Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

LAO RUỘT TRÊN BỆNH NHÂN LAO PHỔI ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.95 KB, 24 trang )

LAO RUỘT TRÊN BỆNH NHÂN LAO PHỔI

TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định chẩn đoán và điều trị lao ruột trên bệnh nhân lao phổi
Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang phân tích
Kết quả: Từ 01/2003 đến 12/2006, 48 trường hợp lao ruột trên bệnh nhân lao
phổi (41 nam và 7 nữ). Tuổi trung bình là 40,3 tuổi (ranh giới tuổi, 27 – 63).
Phần lớn có thời gian khởi bệnh kéo dài trên 1 tháng (89,58%), và đã khám
nhiều lần tại khoa ngoại hoặc nội tiêu hóa trước đó. Tất cả trường hợp có rối loạn
tiêu hóa (đau bụng, tiêu chảy và/hoặc táo bón); 64,58% sờ thấy khối u hố chậu
phải; 87,5% dấu Koenig dương tính; và 5 trường hợp có lỗ dò ra da vùng hố
chậu phải. Đa số (75%) có các triệu chứng hô hấp (ho, đau ngực…). Ngoài ra,
trên X-quang khung đại tràng có cản quang, chủ yếu là tổn thương lao vùng hồi
– manh tràng (87,5%), thường gặp các dấu hiệu Stierlin, hình ảnh hẹp hoặc loét
thành ruột. Siêu âm bụng cũng cho thấy hình ảnh phì đại hồi – manh tràng, khối
u hố chậu phải và hạch ổ bụng (87,5%; 70,33% và 35,42%). Qua nội soi khung
đại tràng phát hiện các sang thương đại thể: dạng loét thành ruột là 31,25%; dạng
phì đại, xơ sẹo là 35,42%; và dạng phì đại, xơ sẹo kèm loét là 33,33%. Về kết
quả giải phẫu bệnh lý, 58,33% là sang thương lao. Có 9,09% soi AFB dương
tính và 40,91% cấy BK dương tính trong phân. Mặc khác, 48 trường hợp đều có
sang thương trên X-quang phổi, chủ yếu là dạng thâm nhiễm (77,08%), một bên
nhiều hơn hai bên (70,83% so với 29,17%). Soi AFB/đàm dương tính thấp
(12,5%); phản ứng lao tố trong da dương tính mạnh (81,25%); số lượng bạch cầu
tăng (56,25%); và tốc độ lắng máu tăng trung bình. Sau 6 – 9 tháng điều trị lao,
tất cả các trường hợp đều được điều trị thành công.
Kết luận: Xác định chẩn đoán đúng, sớm lao ruột nhằm có hướng điều trị kịp
thời trên bệnh nhân lao phổi.
ABSTRACT
Objective: to determine the diagnosis and treatment of internal tuberculosis
in pulmonary tuberculosis patients
Method: analytical crossed sectional study


Results: From 01/2003 to 12/2006, 48 cases of intestinal tuberculosis in
pulmonary tuberculosis patients (41 male and 7 female patients). The
average age was 40.3 (range, 27 to 63). Most of them had the incident time
over 1 month (89.58%), and had been treated many times in surgical wards
or intestinal wards previously. All cases had digestive troubles (abdominal
pain, diarrhea, and/or constipation); 64.58% of palpable massess in the right
iliac fossa; 87.5% of positive Koenig’s signs; and 5 cases of fistula in the
right iliac fossa. Many cases had respiratory symptoms (chest pain,
cough…). On the orther hand, there were mainly tuberculous lesions in
ileocecal area (87.5%) on the colonic radiography with barium, often
Stierlin’s sign, lumen stenosis and ulcerative form. Abdominal echo also
showed ileocecal hypertrophy, mass in the right iliac fossa, and adenopathy
(87.5%; 70.33% và 35.42%). On gross pathologic examination, they were
the ulcerative forms (31.25%); fibrous hypertrophic forms (35.42%) and
ulcerohypertrophic forms (33.33%). About pathologic results of biopsies,
they were tuberculous lesions (58.33%). There were 9.09% of positive AFB
smear and 40.91% of positive BK culture in faece. Alternatively, 48 cases
had lesions on the chest X-rays, especially in nodullar infiltration (77.08%),
unilateral lung more than bilateral lung (70.83% versus 29.17%). Positive
AFB sputum smear was low (12.5%); 81.25% of cases had positive
tuberculin test; WBC level was high (56.25%); and the sedimentation
increased in average level. After a 6 – 9 month antituberculosis therapy, all
of cases had been successful.
Conclusion: Determination of diagnosis of internal tuberculosis was
correctlly and early due to treat antituberculosis drugs timely in pulmonary
tuberculosis patients
ĐẶT VẤN ĐỀ
Lao ruột là một dạng thường gặp của lao hệ thống tiêu hóa, thường là thể lao
thứ phát, xuất hiện sau lao phổi và là một bệnh lý đáng quan tâm ở nhiều
nước kém phát triển. Lao ruột chiếm 1,8 – 3 % các trường hợp lao ngoài

phổi. Tuy nhiên, khoảng 20 – 25% các trường hợp lao ruột kèm theo sang
thương lao trên X-quang phổi. Đặc biệt, sang thương lao vùng hồi – manh
tràng thường gặp trong lao ruột (chiếm 80 – 90%). Ngoài ra, do tình trạng
bùng phát đại dịch HIV/AIDS làm cho sang thương lao ở ruột ngày càng
nhiều. Biểu hiện lâm sàng của lao ruột (chủ yếu là rối loạn tiêu hóa như đau
bụng, tiêu chảy, khối u hố chậu phải…) dễ lầm với các bệnh lý khác như
viêm ruột thừa, viêm đại tràng mãn, ung thư manh – đại tràng… làm cho vấn
đề chẩn đoán và điều trị trở nên khó khăn. Vì vậy, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu này nhằm xác định chẩn đoán bằng các xét nghiệm cận lâm sàng
cần thiết và điều trị kịp thời các trường hợp lao ruột trên bệnh nhân lao phổi.
PHƯƠNG PHÁP - ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Loại hình nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang phân tích
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các bệnh nhân có biểu hiện rối loạn tiêu hóa (đau bụng, tiêu chảy,
khối u hố chậu phải…) kèm sang thương lao trên X-quang phổi đến khám và
điều trị tại phòng khám phổi, Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
từ 01/2003 – 12/2006 đều được đưa vào nghiên cứu thỏa mãn các tiêu chuẩn
chọn bệnh như sau:
Lâm sàng
Triệu chứng nhiễm lao chung: sốt về chiều, mệt mỏi, ăn kém, sụt cân.
Triệu chứng rối loạn tiêu hóa: đau bụng từng cơn kèm những cơn gò thành
bụng nhất là vùng hố chậu phải, đôi khi đau dữ dội dễ lầm với bụng ngoại
khoa hoặc đau âm ỉ, kéo dài, khu trú hoặc lan tỏa khắp bụng; tiêu chảy
thường phân lỏng có thể kèm đàm nhớt hoặc máu, thỉnh thoảng tiêu chảy
xen lẫn với táo bón.
Khám bụng: phát hiện dấu hiệu Koenig ở vùng hố chậu phải (một khối nổi
gồ lên làm bệnh nhân rất đau nhất là khi có cơn nhu động ruột, kèm theo
tiếng hơi di động qua chỗ hẹp, lúc đó khối gồ xẹp từ từ và bệnh nhân bớt
đau) hoặc có thể sờ thấy khối u vùng hố chậu phải, chắc di động không đau.

Có thể phát hiện lỗ dò ra da kèm chảy mủ vàng, hôi thối, ở vùng hố chậu
phải.
Triệu chứng hô hấp: ho khan, ho ra máu, đau ngực, khó thở…
Cân lâm sàng
Chụp X-quang khung đại tràng có cản quang: cho thấy hình ảnh điển hình
vùng hồi manh tràng bị teo hẹp; hoặc hình ảnh loét hoặc hẹp thành đại tràng.
Nội soi khung đại tràng phát hiện sang thương viêm phù nề, loét, biến dạng
hẹp van vùng hồi – manh tràng… kèm sinh thiết sang thương nhất là vùng
hồi manh tràng xác định lao qua giải phẫu bệnh lý.
X-quang phổi thẳng: có sang thương nhu mô phổi (thâm nhiễm, nốt, hình
hang,…).
Các xét nghiệm tầm soát nhiễm lao: Công thức máu (bạch cầu bình thường
hoặc tăng nhẹ, chủ yếu là tăng lympho bào); tốc độ lắng máu tăng; phản ứng
lao tố trong da dương tính hoặc âm tính; soi, cấy tìm vi trùng lao trong đàm,
trong phân.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu hoặc bỏ trị, không tái khám
theo lịch hẹn trong suốt thời gian điều trị.
* Phân tích sang thương lao trên X-quang phổi dựa theo phân loại của Hiệp
Hội Lồng Ngực Hoa Kỳ (ATS, 1990) như sau:
Sang thương lao mức độ nhẹ (kí hiệu I): Sang thương không có hang, tổng
diện tích sang thương một hoặc hai bên phổi không vượt quá một phân thùy
phổi.
Sang thương lao mức độ trung bình (kí hiệu II): Sang thương một hoặc cả
hai bên phổi, tổng diện tích sang thương không vượt quá giới hạn một thùy
phổi và tổng đường kính các hang lao không quá 4 cm.
Sang thương lao mức độ nặng (kí hiệu III): Sang thương nặng hơn ở mức độ
trung bình (II), nghĩa là tổng diện tích sang thương một hoặc hai bên phổi
vượt qua một thùy phổi hoặc chiếm cả một bên phổi và tổng đường kính các
hang trên 4 cm.

Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Tiến hành chọn bệnh nhân theo tiêu chuẩn trên. Bệnh nhân sẽ được giải
thích rõ, khám bệnh, và làm một số xét nghiệm cần thiết (X-quang phổi; soi
AFB, cấy tìm vi trùng lao trong đàm; phản ứng lao tố trong da; siêu âm bụng
tổng quát; soi AFB, cấy tìm vi trùng lao trong phân; và các xét nghiệm khác:
công thức máu, đường máu, BUN, creatinin, SGOT, SGPT…) giúp chẩn
đoán xác định và điều trị. Chúng tôi áp dụng điều trị lao theo phác đồ
chương trình chống lao của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Trung tâm
kiểm soát và phòng ngừa bệnh tật Hoa Kỳ (CDC).
Thống kê và xử lý số liệu
Dùng phần mềm EXCEL 2003 và STATA phiên bản 6.0 để nhập và xử lý số
liệu thu dung được. Giá trị p > 0,05 có ý nghĩa thống kê.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian nghiên cứu từ tháng 01/2003 đến 12/2006, có 48 trường hợp
lao ruột trên bệnh nhân lao phổi được chẩn đoán và điều trị tại BV. Đại học Y
Dược TP. Hồ Chí Minh. Trong đó, có 41 bệnh nhân nam (85,42%) và 7 bệnh
nhân nữ (14,58%). Tuổi trung bình là 40,3 tuổi; tuổi nhỏ nhất là 27, và tuổi lớn
nhất là 63 tuổi.
Tất cả các trường hợp này đến khám và điều trị khoa ngoại tiêu hóa hoặc nội
tiêu hóa trước đó ít nhất một lần. Trong đó,
- 15 trường hợp (31,25%) khám ngoại khoa chuẩn bị mổ với chẩn đoán
trước mổ là theo dõi u manh tràng và đại tràng phải.
- 4 trường hợp (8,33%) đã được mổ cắt nửa đại tràng phải, nối hồi tràng với
đại tràng ngang với chẩn đoán trước mổ theo dõi u manh tràng – đại tràng
phải. Kết quả giải phẫu bệnh mô sang thương: sang thương lao manh tràng
và đại tràng phải.
- 29 trường hợp (60,42%) khám điều trị nội tiêu hóa vì tiêu chảy kéo dài
(nghĩ do viêm đại tràng mạn tính).
Ngoài ra, có 6 trường hợp (12,5%) kèm bệnh đái tháo đường týp 2 (gồm 4 trường
hợp chưa điều trị và 2 trường hợp đang điều trị thuốc hạ đường huyết uống nhưng

chưa được kiểm soát tốt).
Bảng 1: Phân bố lứa tuổi
Lứa tuổi n (%)
≤ 30tuổi 3 (6,25%)
31 – 50 tuổi 33 (68,75%)
≥ 51 tuổi 12 (25%)
n: số trường hợp
Bảng 2: Thời gian khởi bệnh:
Th
ời gian khởi
bệnh
n (%)
Dưới 1 tháng 5 (10,42%)
1 – 3 tháng 16 (33,33%)
4 – 6 tháng 19 (39,58%)
Trên 6 tháng 8 (16,67%)
* Đặc điểm triệu chứng lâm sàng
Bảng 3: Biểu hiện triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng n (%)
Đau bụng, tiêu ch
ảy hoặc
táo bón
48 (100%)
Sốt, ớn lạnh về chiều 39 (81,25%)
Ăn kém, s
ụt cân, mệt
mỏi
42 (87,5%)
Buồn nôn, nôn 14 (29,17%)
Dò phân ra da vùng h


chậu phải
5 (10,42%)
Dấu Koenig vùng h

chậu phải
42 (87,5%)
S
ờ thấy khối u hố chậu
phải
31 (64,58%)
Ho khan ho
ặc ho khạc
36 (75%)
đàm và/hoặc đau ngực
* Đặc điểm triệu chứng cận lâm sàng:
Bảng 4: Kết quả vi trùng lao trong đàm, phản ứng lao tố và số lượng bạch
cầu
n (%)
Dương tính 6 (12,5%) BK/đàm
Am tính 42 (87,5%)
> 10 mm 39 (81,25%) IDR
≤ 10 mm 9 (18,75%)
> 10.000/mm
3

27 (56,25%) Số lượng
bạch cầu
≤ 10.000/mm
3


21 (43,75%)
Bảng 5: Tốc độ lắng máu trung bình

Giá trị trung bình
Giờ thứ nhất 31,8 ± 5,7 mm
Giờ thứ hai 54,4 ± 9,1 mm
Bảng 6: Kết quả đường máu
n (%)
Đường huyết
lúc đói > 140 mg%
6 (12,5%)
Bảng 7: Các dạng sang thương trên X-quang phổi
Sang thương n (%)
Thâm nhiễm 37 (77,08%)
Hình hạt kê 5 (10,42%)
Hình hang 4 (8,33%)
Phì đại hạch rốn
phổi, trung thất
13 (27,08%)
Xơ mô kẽ phổi 11 (22,92%)
Khí phế thũng 7 (14,58%)
Bảng 8: Vị trí và mức độ sang thương lao trên X-quang phổi (theo ATS)
n (%)
n (%)
Bên trái 13 (27,08%)
Bên phải 21 (43,75%)
V
ị trí sang
thương lao


Hai bên 14 (29,17%)
Nh
ẹ 22 (45,83%)
Trung bình 17 (35,42%)
Mức độ
Sang
thương lao

N
ặng 9 (18,75%)
Bảng 9: Hình ảnh sang thương siêu âm bụng tổng quát
Sang thương n (%)
Phì đại hồi tr
àng, manh
tràng
42 (87,5%)
Hình kh
ối u, hoặc mảng
phù nề hố chậu phải
34 (70,33%)
Phì đại hạch ổ bụng 17 (35,42%)
Bảng 10: Hình ảnh sang thương trên X-quang đại tràng có cản quang
Hình ảnh sang thương n (%)
Dấu hiệu Stierlin 31 (64,58%)
Hẹp lòng manh tràng
và đại tràng phải
21 (43,75%)
Loét thành đại tràng phải 14 (29,17%)
Bảng 11: Đặc điểm sang thương qua nội soi khung đại tràng

Đặc điểm sang thương n (%)
Hẹp hoặc tắc nghẽn do ph
ì
đại xơ sẹo
thành ru
ột ở van hồi manh
tràng
4
(8,33%)
Hẹp hoặc tắc nghẽn do ph
ì
đại xơ sẹo ở
van hồi manh tr
àng và kèm
theo loét
8
(16,67%)

Loét van hồi manh tràng 9
(18,75%)

Phì đại xơ sẹo thành ruột l
àm
hẹp lòng
manh tràng và đại tràng phải
13
(27,08%)

Phì đại xơ sẹo thành ruột l
àm

hẹp lòng
manh tràng và đại tràng ph
ải,
kèm loét
8
(16,67%)

Loét thành đại tràng phải đ
ơn
thuần
6
(12,5%)
Như vậy, qua nội soi khung đại tràng, sang thương lao thường gặp nhất là
vùng hồi manh tràng (42 trường hợp) và sang thương đại tràng phải đơn
thuần chỉ có 6 trường hợp.
Bảng 12: Kết quả giải phẫu bệnh của sinh thiết sang thương qua nội soi khung đại
tràng hoặc sau phẫu thuật
Kết quả n (%)
Kết quả n (%)
Sang thương lao 28 (58,33%)
Viêm đại tràng m
ạn
tính
20 (41,67%)
Bảng 13: Kết quả soi AFB và cấy tìm vi trùng lao trong phân (n=44 trường
hợp)
Kết quả Kết quả n (%)
Dương tính 4 (9,09%) Soi AFB
Am tính 40 (91,91%)
Dương tính 18 (40,91%) Cấy t

ìm vi
trùng lao
Am tính 26 (59,09%)
Hiệu quả điều trị với phác đồ điều trị lao
48 trường hợp (100%) đáp ứng tốt với điều trị lao sau 6 – 9 tháng. Sau thời
gian điều trị lao 1/2 – 2 tháng trong giai đoạn tấn công, Bệnh nhân cải thiện
tốt về triệu chứng lâm sàng (hết đau bụng, hết tiêu chảy, hết táo bón, hết ho
và đau ngực…), và cận lâm sàng (sang thương lao trên X-quang phổi thu
hẹp diện tích, có khuynh hướng xơ hóa, vôi hóa…; AFB/đàm âm tính; bạch
cầu trở về bình thường). Sau đó bệnh nhân tiếp tục được điều trị cho đủ thời
gian trong vòng 6 – 9 tháng.
Bảng 14: Thời gian cải thiện hết sang thương lao trên X-quang phổi
Thời gian n (%)
Sau 1 tháng 3 (6,25%)
Sau 2 tháng 14 (29,17%)
Sau 4 tháng 22 (45,83%)
Sau 6 tháng 9 (18,75%)
Bảng 15: Kết quả điều trị lao thành công theo phác đồ
Phác đồ n (%)
6 tháng 17 (35,42%)
8 tháng 22 (45,83%)
9 tháng 9 (18,75%)
BÀN LUẬN
Về dịch tễ học
Trong thời gian nghiên cứu (từ 01/2003 đến 12/2006), chúng tôi thu dung 48
trường hợp lao ruột trên bệnh nhân lao phổi được chẩn đoán và điều trị tại
Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Theo y văn, hiện nay chưa có
một tỉ lệ tổng quan về lao ruột vì chưa có những cuộc điều tra dịch tễ học
ngẫu nhiên tại nhiều vùng dân cư, nhưng cũng đã ghi nhận một tỉ lệ bệnh
nhất định theo một vài số liệu thống kê tại một số bệnh viện. Theo Archane

M.I. et al, báo cáo vào 1983, trong vòng 6 năm tại bệnh viện Rabat có 21
trường hợp lao hồi-manh tràng (1,8%) trong số 1.172 trường hợp lao ngoài
phổi. Theo Trần Hà, báo cáo năm 1985 tại Viện lao và bệnh phổi, có 16
trường hợp lao ruột (3%) trong số 558 trường hợp lao ngoài phổi. Ngoài ra,
chúng tôi chưa có một tỉ lệ chính xác lao ruột có kèm theo lao phổi nhưng tất
cả 12 trường hợp lao ruột này đều kèm sang thương lao phổi. So với các
nghiên cứu khác, Mahesh K.N.A. et al, khoảng 20 – 25% lao ruột kèm sang
thương lao phổi. Theo Mitchell R. et al, khoảng 30,5% lao ruột kèm sang
thương lao phổi từ mức độ nhẹ đến nặng. Trong 48 trường hợp lao ruột, có
42 trường hợp có sang thương lao vùng hồi – manh tràng so với sang thương
lao ở đại tràng (chiếm 87,5% so với 29,17%). Điều này cũng phù hợp với y
văn, sang thương lao vùng hồi – manh tràng thường gặp trong lao ruột
(chiếm 80 – 90%).
Mặt khác, đa số các trường hợp xảy ra chủ yếu trong lứa tuổi từ 31 – 50
(chiếm 68,75%), và có thời gian khởi bệnh kéo dài trên 1 tháng (chiếm
89,58%). Đồng thời, tất cả 48 trường hợp này đều đã đến khám nhiều lần tại
khoa ngoại tiêu hóa hoặc nội tiêu hóa trước đó với các triệu chứng nổi bật
của rối loạn tiêu hóa và được điều trị không đúng cách do chẩn đoán ban đầu
không chính xác (trong đó, có 4 trường hợp đã được mổ cắt nửa đại tràng
phải nhưng kết quả giải phẫu bệnh là sang thương lao manh tràng và đại
tràng phải và 15 trường hợp chuẩn bị mổ với chẩn đoán trước mổ theo dõi u
manh tràng – đại tràng phải; và 29 trường hợp được điều trị nội khoa kéo dài
như tình trạng viêm đại tràng mãn tính). Do đó, sai lầm trong chẩn đoán xác
định sẽ dẫn đến việc điều trị không đúng và hậu quả là bệnh nhân phải gắnh
chịu về thể chất và tinh thần.
Về đặc điểm lâm sàng
48 trường hợp lao ruột và lao phổi đều có biểu hiện rối loạn tiêu hóa: đau
bụng, tiêu chảy, hoặc táo bón (100%), sờ phát hiện 31 trường hợp (64,58%)
sờ thấy khối u hố chậu phải và 42 trường hợp (87,5%) dấu Koenig dương
tính. Điều này cũng phù hợp với mô tả lâm sàng trong y văn. Tuy nhiên,

theo Phạm Thái Hà và cộng sự, chỉ ghi nhận 71,19% trường hợp lao ruột có
biểu hiện tiêu chảy xen lẫn táo bón. Ngoài ra, chúng tôi gặp 5 trường hợp
(10,42%) có lỗ dò ra da vùng hố chậu phải kèm chảy dịch vàng hôi, đôi khi
lẫn phân thoát ra ngoài, trong đó có 3 trường hợp đã được mổ cắt manh tràng
và ½ đại tràng phải với chẩn đoán u manh tràng – đại tràng phải nhưng kết
quả là lao manh tràng và không được điều trị lao kịp thời sau mổ trong một
thời gian dài nên sang thương lao ruột vẫn tiến triển và vết mổ là điều kiện
thuận lợi thúc đẩy nhanh hình thành đường dò ra da; và 2 trường hợp còn lại
có thời gian khởi bệnh kéo dài trên 6 tháng và được điều trị nội khoa kéo dài
như một viêm đại tràng mạn tính. Theo Shirish K.B., khả năng lao manh
tràng chiếm 75% trường hợp nếu phát hiện một khối u ở vùng manh tràng.
Ngoài ra, chúng tôi cũng ghi nhận có trên 80% các trường hợp bệnh nhân có
biểu hiện triệu chứng nhiễm lao chung (như sốt về chiều, mệt mỏi ăn kém,
sụt cân, ăn kém) và 75% trường hợp có biểu hiện các triệu chứng hô hấp như
ho khan, hoặc ho khạc đàm và/hoặc đau ngực… nhưng không được quan
tâm chẩn đoán bệnh lý về đường hô hấp một cách đúng mức trước đó.
Về đặc điểm cận lâm sàng
48 trường hợp lao ruột được chụp X-quang khung đại tràng có cản quang
đều cho thấy có hình ảnh sang thương, chủ yếu là sang thương vùng hồi –
manh tràng qua dấu hiệu Stierlin (64,58%), kế đến là hẹp lòng manh tràng
và đại tràng phải (43,75%) và chỉ có 14% trường hợp có ổ loét thành đại
tràng phải (ứ động chất cản quang thành ruột). Qua siêu âm bụng tổng quát,
phát hiện đa số trường hợp có biểu hiện phì đại hồi tràng, manh tràng
(87,5%); (70,33%) trường hợp cho hình ảnh khối u hoặc mảng phù nề hố
chậu phải và một số không ít trường hợp có hạch ổ bụng. Chụp X-quang
khung đại tràng có cản quang và siêu âm bụng tổng quát đã góp phần đánh
giá vị trí, mức độ sang thương lao gây ra ở vùng hồi – manh tràng và thành
đại tràng, giúp ích rất nhiều trong định hướng xác định chẩn đoán.
Qua nội soi khung đại tràng kèm sinh thiết, chúng tôi ghi nhận những hình
ảnh sang thương lao thường gặp gây ra ở ruột, đó là phì đại, xơ sẹo gây hẹp

lòng ruột (17 trường hợp, 35,42%); Phì đại, xơ sẹo gây hẹp và kèm loét
thành ruột (16 trường hợp, 33,33%); và loét thành ruột đơn thuần (15 trường
hợp, 31,25%). Đây cũng là những hình ảnh điển hình được ghi nhận trong y
văn. Theo Mahesh K.N.A., trong các trường hợp lao ruột được nội soi khung
đại tràng, thể loét chiếm khoảng 60% trường hợp; thể phì đại thành ruột
chiếm 10%; và thể phì đại thành ruột kèm loét chiếm khoảng 30%. Ngoài ra,
kết quả giải phẫu bệnh lý qua sinh thiết sang thương thành ruột cho thấy
sang thương lao chiếm tỉ lệ cao (58,33%). Mặt khác, chúng tôi ghi nhận chỉ có 4
trường hợp (9,09%) soi AFB dương tính và tỉ lệ cấy tìm thấy BK trong phân
dương tính cao hơn (40,91%). Trong y văn, tỉ lệ tìm thấy vi trùng lao trong phân ở
những trường hợp lao ruột cũng rất thấp. Theo Lewis E.A. etal, 56,2% trường hợp
lao ruột được xác định về mô học và vi trùng học. Nội soi khung đại tràng kèm
sinh thiết là thủ thuật quan trọng giúp xác định các bệnh lý lao ruột.
Chúng tôi ghi nhận các xét nghiệm tầm soát lao đã góp phần giúp ích chẩn
đoán lao ruột kết hợp với sang thương lao ở phổi, chẳng hạn trong 48 trường
hợp có tỉ lệ BK/đàm dương tính thấp (12,5%), nhưng tỉ lệ phản ứng lao tố
trong da dương tính mạnh chiếm tỉ lệ cao (81,25%) và tỉ lệ bạch cầu tăng
(>10.000/mm
3
) chiếm 56,25%. Tốc độ lắng máu tăng trung bình. Và tất cả
các trường hợp đều có sang thương trên X-quang phổi, chủ yếu là thâm
nhiễm (77,08%); một bên nhiều hơn hai bên phế trường (70,83% so với
29,17%); mức độ nhẹ và trung bình gặp nhiều hơn nặng (81,25% so với
18,75%). Theo Mitchell R. et al, sang thương thâm nhiễm lan tỏa hai phế
trường chiếm 83,33% trường hợp lao ruột có kèm sang thương lao ở phổi.
Do đó, trước một trường hợp nghi ngờ có nhiễm lao, chúng ta nên tiến hành
chụp X-quang phổi nhằm phát hiện các sang thương lao ở phổi, đồng thời
kết hợp làm các xét nghiệm tầm soát lao ngay nhằm chẩn đoán sớm lao phổi
phối hợp.
Về hiệu quả điều trị

Tất cả 48 trường hợp đều đáp ứng tốt với thuốc kháng lao trong vòng 6 – 9
tháng, bệnh nhân đều cải thiện tốt về triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng.
Trong đó, phần lớn bệnh nhân cải thiện tốt về lâm sàng sau thời gian điều trị
lao 1/2 – 2 tháng trong giai đoạn tấn công. Đồng thời, đa số trường hợp X-
quang phổi cải thiện xóa hết sang thương lao sau 2 – 4 tháng điều trị
(81,25%), chỉ một số ít trường hợp phải sau 6 tháng (18,75%). Hầu hết bệnh
nhân có kết quả điều trị lao thành công theo phác đồ 6 tháng và 8 tháng
nhiều hơn so với phác đồ 9 tháng (thường gặp những bệnh nhân có thời gian
bệnh kéo dài và sang thương lao ruột nặng). Nhưng điều chúng tôi cũng
muốn nhấn mạnh, đó là vấn đề chẩn đoán chậm trễ bệnh lý lao làm cho vấn
đề điều trị trở nên phức tạp và kéo dài, thậm chí điều trị quá mức, có thể để
lại những di chứng nặng nề cho bệnh nhân. Khi vấn đề chẩn đoán lao ruột
trên bệnh nhân lao phổi sớm và rõ ràng, cùng với việc điều trị thuốc kháng
lao kịp thời sẽ giúp cho bệnh nhân tránh được các biến chứng do bệnh lao
cũng như hậu quả của việc điều trị quá mức.
KẾT LUẬN
Lao ruột thường là thể lao thứ phát sau lao phổi. Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi bước đầu cho thấy các trường hợp lao ruột đến khám và điều trị tại
khoa ngoại tiêu hóa hoặc nội tiêu hóa nhiều lần trong thời gian dài với chẩn
đoán của một bệnh lý ngoại khoa hoặc bệnh lý viêm đại tràng mạn tính,
trước khi được nghĩ đến do bệnh lao. Đánh giá các biểu hiện lâm sàng cẩn
thận chính xác, cùng với các xét nghiệm cần thiết trong tầm soát bệnh lý lao
sẽ giúp chẩn đoán xác định bệnh lý lao. Vấn đề chẩn đoán sớm và điều trị
thuốc kháng lao đúng và kịp thời các trường hợp lao ruột trên bệnh nhân lao
phổi là cần thiết nhằm tránh các tai biến và biến chứng xảy ra do diễn tiến
của bệnh lao và do điều trị không đúng hoặc quá mức. Ngoài ra, kết quả điều
trị lao thành công cho 48 trường hợp trên cũng là một xét nghiệm giúp xác
định chẩn đoán. Vì vậy, trước một bệnh nhân có bệnh lý viêm đại tràng mạn
tính hoặc sang thương vùng hồi – manh tràng cần tiến hành tầm soát lao.
Điều trị lao hầu như mang lại kết quả chắc chắn đối với lao ruột trên bệnh

nhân lao phổi. Đồng thời, điều trị nội khoa các trường hợp lao ruột là chủ
yếu, hạn chế điều trị ngoại khoa.

×