Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Chữa bệnh bằng cây tầm xuân potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.24 KB, 8 trang )

Chữa bệnh bằng
cây tầm xuân
Trẻ em đái dầm, người già đi tiểu đêm nhiều lần có thể chữa
bằng cách dùng rễ tầm xuân 30 g sắc uống, hoặc hầm với thịt lợn
ăn.
Tầm xuân là loại cây mọc hoang dại, một số nơi trồng làm cảnh.
Trong y học cổ truyền phương Đông, tầm xuân là một vị thuốc
khá độc đáo. Nó có nhiều tên khác như thích hoa, bạch tàn hoa,
thích mi, ngưu cúc, tường mi, thập tỷ muội, thất tỷ muội, dã tường
vi, hòa thượng đầu Tầm xuân mọc thành bụi, lá kép lông chim,
thân nhiều gai, hoa 5 cánh nhỏ bé nhưng khá đẹp với nhiều màu
sắc khác nhau như hồng, đỏ, trắng, vàng
Trong sách Bản thảo cương mục, nhà dược học vĩ đại Lý Thời
Trân đã bàn đến tính vị, công dụng chữa bệnh của tầm xuân và
cho rằng loại hoa có màu trắng là tốt hơn cả. Dân gian thường
thu hái hoa, quả, cành và rễ tươi hoặc khô để làm thuốc. Tùy
theo từng bộ phận của tầm xuân mà tác dụng chữa bệnh cũng có
những đặc điểm khác nhau.
Hoa: Thường được thu hái vào mùa xuân và mùa hạ, dùng để
chữa các chứng bệnh như:
- Cảm nắng, cảm nóng vào mùa hạ: Có các triệu chứng tức ngực,
buồn nôn và nôn, có thể có nôn ra máu, môi khô miệng khát,
chán ăn, mệt mỏi. Dùng hoa tầm xuân 3-9 g sắc uống hoặc hoa
tầm xuân 5 g, thiên hoa phấn 10 g, sinh thạch cao 30 g, mạch
môn 15 g, sắc uống hoặc hoa tầm xuân 10 g và hoa đậu ván
trắng 10 g, hãm với nước sôi, chế thêm một chút đường phèn,
uống thay trà.
- Nôn ra máu và chảy máu cam: Dùng hoa tầm xuân 6 g, bạch
cập 15 g và rễ cỏ tranh 30 g, sắc uống.
- Ngược tật (sốt rét): Dùng hoa tầm xuân sắc uống thay trà.
- U tuyến giáp: Dùng hoa tầm xuân 5 g, hoa hậu phác 5 g, hoa chỉ


xác 5 g và hoa hồng 5 g, sắc uống.
- Tiểu đường và viêm loét niêm mạc miệng mạn tính: Dùng
sương đọng trên hoa tầm xuân vào buổi sớm 30 ml pha chút
nước ấm uống hàng ngày.
Lá: Được thu hái quanh năm, có tác dụng sinh cơ và làm liền
nhanh vết thương.
- Ung nhọt làm mủ chưa loét: Dùng lá tầm xuân sấy khô tán bột,
trộn với mật ong và giấm đắp lên tổn thương.
- Viêm loét chi dưới: Dùng lá tầm xuân không kể liều lượng nấu
nước rửa vết thương.
- Nhọt độc sưng nề nhiều: Dùng lá và cành non tầm xuân rửa
sạch, giã nát với một chút muối ăn rồi đắp lên tổn thương.
Rễ: Vị đắng hơi sáp, tính bình, có công dụng thanh nhiệt lợi thấp,
trừ phong, hoạt huyết và giải độc, được dùng để chữa nhiều
chứng bệnh.
- Liệt mặt và di chứng liệt nửa người do tăng huyết áp: Dùng rễ
tầm xuân 15-30 g sắc uống.
- Chảy máu cam mạn tính: Dùng vỏ rễ tầm xuân 60 g hầm với thịt
vịt già ăn.
- Ghẻ về mùa hè: Dùng rễ tầm xuân tươi sắc uống thay trà.
- Đau răng và viêm loét miệng: Dùng rễ tầm xuân sắc uống hoặc
ngậm.
- Viêm khớp, liệt bại nửa người, kinh nguyệt không đều, khí hư và
tiểu tiện không tự chủ: Dùng rễ tầm xuân 15-30 g sắc uống.
- Hoàng đản (vàng da do nhiều nguyên nhân): Dùng rễ tầm xuân
15-24 g hầm với 60 g thịt lợn nạc, chế thêm một chút rượu vang,
chia ăn vài lần trong ngày.
- Vết thương chảy máu: Dùng rễ tầm xuân lượng vừa đủ, sấy khô
tán bột rắc vào tổn thương, cũng có thể trộn với dầu vừng để
đắp.

- Rong huyết: Dùng rễ tầm xuân 30 g, ngải cứu già đốt tồn tính 10
g, cỏ nhọ nồi 30 g, tiên hạc thảo 30 g, sắc uống hằng ngày.
Quả: Vị chua, tính ấm, thu hái vào lúc chín, sấy hoặc phơi khô
làm thuốc, có công dụng lợi tiểu thanh nhiệt, hoạt huyết giải độc.
- Phù do viêm thận: Dùng quả tầm xuân 3-6 g, hồng táo 3 quả
sắc uống hoặc quả tầm xuân 20 g, đại hoàng 3 g, sắc chia uống 3
lần trong ngày.
- Tiểu tiện khó khăn: Dùng quả tầm xuân 10 g, mã đề 30 g và
biển súc 30 g, sắc uống.
- Đau bụng khi hành kinh: Dùng quả tầm xuân 120 g sắc lấy
nước, hòa thêm một chút đường và rượu vang uống ấm.
- Táo bón: Dùng quả tầm xuân 10 g, đại hoàng 3 g, sắc uống.

×