được thảo luận để đi đến ý kiến thống
nhất sau cùng.
Giai đoạn 2: Tạo log book
Log book là nơi ghi lại tất cả các câu trả lời với các chủ đề quan tâm qua các
cuộc thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu.
Trong log book, dưới mỗi mã số, chúng tôi ghi lại những câu trả lời có liên quan
đến chủ đề được mã hóa này, với các ý kiến giống nhau mà chúng tôi chỉ ghi nhận
1 lần vào log book.
Cuối cùng, sau khi thu thập tất cả các ý đã được nhắc đến trong thảo luận nhóm và
phỏng vấn sâu, chúng tôi sẽ đếm số lần xuất hiện của các ý kiến giống nhau này
(số người đã đề cập đến và nhóm thảo luận đã nhắc đến).
Giai đoạn 3: Viết kết quả
(1,5,6,7,12,25)

Qua log book và biên bản gỡ băng, chúng tôi quyết định những câu trả lời
nào đủ quan trọng để đưa vào kết quả, những câu trả lời nào cần giữ nguyên
văn hay chỉ ghi tóm tắt ý. Kết quả của phân tích định tính là những nguyên
nhân giải thích cho những thực hành chưa đúng trong CSRTSS của bà mẹ.
KẾT QUẢ
Mối liên quan đa biến giữa các yếu tố kiến thức, thái độ, thực hành
Liên quan giữa KT với TH phân tầng theo ĐTCNXH của bà mẹ
Bảng 1: Liên quan giữa “kiến thức” với “thực hành” phân tầng theo
ĐTCNXH bà mẹ
Ki
ến thức/đặc

điểm phân tầng
TSC p KTC
95%
Tuổi mẹ 1,57 0,77 0,89 -
2,74
Ngh
ề nghiệp 1,65 0,57 0,96 -
Ki
ến thức/đặc
điểm phân tầng
TSC p KTC
95%
2,85
Học vấn 1,65 0,10 0,95 -
2,85
Số con 1,61 0,76 0,93 -
2,79
Nơi sinh
1,66 0,62 0,96 -
2,86
Khoảng cách sinh

1,65 0,88 0,95 –
2,84
Kinh tế 1,57 0,11 0,89 –
2,78
Liên quan giữa TĐ với TH phân tầng theo ĐTCNXH của bà mẹ
Bảng 2: Liên quan giữa "thái độ” với “thực hành” phân tầng theo ĐTCNXH
bà mẹ
Thái đ

ộ/đặc
TSC p KTC
điểm phân tầng

95%
Tuổi mẹ 2,59 0,003

1,36 -

4,94
Ngh
ề nghiệp 3,05 0,005

1,60 -

5,82
Học vấn 2,86 0,001

1,51 -

5,39
Số con 1,61 0,001

0,93 -

2,79
Nơi sinh
2,86 0,001

1,51 -


5,39
Khoảng cách sinh

2,85 0,001

1,51 –

5,40
Kinh tế 2,76 0,001

1,46 -

5,23
Liên quan giữa “thực hành” với “thái độ” ở nhóm bà mẹ nghèo.
Bảng 3: Liên quan đa biến giữa “thực hành” với “thái độ” ở nhóm bà mẹ nghèo
Thực hành
TSC (KTC
95%)
p
Thái độ hợp tác 0,87 (0,34-
2,22)
0,77
Tuổi mẹ ≥ 25 tuổi 0,52 (0,30-
0,90)
0,02
Con gái 1,35 (0,78-
2,32)
0,27
Kinh tế ≥ trung bình 0,26 (0,07-

0,94)
0,04
Thái đ
ộ khi kinh tế ≥
trung bình
8,05 (1,90-
34,03)
0,005
Các nguyên nhân ảnh hưởng đến thực hành CSRTSS
Có 3 nhóm nguyên nhân ảnh hưởng đến thực hành CSRTSS chưa đúng của bà mẹ
Cần Giờ.
Lý do chăm sóc rốn trẻ sơ sinh chưa đúng thuộc về nhân viên y tế
- Bác sĩ, điều dưỡng khuyên băng rốn, khi rốn chưa rụng thì chưa tháo băng
(8/30)
- Bác sĩ, điều dưỡng dặn em phải giữ rốn cẩn thận, băng rốn cho đến khi
rụng rốn
- Bác sĩ, điều dưỡng hướng dẫn bôi thuốc (15/30)
- Bác sĩ nói nên tiếp tục dùng thuốc màu vàng (povidin) hoặc màu xanh
(milian), màu tím (tím gentian) mà trẻ đã được chăm sóc trong bệnh viện.
- Cô điều dưỡng nói em phải mua thuốc màu vàng (povidin)về chăm sóc rốn
con.
Lý do chăm sóc rốn trẻ sơ sinh chưa đúng thuộc về người trong gia đình
Theo truyền thống gia đình, mẹ dạy con nghe (30/30)
- Băng rốn là làm theo ý gia đình từ xưa đến giờ: Mẹ dạy cứ băng rốn thiệt
chặt vào là em bé sẽ khỏe.
- Bôi rốn bằng cách rắc tiêu đen, đâm nhuyễn, rắc vào rốn cho đến sau khi
rốn rụng 1 tuần lễ, ấm bụng, trẻ ngủ ngon hơn.
Không thể có ý kiến khác với Mẹ chồng (30/30)
- Mẹ chồng dạy thế nào (băng rốn) thì làm như thế ấy, vì đây là cháu nội của
bà…đôi khi cũng thấy kỳ kỳ nhưng không dám cãi lời.

Theo tập quán xã hội (26/30), như tất cả người mẹ nuôi con khác (26/30)
- Từ trước đến giờ, ai có con cũng đều chăm sóc rốn như thế, có ai làm khác
đâu ? Làm như vậy là bình thường mà.
- Ai nuôi con cũng đều làm rốn như vậy, ai mà dám làm khác.
Lý do chăm sóc rốn trẻ sơ sinh chưa đúng thuộc về bà mẹ, được suy nghĩ là
bảo vệ con
Tránh xê dịch, tránh chảy máu (30/30)
- Khi rốn xê dịch, va chạm, cọ sát với tã và áo sẽ dễ chảy máu rốn.
Tránh nhiễm khuẩn, khí độc, bảo vệ con (30/30)
- Băng rốn để che kín gió, cho sạch, không bị khí độc
- Băng rốn vì nước văng vào dễ nhiễm khuẩn.
- Rửa rốn cho sạch sẽ, vệ sinh, rửa rốn sau tắm cho trẻ ngủ ngon.
- Rửa rốn ngay cả khi rốn đã rụng.
Tránh ướt rốn (30/30)
- Băng rốn cho rốn mau khô.
- Rửa rốn cho đến khi khô và lành hẳn. Rửa rốn khi trẻ tiểu ướt.
- Bôi rốn làm rốn mau khô, tránh nhiễm khuẩn, mau rụng.
Tránh lạnh bụng (30/30)
- Băng rốn cho ấm bụng, mau lành.
- Băng rốn cho mau rụng, tránh rụng rốn kéo dài.
- Bôi rốn làm rốn mau khô. Ướt rốn làm sình bụng.
Bà mẹ tự động làm, vì lo lắng không biết hỏi ai khi về nhà (26/30)
- Bác sĩ không khuyên băng rốn nhưng vẫn băng vì sợ trẻ đau bụng.
- Rửa rốn cho đến khi rốn rụng cho sạch vì nuôi con nhỏ lần đầu không biết
hỏi ai
- Bôi rốn bằng thuốc bôi vết thương thấy con ngủ yên, nghĩ có tác dụng
giảm đau,
- mau khô nên cũng tốt, không bôi rốn em sợ lắm, rủi ro nhiễm khuẩn thì
sao.
BÀN LUẬN

Liên quan đa biến giữa các yếu tố kiến thức, thái độ, thực hành
Liên quan giữa KT với TH phân tầng theo các ĐTCNXH của các bà mẹ
Qua phân tích đa biến, ảnh hưởng của “kiến thức” lên “thực hành” phân tầng
theo các ĐTCNXH thì “thực hành” không bị tác động bởi yếu tố thuộc
ĐTCNXH có thể do cỡ mẫu có thể chưa đủ lớn để những mối liên quan, nếu
có, được cơ hội xuất hiện.
Nghiên cứu của Obimbo E, Musoke RN, Were F.
(24)
cho thấy các biến số sau
đây là độc lập có ảnh hưởng tốt mang ý nghĩa thống kê với TH CSRTSS qua
phân tích đa biến: trình độ học vấn tăng, kinh tế khá, tuổi mẹ lớn, sống trong
nhà gạch chứ không trong nhà vách bùn. Nghiên cứu ở Quận 8
(14)
không xét
đến mối liên quan này.
Liên quan giữa TĐ với TH phân tầng theo các ĐTCNXH của các bà mẹ
Phân tích đa biến đã chứng minh được: ảnh hưởng của “thái độ “ lên “thực
hành” có ý nghĩa thống kê, nghĩa là người mẹ có “thái độ” tốt sẽ có khuynh
hướng “thực hành” tốt hơn.
Nghiên cứu ở Quận 8
(14)
không xét đến mối liên quan này.
Liên quan giữa TH với TĐ ở nhóm bà mẹ nghèo
Kết quả cho thấy rõ hơn nữa người mẹ có “thái độ” tốt sẽ có khuynh hướng
“thực hành” tốt hơn. Tuy nhiên, ở nhóm nghèo, TĐ tốt không giúp thay đổi
TH như ở nhóm có điều kiện kinh tế trung bình hay khá, TSC=8 có nghĩa là
ở nhóm kinh tế khá, TĐ tốt sẽ có tác động rất tích cực và làm tăng khả năng
người mẹ có TH đúng lên 8 lần. Ở nhóm kinh tế khá nếu TĐ không tốt thì
TH cũng sẽ không đúng. Một lần nữa, chúng ta thấy chính TĐ hợp tác đã tác
động vào TH và chính kinh tế tốt đã tác động tích cực vào việc TH đúng.

Nghiên cứu ở Quận 8
(14)
không xét đến mối liên quan này.
Các nguyên nhân ảnh hưởng đến thực hành CSRTSS
Nguyên nhân thuộc về nhân viên y tế
Bác sĩ, điều dưỡng, nữ hộ sinh cũng khuyên băng rốn. Bác sĩ, điều dưỡng
hướng dẫn bôi thuốc. Các bà mẹ rất tin tưởng vào NVYT, do đó các bà mẹ
chỉ thực hiện những gì bác sĩ, điều dưỡng, nữ hộ sinh đã hướng dẫn, khuyên
bảo. Nghiên cứu của Obimbo E, Musoke RN, Were F.
(24)
cho thấy NVYT là
người tiếp cận với bà mẹ, được bà mẹ tin tưởng và thường làm theo những
gì NVYT hướng dẫn. Nghiên cứu của Pezzati M, Rossi S, Tronchin M, Dani
C, Filippi L, Rubaltelli FF nhận xét rằng các bà mẹ rất cần đến sự giúp đỡ
của NVYT cho đến khi rốn rụng hoàn toàn và chỉ làm theo những gì NVYT
chỉ bảo. Theo Adrea Guala, Guido Pastore, Vasco Garipoli, Mario Agosti,
Marco Vitali, Vianni Bona
(13)
, NVYT là người trực tiếp hướng dẫn cách
chăm sóc rốn cho các bà mẹ. Khi khuyến khích các bà mẹ để rốn khô
thoáng. NVYT của BV Nhi Wisconsin đã làm mẫu cho các bà mẹ bắt chước
chăm sóc trẻ tại nhà
(10)
. Nghiên cứu của Tammy P. McConnell; Connie W.
Lee; Mary Couillard; Windsor Westbrook Sherrill
(20)
nhận xét mặc dù việc
để rốn lành và khô tự nhiên không mất tiền, nhưng giá thành có thể gia tăng
do những phong tục tạp quán xa hoa có cả sự liên quan đến NVYT, do bà
mẹ làm theo những gì NVYT đã thực hiện, do đó chính NVYT phải là người

thực hiện việc để rốn khô trước tiên. Khi sử dụng thuốc sát khuẩn cho trẻ,
chính NVYT cũng hài lòng. Theo nghiên cứu của Lefber Y.
(17)
ĐD, NHS có
vai trò rất quan trọng trong việc chăm sóc rốn với việc cập nhật các cách
chăm sóc mới, sử dụng các chứng cứ y học dựa trên các nghiên cứu và các
bà mẹ học tập được rất nhiều từ đây, nếu ĐD, NHS không cập nhật kiến
thức thì sẽ hướng dẫn bà mẹ làm sai
(17)
. Trong nghiên cứu của Vural G, Kisa
S.
(26)
, các NVYT đến tận nhà để hướng dẫn, làm mẫu cho các bà mẹ và các
bà mẹ học được rất nhiều về việc CSRTSS. Tuy nhiên, cũng trong nghiên
cứu của Obimbo E, Musoke RN, Were F.
(24)
, bà mẹ nhận thông tin từ NVYT
nhưng có đến 50% NVYT có KT chưa đúng về CSRTSS sau sinh theo
chuẩn mực thế giới. Do đó chúng ta thấy để bà mẹ có TH đúng, trước tiên
người hướng dẫn cho bà mẹ cũng phải đúng chuẩn, vì tất cả những hành
động của NVYT sẽ được bà mẹ sao chép và thực hiện tại nhà với con mình.
Nguyên nhân thuộc về các người thân trong gia đình của bà mẹ
Các bà mẹ đã CSRTSS là tuân theo phong tục tập quán từ lâu đời, theo
truyền thống gia đình, mẹ dạy con nghe, các bà mẹ không thể có ý kiến khác
với mẹ chồng khi cả hai mẹ con còn đang ở tại nhà của mẹ chồng và bà mẹ
cũng yên tâm vì đã làm đúng theo tập quán xã hội từ lâu đời, như việc rắc
tiêu đen xay nhuyễn vào rốn trẻ cho ấm bụng trẻ.
Trong y văn đã nhắc đến các cộng đồng xa xưa, khi trẻ chào đời tại Kwazulu
Natal, những người trong gia đình sẽ dùng cạnh bén của đá hay bất cứ vật gì
có cạnh sắt bén để cắt cuống rốn trẻ

(19)
. Tại Thái lan và Bangladesh, cắt rốn
theo truyền thống bằng thớ vỏ tre
(27)
. Do vật cắt rốn không vô trùng nên đã
có trường hợp uốn ván rốn xảy ra. Một cách chăm sóc rốn khác được thực
hiện ở vùng bắc Pakistan là quấn chặt trẻ. Trẻ được rắc phân bò đã phơi khô
vào rốn và được quấn chặt trong một thời gian. Điều này cho thấy sự dễ
nhiễm khuẩn của rốn sau khi cắt trong những ngày đầu sau khi sinh. Đây
cũng là phong tục tập quán mà bà mẹ phải tuân theo. Hơn nữa trong một số
phong tục tập quán của các quốc gia, bà mẹ và trẻ sơ sinh không thể gặp
những bà đỡ đẻ, NVYT cho tới khi cuống rốn rụng hoàn toàn
(16)
, chính vì
thế người trong gia đình sẽ thay thế NVYT để CSRTSS, bà mẹ chỉ biết vâng
lời tuân theo.
Nguyên nhân thuộc về bà mẹ
Các bà mẹ giải thích việc CSRTSS đều nhằm mục đích tránh xê dịch cuống rốn,
tránh gây chảy máu, tránh nhiễm khuẩn, tránh khí độc, tránh ướt rốn, tránh lạnh
bụng, tránh rụng rốn kéo dài nhằm bảo vệ con mình.
Với những hoang mang lo lắng không biết chia sẻ cùng ai khi phải chăm sóc
trẻ, các bà mẹ cảm thấy bất lực và phải nghe theo ý kiến của mẹ chồng, hoặc
CSRTSS theo suy nghĩ của mình, lại làm theo truyền thống, dù không phải
tất cả bác sĩ hay điều dưỡng khuyên bảo như thế nhưng các bà mẹ vẫn thực
hiện băng rốn, rửa rốn và bôi rốn, ngay cả việc rắc tiêu đâm nhuyễn vào rốn

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×