Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

ĐÁNH GIÁ SỰ Ô NHIỄM CÁC HỢP CHẤT CỦA NITƠ TRONG NƯỚC GIẾNG KHOAN docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 15 trang )

ĐÁNH GIÁ SỰ Ô NHIỄM CÁC HỢP CHẤT CỦA NITƠ
TRONG NƯỚC GIẾNG KHOAN

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nitơ là nguyên tố dinh dưỡng thiết yếu cho tất cả động thực vật,
tồn tại trong môi trường với nhiều dạng khác nhau và tùy thuộc chu trình biến đổi của
nó. Tuy nhiên, khi nồng độ nitrat hay nitrit vượt quá mức trong nước uống có thể gây
nguy hại đến sức khỏe, đặc biệt là trẻ em và phụ nữ mang thai (2).
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định mức độ ô nhiễm các hợp chất của nitơ trong
nước giếng khoan: NH
4
+;
NO
3
-
; NO
2
-
; pH và xác định các yếu tố liên quan đến sự ô
nhiễm này.
Phương pháp nghiên cứu: 214 mẫu với phương pháp điều tra cắt ngang.
Điều tra thu thập thông tin về các yếu tố gây ô nhiễm.
Kết quả nghiên cứu: Tổng số phiếu điều tra là 214 và tổng số mẫu nước khảo
sát là 214: Khu vực bãi rác Gò Cát lấy 50 mẫu, tỷ lệ mẫu đạt tiêu chuẩn 1329 của Bộ
Y tế là 96%. Khu vực bãi rác xã Đông Thạnh lấy 60 mẫu, tỷ lệ mẫu đạt tiêu chuẩn
1329 của Bộ Y tế là 63,3%. Khu vực nghĩa trang Bình Hưng Hòa lấy 42 mẫu, tỷ lệ
mẫu đạt tiêu chuẩn 1329 của Bộ Y tế là 0% (đối với chỉ tiêu pH). Khu vực nghĩa
trang phường 16 Quận Gò vấp lấy 62 mẫu, tỷ lệ mẫu đạt tiêu chuẩn 1329 của Bộ Y tế
là 6,45%. Các mẫu không đạt chủ yếu là do NH
4
+


và pH.
Kết luận: Nước giếng khoan thuộc khu vực xung quanh nghĩa trang Bình
Hưng Hòa, bãi rác Đông Thạnh, bãi rác Gò Cát bị nhiễm bẩn hữu cơ khá thấp. Tác
giả chưa tìm thấy sự tác động của các yếu tố bên ngoài tới chất lượng nước giếng
khoan khu vực này. Quận Gò vấp là một trong 4 địa bàn khảo sát có chất lượng nước
giếng khoan bị ô nhiễm hữu cơ nghiêm trọng. Nguyên nhân nước giếng khoan trên
địa bàn này bị ô nhiễm, tác giả nhận định là do sự tác động của con người trong việc
xây dựng khu dân cư mới
ABSTRACT
RESULTS OF ASSESSING NITROGENOUS COMPOUND POLLUTION
IN DRILLING WELLS AT HIGH DANGEROUS AREAS IN HO CHI
MINH CITY
Tran Thi Nga, Nguyen Xuan Thuy, Dang Ngoc Chanh, Tran Bich Ngoc et al
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - Supplement of No 4 - 2008: 205 - 210
Background: Nitrogen is essential for all living things as it is a component of
protein. Nitrogen exists in the environment in many different forms depending on its
nitrogenous cycle. However, excessive concentrations of nitrate or nitrit in drinking
water can be hazardous to health, especially for infants and pregnant women (2)
Objectives: Determination of pollution level of nitrogenous compound in
drilling wells such as NH
4
+;
NO
3
-
; NO
2
-
, pH; in addition also determining factors
related with the pollution.

Method and materials: 214 samples have been taken by a cross-sectional
study and collected data on contaminated factors.
* Viện Vệ sinh-Y tế công cộng thành phố Hồ Chí Minh

Results: A total of household questionnaires was 214 and 214 water samples
for test. 50 samples in Go Cat dump area were collected, the rate of samples reached
the Standard 1329 of Ministry of Health was 96%. 60 samples in Dong Thanh dump,
the rate of samples reached the Standard was 63.33%. 42 samples in Binh Hung Hoa
cemetery area, the rate of samples reached the Standard was 0 % (for pH parameter).
62 samples in cemetery area of ward 16, Go Vap district, the rate of samples reached
the Standard was 6.45%. The parameters did not reach the Standard 1329 of Ministry
of Health mainly pH and NH
4
+
.
Conclusion: The drilling wells water of Go Cat and Dong Thanh dump and
Binh Hung Hoa cemetery had low contamination with nitrogenous compound. The
author has not seen any affects from outside factors to quality of the drilling wells
water. In Go Vap district, where the drilling wells water has been seriously
contaminated of nitrogenous compound; the reason for the contamination was
probably caused by building of new human settlements.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nitơ là nguyên tố dinh dưỡng thiết yếu cho tất cả động thực vật, tồn tại
trong môi trường với nhiều dạng khác nhau và tùy thuộc chu trình biến đổi của nó.
Trên thế giới đã có những nghiên cứu về sự ảnh hưởng đến sức khỏe do sự hiện
diện của nitrat trong nước khi nitrat chuyển hóa thành nitrit. Nitrit có thể ôxy hoá
Hemoglobin thành methemoglobin, là loại huyết sắc tố không có khả năng vận
chuyển ôxy dẫn đến thiếu ôxy trong máu và có khả năng gây tử vong ở trẻ em
(3)
.

Ngoài ra nitrit có thể tác dụng với các acid amin để tạo thành nitrosamin.
Nitrosamin là chất có khả năng gây độc và ung thư
(1)

Hợp chất của nitơ trong nước không thể phát hiện nếu không được kiểm tra,
bởi vì nó không màu, không mùi, không vị. Các nhà khoa học khuyến cáo mọi người
nên mang tất cả những nguồn nước cấp đi kiểm tra ít nhất hai đến ba lần trong năm,
để kiểm tra sự gia tăng của các hợp chất này trong nước. Sự gia tăng các hợp chất hữ
cơ phần lớn do hoạt động của con người như: rác thải, nước thải sinh hoạt, nhà vệ
sinh, chăn nuôi…. Theo nguồn tin từ các tờ báo: Sài Gòn giải phóng, Báo Người Lao
Động, Tuổi Trẻ, Thanh Niên… thì chất lượng nước từ các giếng khoan khu vực nghĩa
trang Bình Hưng Hòa và bãi rác Gò cát đã và đang bị nhiễm nitrat, nitrit, amoniac,
…và vi sinh rất trầm trọng. Trước tình trạng bức xúc, lo lắng và hoang mang của
người dân về chất lượng nguồn nước đang sử dụng. Khoa Sức khỏe môi trường –
Viện Vệ sinh Y tế công cộng thành phố Hồ Chí Minh tiến hành điều tra khảo sát lấy
mẫu phân tích. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là nguồn cung cấp thông tin đầy đủ,
chính xác về thực trạng chất lượng nguồn nước người dân đang sử dụng. Ngoài ra kết
quả nghiên cứu sẽ góp phần thúc đẩy các cấp thẩm quyền, các ngành chức năng
nhanh chóng đưa ra giải pháp cung cấp nước sạch cho người dân.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định mức độ ô nhiễm các hợp chất của nitơ trong nước giếng khoan:
pH; NH
4
+
; NO
3
-
; NO
2
-

và xác định các yếu tố liên quan đến sự ô nhiễm các hợp
chất của nitơ trong nước giếng khoan.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Điều tra cắt ngang. Lấy mẫu mang tính chất đại diện cho cả khu vực nghiên
cứu đảm bảo các tiêu chí sau: Tổng số mẫu của đề tài là 214 mẫu. Kỹ thuật sử dụng
cho việc lấy mẫu dựa theo tiêu chuẩn TCVN 6000 – 1995 (5) Mẫu được bảo quản
theo đúng tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn TCVN 5993 – 1995 (4). Các chỉ tiêu và
phương pháp được phân tích: Chỉ tiêu NH
4
+
- phương pháp APHA 4500-NH
3
D, Chỉ
tiêu NO
3
-
- phương pháp TCVN 4562: 1988, Chỉ tiêu NO
2
-
- phương pháp APHA
4500-NO
2
B và Chỉ tiêu pH- phương pháp TCVN 6492:1999.
Địa bàn nghiên cứu: Bãi rác Gò Cát thuộc phường Bình Hưng Hòa A quận
Bình Tân, lấy 50 mẫu ở các tuyến đường số 9, đường số 10, đường số 11 thuộc khu
phố 4 và 9. Bãi rác Đông Thạnh thuộc xã Đông Thạnh, huyện Hốc môn, lấy 60 mẫu
trên địa bàn thuộc ấp 2, ấp 3, ấp 4 và ấp 7. Khu nghĩa trang Bình Hưng Hòa, phường
Bình Hưng Hòa A quận Bình Tân, lấy 42 mẫu ở tuyến đường số 8 thuộc khu phố 7, 8.
Khu nghĩa trang phường 16 quận Gò vấp, lấy 62 mẫu trên tuyến đường Lê Đức Thọ
KẾT QUẢ

Bảng 1: Điều tra về tình hình xét nghiệm, xử lí nước và độ sâu của giếng
% hộ gia đ
ình
có xét nghiệm và x
ử lí
nước
Độ sâu của giếng
Đ
ịa
điểm
Chư
a mang

ớc đi xét
nghiệm
Qua
lọc
<
30m
30 -
45m
65 –
80m
>10
0m
Đô
ng Thạnh
93,3
3%
20%


21,6
7%
58,3
3%
20%

0%

Cát
94%

26%

34%

32%

34%

0%
Ng
h
ĩa Trang
Bình
Hưng Hòa

100
%
20,9

3%
46,5
1%
27,9
1%
25,5
8%
0%

Vấp
94%

14,2
8%
31,7
5%
58,7
3%
7,94
%
1,58
%
Kết quả phân tích cho thấy tỷ lệ hộ gia đình mang nước đi kiểm tra chất lượng
còn khá thấp, ở xã Đông Thạnh là 6,67%, Gò Vấp 6%, Gò cát 6% và nghĩa trang
Bình Hưng Hòa 0%. Ngoài ra kết quả điều tra cho thấy, tỷ lệ hộ gia đình khoan giếng
ở độ sâu dưới 45m khá cao, tỷ lệ này ở xã Đông Thạnh là 80%, ở Gò Vấp 90,48%,
Gò cát là 66% và nghĩa trang Bình Hưng Hòa là 74,42%. Tầng nước ngầm này dễ bị
ảnh hưởng bởi các yếu tố tác động từ bên ngoài.
Tình hình sử dụng nước giếng qua lọc ở xã Đông Thạnh là 20%, ở Gò Vấp
14,28%, Gò cát 26% và nghĩa trang Bình Hưng Hòa là 20,93%. Tổng số bốn địa bàn

khảo sát thì tỉ lệ hộ gia đình có sử dụng cột lọc chiếm khoảng ¼, tuy nhiên số hộ gia
đình mang nước đi kiểm định sau khi lọc là 0%. Mức độ tin cậy của người dân đối
với nước sau khi lọc gần như 100%.
Bảng 2: Khảo sát yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nước giếng khoan ở khu
vực bãi rác Đông Thạnh và Gò Cát
Vị trí giếng so với bãi rác
V
ị trí giếng so
với nhà tiêu
Địa
điểm
<
100 m
100 -
500m
>
700m
<
2m
2 -
5m
Đông
Thạnh
0%

26,67%

73,33%

5%


8,35


Cát
30%

34% 36% 8%

48%

Bảng 3: Khảo sát yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nước giếng khoan ở nghĩa
trang Bình Hưng Hòa và Gò vấp
Vị trí giếng so với nghĩa trang
V
ị trí giếng so với
nhà tiêu
Địa
điểm
< 50 m

50 -
100m
>
100m
< 2m

2 -5m
Nghĩ
a trang Bình

Hưng Hòa
13,86
%
20,93
%
27,91
%
0%
39,52
%

Vấp
6,17%

9,53%

84,13
%
1,59
%
31,74
%
Theo TCXD 261:2001 quy định khoảng cách thích hợp khi thiết kế bãi chôn
lấp đối với cụm dân cư (từ 15 hộ trở lên) là 2.000m
(7)
. Tuy nhiên, kết qủa khảo sát cho
thấy số hộ gia đình sinh sống cách bãi rác dưới 500m tại bãi rác Đông Thạnh có đến
20,93% (13 hộ) và bãi rác Gò cát là 34% (17 hộ).
Trên thế giới người ta khuyến cáo vị trí giếng, con suối nơi làm nguồn nước
cấp cho cộng đồng phải cách xa nghĩa trang tối thiểu 50m

(3)
. Kết quả khảo sát cho
thấy khu vực nghĩa trang Bình Hưng Hòa có đến 13,86% số hộ gia đình sống cách
nghĩa trang dưới 50m. 100% các hộ gia đình thuộc khu dân cư phường 16 Gò Vấp
sống ngay trên nền nghĩa trang. Đây là địa bàn có tỷ lệ mẫu nước bị ô nhiễm hữu cơ
rất cao, nhưng theo kết quả nhận định của hầu hết người dân là chất lượng nước
không có vấn đề gì (không có màu và cũng không có mùi hôi).
Theo thông tư 15/2006 của Bộ Y tế, nguồn nước cấp phải cách xa nhà vệ sinh
tối thiểu là 10m
(6)
. So với quy định này thì có đến 13,35% các giếng khoan khu bãi
rác xã Đông Thạnh, 56% khu bãi rác Gò cát, 39,52% khu nghĩa trang Bình Hưng Hòa
và 31% khu phường 16 Gò vấp trong tổng số hộ được khảo sát có giếng cách nhà tiêu
dưới 5m. Tuy nhiên tác giả chưa tìm thấy sự nhiễm bẩn hữu cơ trong nước giếng
khoan do nguyên nhân này.
Kết quả khảo sát chất lượng nước khu vực bãi rác xã Đông Thạnh, huyện
Hốc Môn
Kết quả khảo sát cho thấy chất lượng nước ở khu vực ấp 2 không có mẫu bị
nhiễm hợp chất hữu cơ, khu vực ấp 3 có 1 mẫu bị nhiễm hữu cơ NH
4
+
= 2,82 và ở ấp
7 có 3 mẫu bị nhiễm NH
4
+
. Trong 3 hộ gia đình có nước giếng bị nhiễm hữu cơ thì cả
ba đều có trẻ em dưới 5 tuổi và thời gian sử dụng giếng từ 5 đến 10 năm chưa hộ gia
đình nào mang nước đi kiềm tra và theo nhận định của gia đình thì nước không có
vấn đề gì, vẫn sử dụng tốt. Ngoài chỉ tiêu NH
4

+
thì nước ở khu vực này có đến 36,67
% mẫu không đạt là do pH không đạt.

Hình 1: Biểu đồ minh họa các thông số được phân tích đạt so với tiêu chuẩn
1329/2002/BYT/QĐ, mẫu nước khu vực bãi rác Đông Thạnh
Kết quả khảo sát chất lượng nước khu vực bãi rác Gò cát phường Bình
Hưng Hòa A quận Bình Tân
Kết quả khảo chất lượng nước giếng khoan cùng tại khu vực bãi rác Gò Cát,
tác giả chưa tìm thấy được sự ảnh hưởng của bãi rác đến chất lượng nước giếng
khoan trên địa bàn. Có 8% tương đương với 4 hộ gia đình được điều tra khảo sát lấy
mẫu sống cặp bờ rào bao xung quanh bãi rác nhưng chất lượng nước giếng vẫn không
thấy có dấu hiệu của nhiễm hợp chất hữu cơ. Với 8% số hộ gia đình có giếng cách
nhà tiêu dưới 2m, tuy nhiên chỉ có 4/50 mẫu không đạt là do pH, 100% số mẫu được
phân tích không phát hiện nhiễm hữu cơ

Hình 2: Biểu đồ minh họa % các chỉ tiêu được phân tích đạt so với tiêu chuẩn
1329/2002/BYT/QĐ, khu vực Bãi rác Gò cát.
Kết quả khảo sát chất lượng nước khu vực dân cư phường 16 quận Gò
vấp
Theo báo cáo của Trưởng trạm y tế Phường 16 Quận Gò vấp (Chị Phướng),
100% hộ gia đình được lấy mẫu khảo sát là sống ngay trên nền nghĩa trang đã giải
tỏa. Kết quả nghiên cứu cho thấy 85,48% số mẫu nước có thông số NH
4
+
và 83,87 %
thông số pH vượt tiêu chuẩn vệ sinh nước ăn uống 1329/2002/BYT. Tỷ lệ mẫu đạt so
với tiêu chuẩn này khá thấp, chiếm tỷ lệ 6,45%. Theo kết quả nghiên cứu của cơ quan
môi trường Anh quốc, 50% chất ô nhiễm của một thi hài diễn ra trong năm đầu sau
khi chôn và sự phóng thích chất ô nhiễm chỉ diễn ra trong khoảng thời gian từ 10 đến

12 năm (2).Do đó khu vực phường 16 quận Gò vấp có nước giếng khoan bị nhiễm
bẩn có thể là do sự tác động của con người trong quá trình xây dựng khu dân cư. Mặc
dù khu vực này đã được xây dựng quy hoạch làm khu dân cư, với những ngôi nhà
kiên cố khang trang nhưng nguồn nước sạch thì chưa được dẫn về. Các hộ sinh sống
trên địa bàn này đều tự khoan giếng lấy nước sử dụng, nhưng đa phần là khoan giếng
ở tầng nông <30m.

Hình 3: Biểu đồ minh họa % các chỉ tiêu được phân tích đạt so với tiêu chuẩn
1329/2002/BYT/QĐ, khu vực dân cư phường 16 quận Gò vấp.
Kết quả khảo sát chất lượng nước khu vực nghĩa trang Bình Hưng Hòa
Khu vực nghĩa trang Bình Hưng Hòa có nhiều hộ gia đình sinh sống sát vách
bờ tường bao xung quanh khu vựa nghĩa trang, trên 35% các hộ gia đình sống cách
nghĩa trang dưới 100m. Số hộ gia đình có các giếng khoan ở tầng nông chiếm tỷ lệ
đến hơn 64%.Tuy nhiên kết quả phân tích không tìm thấy sự ô nhiễm của các hợp
chất hữu cơ, 100% số mẫu ở khu vực này không đạt là do pH không đạt.

Hình 4: Biểu đồ minh họa % các chỉ tiêu được phân tích đạt so với tiêu chuẩn
1329/2002/BYT/QĐ, khu nghĩa trang Bình Hưng Hòa đạt
KẾT LUẬN
Tỷ lệ mẫu nước giếng khoan thuộc khu vực xung quanh nghĩa trang Bình
Hưng Hòa, bãi rác Đông Thạnh, bãi rác Gò Cát bị nhiễm bẩn hữu cơ khá thấp. Tác
giả chưa tìm thấy sự tác động của các yếu tố bên ngoài tới chất lượng nước giếng
khoan ở các khu vực này. Quận Gò vấp là một trong 4 địa bàn khảo sát có chất lượng
nước giếng khoan bị ô nhiễm hữu cơ nghiêm trọng. Loại trừ nguyên nhân gây ô
nhiễm hữu cơ do gần nhà tiêu, gần bãi rác hay gần nghĩa trang thì nguyên nhân gây ra
sự nhiễm bẩn hữu cơ cho nước giếng khoan trên địa bàn này, tác giả nhận định là do
sự tác động của con người trong việc xây dựng khu dân cư mới.
KIẾN NGHỊ
Các cấp chính quyền địa phương, hội phụ nữ, hội chữ thập đỏ cần được tập
huấn về vệ sinh nước sạch và nước an toàn, giúp người dân yên tâm với nguồn nước

mình đang sử dụng.
Sở Y tế thành phố hướng dẫn các Trung tâm Y tế dự phòng ở các quận huyện
chưa được cấp nước sạch phải nhanh chóng triên khai thực hiện thông tư 15 về việc
kiểm tra nước sinh hoạt hộ gia đình.
Qua kết quả khảo sát tác giả kiến nghị các cấp có thẩm quyền nên nhanh
chóng triển khai mở rộng hệ thống cung cấp nước sạch trên địa bàn. Những khu vực,
địa bàn dân cư chưa có điều kiện dẫn nước sạch thì nên khuyến khích địa phương
triển đóng góp khoan giếng theo từng cụm dân cư, khuyến cáo và nghiêm cấm người
dân khoan giếng riêng lẻ vừa không đảm bảo mức độ an toàn mà còn gây thất thoát
và làm ô nhiễm nguồn nước ngầm.
Riêng các cấp có thẩm quyền cần nhanh chóng lắp đặt hệ thống nước máy đến
cho các hộ gia đình sống trên khu vực dân cư trên địa bàn phường 16 quận Gò Vấp

×