Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

PHÁC ĐỒ THUỐC PHỐI HỢPCÓ GỐC ARTEMISININE (ACTs) pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.6 KB, 21 trang )

PHÁC ĐỒ THUỐC PHỐI HỢP
CÓ GỐC ARTEMISININE (ACTs)

TÓM TẮT
Giới thiệu: Sốt rét vẫn là vấn đề y tế công cộng ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt
đới, đặc biệt châu Phi và châu Á. Sự xuất hiện và lan rộng KSTSR kháng thuốc đang
diễn biến nghiêm trọng đe dọa đến thành quả phòng chống sốt rét. Các dẫn suất của
artemisinin ra đời đã tác động rất lớn về mặt điều trị và chống kháng. Tuy nhiên, kinh
nghiệm cho thấy tình trạng kháng thuốc xảy ra cũng là lúc “tuổi thọ” của TSR giảm
đi. Nếu không có biện pháp và hoạt động giám sát thường xuyên về tình hình kháng
thuốc thì việc đầu tư vào nghiên cứu phát minh ra thuốc mới sẽ rất lãng phí. Do vậy,
thử nghiệm lâm sàng một số thuốc sốt rét mới là rất cần thiết và quan trọng, để đưa ra
chiến lược kịp thời, đồng thời nhằm bổ sung dữ liệu và góp phần thay đổi chính sách
thuốc quốc gia trong từng giai đoạn.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả và tính an toàn của phác đồ CV-8, Artekine
(Dihydroartemisinine + piperaquine), Artequick (Artemisinine + piperaquine) trong
điều trị sốt rét do P. falciparum chưa biến chứng.
Phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên tự chứng liên quan đến đánh
giá đáp ứng của P. falciparum với các phác đồ khác nhau.
Kết quả: Với phác đồ CV8, Artequick dạng viên, Artekine cho kết quả đáp
ứng lâm sàng và ký sinh trùng đầy đủ (ACPR) là 100%; Hiệu quả phác đồ Artequick
(dạng cốm) cho ACPR từ 98,10%, LPF là 1,9%, không có ca nào ETF hoặc LCF.
Không có một tác dụng phụ nghiêm trọng nào xảy ra trong quá trình theo dõi.
Kết luận: (1) Hiệu quả phác đồ CV-8, Artequick (dạng viên hoặc cốm),
Artekine rất cao, đây là những thuốc lý tưởng cho điều trị sốt rét (2) tác dụng phụ của
thuốc chỉ thoáng qua không cần can thiệp y tế hoặc buộc ngưng điều trị; Kết quả
nghiên cứu sẽ bổ sung dữ liệu, giúp cho Bộ y tế đánh giá và có hướng điều chỉnh
Chính sách thuốc sốt rét quốc gia phù hợp.
ABSTRACT
Background: Malaria still a public health problem in the tropics and
subtrropics areas, particularly in Asia and Africa. The emergence and spread of drug-


resistant malaria parasites

is the major threat to effective malaria control. The
artemisinin derivatives have had an important clinical impact both on the treatment of
resistant falciparum malaria. However, experience has

shown that resistance
eventually curtails the life span of antimalarial

drugs. If measures are not applied to
contain resistance, the investment

put into the development of new drugs will be
squandered.

Therefor, A few promising new antimalarials are being tested clinically,
drugs tolerance that can be used in short courses, and for strategies to delay the onset
of drug resistance and to properly change national antimalarial drug policy.
Objectives: To assess the efficacy and safety of CV-8, Artequick in tablets
and granules (Artemisinine plus piperaquine), Artekin (Dihydroartemisinine plus
piperaquine) regimes for the treatment of uncomplicated P. falciparum malaria.
Methods: We conducted a randomized clinical trials involved patients with
uncomplicated P. falciparum malaria. The patients were treated with either CV-8 or
Artequick or Artekine regimes, and followed for 28 days to assess the antimalarial
efficacy of the drug by monitoring of clinical and parasitological parameters.
Results: in analyses conducted according to the study protocol, the cumulative
efficacy of CV-8, Artequick (tablet) and Artekin were (ACPR) of 100%; only in
Artequick (granule) was (ACPR) of 98.10%, LPFof 1.90%, none of them were ETF
or LCF; no serious side-effects related to the studied drugs.
Conclusions: (1). The efficacy of CV-8, Artekin and Artequick (tablets and

granules) are extremely high, ideal for malaria treatment; (2) Side effects of these
regimes were reported but did not necessitate premature cessation of therapy or health
care interventions. From this study outcomes will be used to assist the Ministry of
Health of Vietnam in assessing the current national treatment guidelines.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sốt rét vẫn còn là vấn đề y tế công cộng, rất quan trọng và đe dọa tính mạng
cộng đồng tại các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới. Ước tính hiện tại có
khoảng 350-500 triệu ca mắc mới và hơn một triệu ca tử vong do sốt rét trên phạm vi
toàn cầu hằng năm, phần lớn tập trung ở châu Phi và châu Á. Quản lý ca bệnh hiệu
quả và kịp thời vẫn là một trong những điểm chính làm giảm tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử
vong, thành công của chiến lược này dựa trên khả năng sự thay đổi chính sách thuốc
quốc gia của Bộ Y tế theo từng giai đoạn nhằm cung cấp thuốc sốt rét (TSR) có hiệu
quả cao.
Sự lan rộng P. falciparum kháng thuốc hầu hết các quốc gia, trong đó có Việt
Nam đang là thử thách nguy hiểm cho điều trị. Không riêng kháng chloroquine mà
các TSR khác cũng tăng kháng, ngoại trừ “hoặc chưa” có tính kháng đối với các dẫn
suất của artemisinine. Vì tình trạng kháng thuốc lan nhanh có thể là quy mô toàn cầu,
liệu pháp phối hợp thuốc artemisinin (ACTs_ artemisinine-based combination
therapy) là những thuốc phối hợp hiệu lực cao có sẵn để lựa chọn điều trị tại Việt
Nam và một số quốc gia trên thế giới, nhưng tỷ lệ thất bại (mặc dù rất ít) của ACTs sử
dụng ở các quốc gia tiểu vùng sông Mê Kông đã lên tiếng cảnh báo cho liên vùng và
toàn cầu. Song, đặc biệt hầu hết phác đồ khuyến cáo điều trị của WHO hiện tại đều
trên nền dẫn suất artemisinine, nếu quả thật P. falciparum kháng với dẫn suất
artemisinine như thế thì thật đáng sợ vì có thể kháng lan rộng ra cả các châu lục khác
trong khi loại TSR khác vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm.
Miền Trung-Tây Nguyên với tỷ lệ bệnh nhân và con số tử vong cũng như tình
trạng kháng TSR cao nhất cả nước thì việc nghiên cứu áp dụng một số phác đồ thuốc
ACTs để kịp thời xử trí kháng lan rộng là rất cần thiết, cùng với ý nghĩa đó, chúng tôi
tiến hành đề tài nhằm:
Mục tiêu nghiên cứu

Đánh giá hiệu quả điều trị về mặt lâm sàng, ký sinh trùng của các phác đồ CV-
8, Artequick (dạng viên và dạng cốm) và Artekine trên bệnh nhân sốt rét P.
falciparum chưa biến chứng, thông qua xác định tỷ lệ ETF, LTF, LPF và ACPR;
Đánh giá tỷ lệ xuất hiện tác dụng phụ trên bệnh nhân khi dùng các phác đồ.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Thời gian: từ tháng 2005-2008, đặc biệt thời điểm các đỉnh truyền bệnh cao.
- Địa điểm: - xã Phước Chiến, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận và xã Đăk
Roong, huyện K’Bang, tỉnh Gia Lai
Thiết kế nghiên cứu
Đánh giá thử nghiệm lâm sàng tiến cứu tự chứng về đáp ứng lâm sàng và
KSTSR trực tiếp trên bệnh nhân sốt rét do P. falcipparum chưa biến chứng.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Tuổi từ 5-60 tuổi;
Nhiễm đơn thuần loại KSTSR Plasmodium falciparum;
MĐKSTSR trong máu ≥ 500 thể vô tính /µl máu;
Nhiệt độ nách ≥ 37,5 °C hoặc nhiệt độ dưới lưỡi/ đại tràng ≥38 °C;
Có khả năng nuốt và uống thuốc; chưa dùng loại TSR nào trước đó
Hợp tác nghiên cứu trong suốt thời gian và lịch nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Ngoài khoảng tuổi trên (< 5 và > 60 tuổi);
Xuất hiện các dấu chứng nguy hiểm trên những trẻ em ≤ 5 tuổi hoặc những
dấu hiệu cảnh báo dẫn đến SRAT theo tiêu chuẩn và định nghĩa WHO;
Nhiễm phối hợp hoặc đơn nhiễm các loài khác P.falciparum;
Suy dinh dưỡng nặng, phụ nữ có thai (test thử +), đang cho con bú, bệnh tâm
thần;
Sốt do bệnh nhiễm trùng khác hoặc các bệnh mạn tính.
Tiền sử mẫn cảm bất kỳ thành phần nào của thuốc nghiên cứu.
* Riêng phác đồ thuốc Artequick (dạng cốm) chọn ưu tiên nhóm bệnh nhân <
6 tuổi

Thuốc sử dụng trong nghiên cứu
Thuốc điều trị sốt rét
CV-8: gồm 32mg dihydroartemisinine + 320mg piperaquine + 90mg
trimethoprime + 5mg primaquine phosphate, do XNDP OPC 26, tp.Hồ Chí Minh
cung cấp;
Artequick viên nén: gồm 62.5mg artemisinine + 375mg piperaquine, Lot.
20040401, do công ty dược phẩm Artepharm Co. Ltd Guangzhou, China cung cấp;
Artequick dạng cốm: gồm 24mg artemisinine + 144mg piperaquine, Lot/bacth.
20030910, do công ty DP Artepharm Co. Ltd Guangzhou, China cung cấp;
Artekine: viên nén, log 20030301, do Cty TNHH DP Guangzhou Holleykin
cung cấp.
Thuốc dùng đồng thời (nếu có thể)
Các biện pháp hạ sốt cơ học (dùng quạt, lau mát) làm giảm nhiệt độ thoáng
qua;
Điều trị sốt khi ≥ 38°C cho phép dùng paracetamol hoặc acetaminophen; trước
khi điều trị TSR sẽ tránh không để loại bệnh nhân vì lý do nôn.
Phân tích số liệu
Số liệu được thu thập qua ghi nhận, tổng hợp trong bảng Exelsheet form của
WHO, 2005, 2007 và EPI_ INFO 6.04, của Hoa Kỳ.
Các khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu
Mọi thời điểm, tính an toàn và sự bồi hoàn phải luôn đảm bảo cho bệnh nhân;
có cam kết giữa đối tượng nghiên cứu và đề tài được chấp thuận của Hội đồng y đức
Bộ y tế.
Phân loại đánh giá hiệu quả điều trị các phác đồ thuốc sốt rét
Đáp ứng lâm sàng, KST đầy đủ (ACPR_Adequate Clinical and
Parasitological Response)
Không có xuất hiện KSTSR trong máu vào D
28
, bất luận nhiệt độ nách thế nào
và không có bất kỳ tiêu chuẩn nào của ETF, LCF và LPF trước đó.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Hiệu lực điều trị phác đồ CV-8 với sốt rét do P. falciparum chưa biến chứng
Bảng 1: Hiệu lực phác đồ CV 8 đường uống 3 ngày liên tiếp
GIÁ TRỊ
CHỈ SỐ
Thông
số
Tỷ
lệ (%)
S
ố ca
nghiên cứu (n)
36
Th
ời gian
sạch KS
T trung
bình (giờ)
33,60 ± 12,60
Th
ời gian
cắt sốt trung b
ình
(giờ)
23,00 ± 11,40
T
ỷ lệ đáp
ứng ACPR
36 100


T
ỷ lệ thất
b
ại điều trị: ETF,
0 0
GIÁ TRỊ
CHỈ SỐ
Thông
số
Tỷ
lệ (%)
LPF, LCF
36 ca đều cải thiện về mặt lâm sàng và KST nhanh;
Tỷ lệ đáp ứng lâm sàng và KST đầy đủ (ACPR) là 100%.
Hiệu lực điều trị phác đồ Artequick dạng viên (Artemisinine + piperaquine)
với P. falciparum
Bảng 2: Hiệu lực điều trị, cắt sốt và làm sạch KSTSR của Artequick tablets
GÍA TRỊ
CH
Ỉ SỐ
ĐÁNH GIÁ
Thông
số
Tỷ
lệ (%)
T
ổng số ca
52
nghiên cứu (n)
Thời gia

n
s
ạch KST trung
bình (giờ)
51,60 ±13,90
Th
ời gian
cắt sốt trung b
ình
(giờ)
27,70 ± 9,90
T
ỷ lệ đáp
ứng ACPR
52 100

T
ỷ lệ tái
phát s
ớm/ thất bại
điều trị (TF)
0 0
52 ca dùng artequick có hiệu quả rất cao, 100% đáp ứng tốt lâm sàng và ký
sinh trùng (ACPR); thời gian cắt sốt (FCT) trung bình 27,70 ± 9,90giờ và cắt KSTSR
trung bình (PCT) là 51,60 ±13,90 giờ
Hiệu lực điều trị phác đồ Artequick dạng cốm (Artemisinine + piperaquine)
với P. falciparum
Bảng 3: Hiệu lực điều trị, cắt sốt và làm sạch KSTSR của Artequick granule
GÍA TRỊ
CHỈ

S
Ố ĐÁNH
GIÁ
Thông
số
T
ỷ lệ
(%)
T
ổng số
ca nghiên c
ứu
(n)
107* (trẻ em < 6 tuổi)

Thời
gian s
ạch KST
trung bình
(giờ)
47,30 ±15,40
Thời
gian c
ắt sốt
trung bình
28,40 ± 12,30
GÍA TRỊ
CHỈ
S
Ố ĐÁNH

GIÁ
Thông
số
T
ỷ lệ
(%)
(giờ)
T
ỷ lệ
đáp ứng ACPR

105/107

98,1%

Tỷ l

th
ất bại điều trị
(LPF)
2 1,90%

107 trẻ em dùng artequick dạng cốm cho hiệu quả ACPR là 98,10% và LPF là
1,90%; thời gian cắt sốt (FCT) trung bình 28,40 ± 12,30 giờ và cắt KSTSR trung bình
(PCT) là 47,30 ±15,40giờ
Hiệu lực điều trị phác đồ Artekine (Dihydroartemisinine + piperaquine) với
P. falciparum
Bảng 4: Hiệu lực điều trị, cắt sốt và làm sạch KSTSR của Artekine
GÍA TRỊ
CH

Ỉ SỐ
ĐÁNH GIÁ
Thông
số
Tỷ
lệ (%)
T
ổng số ca
nghiên cứu (n)
51
Th
ời gian
s
ạch KST (PCT)
trung bình (giờ)
36,50 ± 17,10
Thời
gian
c
ắt sốt (FCT)
trung bình (giờ)
22,70 ± 11,20
T
ỷ lệ đáp
ứng ACPR
51 100

T
ỷ lệ tái
phát s

ớm/ thất bại
0 0
điều trị (TF)
51 ca dùng artekin cho kết quả 100% đáp ứng tốt lâm sàng và ký sinh trùng
(ACPR); thời gian cắt sốt (FCT) trung bình 22,70 ± 11,20 giờ và cắt KSTSR trung
bình (PCT) là 36,50 ± 17,10 giờ.
Độ an toàn và một số tác dụng phụ của các thuốc sốt rét ACTs
Bảng 5: Một số triệu chứng nghi tác dụng phụ do dùng thuốc sốt rét
Tác
dụng phụ
CV-
8
Artequick

(viên nén)

Artequick
(cốm)
Artekine

Nhức
đ
ầu, chóng
mặt
0 5 (9,6%) 2(1,9) 4 (7.8%)

Buồn
nôn, nôn
1
(2,78%)

3 (5,8%) 3(2,8) 3 (5,9%)

Đau
b
ụng, RL
1
0 3(2,8) 1(2,0)
tiêu hóa (2,78%)
Ng
ứa,
n
ổi mẩn, đỏ
da
0 0 0 0
Chán
ăn
0 0 1(0,9) 0
Với phác đồ CV-8: ghi nhận 1/36 (2,78%) bệnh nhân có biểu hiện buồn nôn,
1/36 (2,78%) có đau bụng và rối loạn tiêu hóa;
Với phác đồ Artequick: ghi nhận chỉ 5/52 (9,6%) có biểu hiện nhức đầu và hơi
chóng mặt; 5,8% bệnh nhân buồn nôn; trong số 107 bệnh nhân trẻ em dùng artequick
dạng cốm có 2 ca biểu hiện nhức đầu, 3 ca buồn nôn và 3 ca rối loạn tiêu hóa nhẹ;
Với phác đồ Artekin: ghi nhận bệnh nhân đau bụng nhẹ (1ca; 2%), buồn nôn
(3 ca; 5,9%) và 4 ca biểu hiện nhức đầu chóng mặt.
BÀN LUẬN
Hiệu quả phác đồ CV-8 liệu trình 3 ngày với sốt rét P.falciparum
CV-8, loại thuốc sốt rét phối hợp có thời gian bán hủy trung bình 6.8 giờ, liệu
trình 3 ngày là thuốc cứu cánh về kháng thuốc và rút ngắn liệu trình điều trị, hiệu quả
điều trị được khẳng định qua nghiên cứu trong nước và thế giới. Hiệu lực điều trị
CV8 với sốt rét do P. falciparum chưa biến chứng tiếp tục được khẳng định qua 36 ca

theo dõi invivo 28 ngày.
Phác đồ CV-8 cải thiện về mặt lâm sàng lẫn KSTSR, chưa đầy 2 ngày là vừa
sạch KSTSR vừa cắt sốt, thời gian sạch KSTSR trung bình 33,60 ± 12,60 và thời gian
cắt sốt trung bình là 23,00 ± 11,40 giờ; tỷ lệ đáp ứng lâm sàng và ký sinh trùng đầy
đủ (ACPR) là 100% qua theo dõi 28 ngày. Số liệu của chúng tôi có cao hơn so với
nghiên cứu của tác giả Nông Thị Tiến và cộng sự (2004) tại Phước Long, Bình Phước
(ACPR: 97,6% và LPF: 2,4%; n = 42). Do vậy, thuốc CV-8 vẫn còn khả năng dùng
điều trị sốt rét do P. falciparum rất tốt, song vì trong thành phần có trimethoprime có
khả năng gây tán huyết và hội chứng bong da dị ứng, nên dùng thận trọng.
Hiệu quả phác đồ Artequick dạng viên nén và dạng cốm với sốt rét
P.falciparum
Artequick dạng viên, chỉ định trong 2 ngày uống, qua nghiên cứu và theo dõi
tổng cộng 52 ca sốt rét chưa biến chứng do P.falciparum, kết quả cho thấy hiệu quả
điều trị rất cao, 100% đáp ứng tốt lâm sàng và ký sinh trùng (ACPR), không có
trường hợp nào thất bại điều trị hoặc tái phát sớm (recrudescence); thời gian cắt sốt
(FCT) trung bình 27.70 ± 9.90 giờ và cắt KSTSR trung bình (PCT) là 51,60 ±13,90.
Artequick dạng cốm chỉ định dùng trên 107 trẻ em mắc sốt rét do P.
falciparum chưa biến chứng cho thấy hiệu lực cắt sốt và ký sinh trùng rất nhanh, thời
gian cắt sốt (FCT) trung bình 28,40 ± 12,30 giờ và cắt KSTSR trung bình (PCT) là
47,30 ± 15,40 giờ, đặc biệt là tình trạng đáp ứng lâm sàng và ký sinh trùng đầy đủ
cao với ACPR là 98,10% và một tỷ lệ nhỏ tái phát ký sinh trùng muộn (LPF) là 1,9%
Nhiều nghiên cứu được tiến hành với nhóm thuốc ACTs trong nước và trên thế
giới, tại Việt Nam như tại vùng sốt rét lưu hành nặng của Quảng Trị, một nghiên cứu
dùng Artekin (n = 98) cho bệnh nhân sốt rét chưa biến chứng do P. falciparum cho
kết quả ACPR là 100%
(7)
hoặc tại Ninh Thuận với Arterakin (n = 98) cũng cho ACPR
100%, các số liệu này phù hợp với kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Riêng với thuốc
Artequick dạng cốm trong nghiên cứu này chúng tôi có một tỷ lệ nhỏ thất bại lâm
sàng muộn (LPF) là 1,9% và ACPR là 98,10%, dữ liệu này cũng tương đương với số

liệu từ các tác giả Trung Quốc khi thử nghiệm Artequick đa trung tâm tại đa quốc gia
trong tiểu vùng sông Mê Kông như Cambodia, Trung Quốc, Thái Lan và Indonesia,
đó là ACPR 97% và tỷ lệ tái phát sớm (recrudescence) 3% đối với điều trị P.
falciparum; ACPR 98% và tỷ lệ tái phát (relapse rate) 2% đối với sốt rét do P.vivax
(Li Guoqiao và cs., 2001, 2003), đồng thời FCT trung bình 21,10 ± 10,80 giờ và PCT
trung bình 45,5 ± 12,80 giờ
(2)
cũng tương đương. Thuốc này có thành phần
piperaquine có thời gian bán hủy dài (20-25 ngày) và làm dừng phát triển KSTSR
trong vòng 2 giờ và hơn 95% KSTSR bị diệt trong vòng 24 giờ, nên đây có thể là
nhóm thuốc lý tưởng vừa áp dụng chống đa kháng thuốc do P. falciparum lại vừa có
hiệu quả cao trong điều trị sốt rét do P. falciparum chưa biến chứng với các tác dụng
phụ không đáng kể, nhất là dạng thuốc cốm phù hợp với điều trị sốt rét trẻ em.
Hiệu quả phác đồ Artekin với sốt rét chưa biến chứng do P.falciparum
Artekin hay Arterakine cũng thuộc nhóm thuốc ACTs, qua nghiên cứu và theo
dõi đánh giá 51 ca dùng artekin cho kết quả 100% đáp ứng tốt lâm sàng và ký sinh
trùng đầy đủ (ACPR); thời gian cắt sốt (FCT) trung bình 22,70 ± 11,20 giờ và cắt
KSTSR trung bình (PCT) là 36,50 ± 17,10 giờ, không có ca nào thất bại điều trị. Kết
quả thử nghiệm cũng cho biết hai loại thuốc Artequick và Artekin đều cho tỷ lệ khỏi
bệnh cao, không có sự khác biệt về FCT và PCT giữa hai loại thuốc này. Song, về
mặt thực hành điều trị thì do liệu trình điều trị Artequick ngắn (2 ngày) hơn và đơn
giản dùng (0 giờ và 24 giờ) hơn liệu trình Artekin (3 ngày); điều này có ý nghĩa lớn
trong việc đạt được mục đích điều trị bệnh nhân sốt rét cũng như tối đa hóa hiệu lực
điều trị khi sử dụng điều trị diện rộng.
Độ an toàn của các phác đồ điều trị
Các tác dụng phụ và ngoại ý của các phác đồ điều trị chiếm một tỷ lệ nhỏ
(2%-9,6%), đặc biệt các dấu chứng này chỉ thoáng qua nên dường như không ảnh
hưởng đến hiệu lực điều trị. Do đó, hiệu lực thuốc vẫn được đánh giá rất cao.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Qua theo dõi test invivo 28 ngày với các phác đồ điều trị của CV-8,

Artequick dạng viên hoặc cốm, Artekine với tổng số 246 bệnh nhân được theo dõi
đầy đủ, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
Về hiệu quả phác đồ điều trị
Hiệu quả phác đồ của thuốc CV-8 với P. falciparum, Artequick dạng viên và
Artekine được đánh giá thông qua các thông số lâm sàng, ký sinh trùng cho tỷ lệ
ACPR 100%, không có tỷ lệ tái phát hoặc thất bại điều trị.
Phác đồ Artequick (dạng cốm) có hiệu quả điều trị rất cao, đáp ứng tốt lâm
sàng và ký sinh trùng (ACPR) là 98,10% và tỷ lệ thất bại ký sinh trùng muộn (LPF) là
1,9%, không có trường hợp tái phát sớm;
Thời gian cắt sốt (FCT) và thời gian cắt KSTSR nhanh và trung bình chỉ là <
60 giờ.
Về độ an toàn các phác đồ
Các tác dụng phụ của các phác đồ trên bệnh nhân không đáng kể, nếu có là
chóng mặt, đau bụng, nhức đầu thoáng qua, tự chấm dứt sau khi dừng thuốc vài
ngày mà không cần can thiệp y tế.
Khuyến nghị: trong Chính sách thuốc sốt rét quốc gia nên đưa các thuốc
Artequick, Artekine vào điều trị chống đa kháng thuốc, đặc biệt Artequick dạng cốm
dùng điều trị cho trẻ em.
Một số từ viết tắt trong báo cáo
FCT: Fever Clearance Time
PCT: Parasite Clearance Time
TF: Treatment Failure

×