Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Đề tài " Phân tích tâm lý nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam " ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.07 KB, 29 trang )

Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh
Khoa Tài Chính Doanh Nghiệp
Bộ môn: Tài chính tiền tệ
Giảng đường: TC khối 4
N h ó m t h ự c h i ệ n :
Nguyễn Hồng Việt Thành – TC 12
Nguyễn Văn Thịnh – TC 12
Đỗ Quốc Thịnh – TC 10
Nguyễn Hoàng Lâm – TC 10
GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
“Tiền bạc không tự nhiên sinh ra và cũng không tự
nhiên mất đi trên thị trường chứng khoán mà nó chỉ
chuyển giao từ nhà đầu tư này sang nhà đầu tư
khác.”
Phân tích tâm lý
nhà đầu tư trên thị
trường chứng
khoán Việt Nam



Năm 2007, “chơi chứng khoán” đã được báo chí nói tới như một thứ “mốt”, một
“phong trào” lan truyền nhanh hơn bất cứ dịch bệnh nào, trên khắp cả nước. Không có gì
phải chối cãi khi cho rằng hiệu ứng chứng khoán năm 2007 đã thực sự tác động tới tất cả
mọi người. Chứng khoán “nóng” tới mức hệ thống máy chủ của thị trường chứng khoán bị
“treo”, kéo theo sàn chứng khoán của Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM phải
ngừng phiên giao dịch sáng 2/2/2007. Đây là lần thứ hai Trung tâm giao dịch chứng khoán
TP.HCM phải ngừng giao dịch vì các “lỗi kỹ thuật”. Cũng vào thời điểm đó, Jonathan
Pincus – Kinh tế gia trưởng của Liên hiệp quốc tại Hà Nội đã cảnh báo: “Thật điên rồ, tất
cả những ồn ào ở Hà Nội đều xoay quanh chuyện chứng khoán. Tôi không biết liệu có ai
hiểu cái gì là giá trị của những công ty, song họ vẫn đang mua bán những tờ giấy”. Thực


tiễn hiện nay cho thấy, chính các nhà đầu tư đang phải chịu hậu quả thảm hại của “sự điên
rồ” ấy. Vậy đâu là nguyên nhân? Phải chăng, việc giao dịch trong tập thông tin mờ, thông
tin không đủ, thiên lệch hoặc có quá nhiều thông tin là nguyên nhân làm cho NĐT không
có, hoặc mất dần cá tính đầu tư, thúc đẩy sự lây nhiễm đám đông và hiệu ứng bầy đàn
trong đầu tư, tình trạng này làm NĐT dễ dàng chạy theo cái lợi trước mắt gây mất cân đối
cho thị trường về lâu dài.
Nhận thấy, hiện nay có rất nhiều đề tài, công trình nghiên cứu về tâm lý học cũng
như chứng khoán nhưng lại có rất ít đề tài kết hợp yếu tố tâm lý vào hành vi của nhà đầu
tư.
Từ những trăn trở trên, nhóm quyết định thực hiện đề tài nghiên cứu về yếu tố tâm
lý nhà đầu tư khi tham gia TTCK VN để mọi người có cái nhìn khách quan hơn dưới
những giác độ khác nhau từ đó trang bị cho mình những kĩ năng cần thiết khi “lên sàn”.

 
A. Phần mở đầu – Tổng quan đề tài
I- Lí do chọn đề tài
II- Cấu trúc đề tài
B. Phần I – Cơ sở lí thuyết
I- Khái niệm, đặc điểm tâm lí và tâm lí đám đông
II- Những yếu tố hình thành tâm lí NĐT
 Hành vi tài chính của NĐT
C. Phần II – Thực trạng tâm lí NĐT trên TTCK VN
I- Tổng quan TTCK thành phố HCM từ cuối năm 2006 đến cuối năm 2010
dưới góc độ tâm lý NĐT
II- Phân tích những yếu tố tâm lí NĐT
D. Phần III - Những tác động ảnh hưởng đến tâm lí NĐT
I- Những yếu tố khách quan
II- Tâm lí và văn hóa truyền thống
E. Phần IV – Kinh nghiệm cho TTCK Việt Nam
I- Những kinh nghiệm trong đầu tư chứng khoán

II- Những trang bị cần thiết cho NĐT khi tham gia TTCK

!"#$%&'(
)*+,-./,0,1230,12*,45
6)*+,0,1
Tâm lý con người là sự phản ánh chủ quan thế giới khách quan, có cơ sở tự nhiên là
hoạt động thần kinh và hoạt động nội tiết được nãy sinh từ các hoạt động sống của từng
người và gắn bó với các quan hệ xã hội, là tất cả những hiện tượng tinh thần nảy sinh
trong đầu óc chúng ta, nó tham gia điều khiển, điều chỉnh những hành vi, hành động, hoạt
động của con người. Nói cách khác tâm lý là nhận thức, trí tuệ, cảm xúc, tình cảm, ý chí
đến tính cách, ý thức và tự ý thức, là nhu cầu, năng lực, đến các động cơ hành vi, đến
những hứng thú và khả năng sáng tạo, khả năng lao động đến các tâm thế xã hội và định
hướng giá trị v.v…
Tâm lý phản ánh thế giới khách quan giúp con người nhận biết được thế giới khách
quan, phân tích, đánh giá các sự vật hiện tượng xảy ra xung quanh.Và khi đã hình thành
thì nó tác động trở lại thế giới hiện thực khách quan. Hiện tượng tâm lý liên quan chặt chẽ
với hiện tượng khác trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, … Cùng với các
hiện tượng khác tâm lý giúp con người có động lực để hành động, định hướng, điều chỉnh
mọi hoạt động của mình làm cho các hoạt động đó thích nghi với thế giới, tiến tới cải tạo
thế giới, hoàn thiện thế giới và hoàn thiện cá nhân mình.
70,12*,45

Tâm lý đám đông là hiện tượng tinh thần chung của nhiều cá nhân, phát sinh do sự
tương tác tâm lý giữa các thành viên trong đám đông hay cộng đồng; hoặc bởi tâm lý nào
đó nổi trội, có sức ảnh hưởng. Tức là ý thức cá nhân biến mất và có sự xoay chuyển tình
cảm, suy nghĩ của các cá nhân về cùng một hướng. Một tâm hồn chung được hình thành,
nó dĩ nhiên có thể biến đổi, nhưng hoàn toàn là một thể loại xác định, điều này không phải
lúc nào cũng đòi hỏi sự có mặt đồng thời của nhiều thành viên tại một địa điểm duy nhất.
Hiệu ứng đàn bầy là thuật ngữ dùng để chỉ cách mà con người bị ảnh hưởng bởi
những người xung quanh trong việc lựa chọn những hành vi, xu hướng, và cách thức ra

quyết định.


Quy luật về sự đồng nhất tâm hồn đám đông: cho dù những thành viên riêng biệt tạo
nên đám đông khác nhau kiểu gì, cho dù lối sống, việc làm, tính cách, học thức của họ
giống nhau hoặc khác nhau ra sao, chỉ cần qua sự trở thành đám đông, tất cả họ sẽ cùng có
một kiểu tâm hồn tập thể, điều này làm cho họ cảm nhận, suy nghĩ, hành động theo kiểu
hoàn toàn khác hẳn khi họ chỉ là những cá thể riêng biệt cảm nhận, suy nghĩ và hành động.

Tính bốc đồng, tính dễ thay đổi, tính dễ bị kích thích của đám đông
Đám đông hầu như chủ yếu bị điều khiển bởi sự vô thức. Hành động của họ bị
điều khiển bởi hệ thần kinh thực vật nhiều hơn là bởi não bộ.
Tính dễ bị tác động và tính nhẹ dạ của đám đông
Nguyên nhân của nó được giải thích bởi sự định hướng cực nhanh của tâm tư
tình cảm theo một chiều nào đó.
Tính thái quá và tính phiến diện của tình cảm đám đông
Tất cả các tình cảm tốt và xấu mà đám đông thể hiện ra có hai đặc điểm chính:
chúng rất đơn giản và rất thái quá.
Đạo đức của đám đông
Đám đông thường tuân theo những bản năng thấp, bản năng này dựa trên sự tự
bảo vệ lợi ích của mỗi cá nhân, tuy nhiên cũng có lúc nó tỏ ra có những hành
động cực kỳ cao thượng.
859:;<0,12*,45
Sự xuất hiện những đặc tính riêng biệt của đám đông được quyết định bởi ba
nguyên nhân khác nhau:
• Nguyên nhân đầu tiên nằm ở chỗ các thành viên của đám đông chỉ nguyên với
cái cảm giác là số đông đã có một sức mạnh vô địch, cho phép nó hiến mình
cho bản năng, điều mà khi chưa là thành viên của đám đông nó nhất thiết phải
kiềm chế.
• Nguyên nhân thứ hai là sự lây nhiễm tinh thần, thành viên của có thể hy sinh

mong muốn cá nhân cho mong muốn của cả tập thể.
• Nguyên nhân thứ ba và là nguyên nhân quan trọng nhất, nó làm cho thành viên
của đám đông bộc lộ những cá tính đặc biệt hoàn toàn mâu thuẫn với những cá
tính của những người đó khi họ chưa là thành viên của đám đông.

&3=>*,45
6&3?45@A1=>BC
Các nhà đầu tư sẽ có hành vi không hợp lý khi họ không phân tích và xử lý “đúng”
những thông tin mà họ có (và thị trường cung cấp), hoặc tiếp nhận những thông tin sai
lệch, không chính thống từ đó dẫn đến những kỳ vọng lệch lạc về tương lai của cổ phiếu
mà họ đầu tư vào. Có một số dạng lệch lạc trong nhận thức tiêu biểu trong thị trường
chứng khoán như sau:
• Phụ thuộc vào kinh nghiệm hay thuật toán (Heuristics): Dựa dẫm quá nhiều vào
các quy tắc đôi khi sẽ dẫn đến sai lầm, đặc biệt là khi các điều kiện bên ngoài
thay đổi.
• Lệch lạc do tình huống điển hình: Xu hướng không quan tâm nhiều đến những
nhân tố dài hạn, mà thường đặt nhiều quan tâm đến những tình huống điển hình
ngắn hạn.
• Bảo thủ (conservatism): Khi điều kiện thay đổi (thông tin mới về triển vọng nền
kinh tế chẳng hạn), người ta có xu hướng chậm phản ứng với những thay đổi.
• Quá tự tin (overconfidence): Có nhiều nghiên cứu tâm lý học trên thị trường tài
chính cho thấy các nhà đầu tư tỏ ra quá tự tin vào những quyết đinh của mình.
• Định nghĩa hẹp (narrow framing): Cô lập một khái niệm hay phân tích một vấn
đề trong một khuôn khổ hạn hẹp, tách biệt, và cố gắng đưa ra quyết định tối ưu
cho khuôn khổ hạn hẹp ấy, thay vì cho toàn cục.
• Tính toán bất hợp lý (mental accounting): Xu hướng tách riêng các quyết định
mà đúng ra phải được kết hợp lại với nhau vào các tài khoản ảo trong trí tưởng
tượng và tối đa hóa lợi ích từng tài khoản. Và vì thế, đôi khi chúng ta đưa ra các
quyết định nhìn tưởng là hợp lý, mà thật ra là sai lầm.
7&3?45@A1,>5+;5

Nếu chỉ một nhà đầu tư đơn lẻ có hành vi không hợp lý, thì ảnh hưởng giao dịch
của nhà đầu tư này lên giá cổ phiếu trên thị trường là không đáng kể (cho dù là một tổ
chức đầu tư lớn thì ảnh hưởng cũng rất hạn chế nếu chỉ đơn độc một mình).
Chỉ khi hành vi không hợp lý là mang tính hệ thống (nghĩa là một nhóm nhiều nhà
đầu tư cùng có một hành vi không hợp lý như nhau) thì khi ấy việc định giá sai sẽ xuất
hiện và có thể bắt đầu kéo dài.
Tính lệch lạc (bất hợp lý) trong hành vi là khá phổ biến đối với nhiều nhà đầu tư, và
do đó, nó tạo thành một dạng thường gọi là “hiệu ứng bầy đàn”, khiến cho giá một số cổ

phiếu không phản ánh giá trị “thực” (hay “hợp lý”) của chúng. Như vậy, “hiệu ứng bầy
đàn” là không tốt cho thị trường trong trường hợp chúng ta xem hiệu ứng bầy đàn là tất cả
đều hành động theo một mẫu hình hành vi lệch lạc, không hợp lý, thấy ai làm sao thì làm
vậy.
!DBE&FGHIJ%&KLGM)N
O5P>)D&J55>Q;7RRSTB7R6RCU5VW
0,1BC
Các nguyên lý của tâm lý hành vi tài chính cho thấy, nhà đầu tư càng ít hiểu biết thì
họ càng dễ bị cuốn theo ý kiến đám đông. Hành vi này là con dao hai lưỡi bởi chính
những nhà đầu tư thiếu hiểu biết là những người dễ rơi vào tình trạng lo sợ, hoảng loạn
nhất. Một triết lý hiển nhiên quen thuộc là vào bất kỳ thời điểm nào, các thị trường tài
chính luôn luôn bị chi phối bởi lòng tham và sự sợ hãi. Những thị trường mạnh nhất
là những thị trường nhộn nhịp bởi đồng thời có cả lòng tham lẫn sự sợ hãi. Nói rõ hơn,
bất cứ khi nào bạn bán cổ phiếu thì người mua nó cũng sẽ nghĩ khác về những triển vọng
tương lai của cổ phiếu đó. Bạn nghĩ nó sẽ giảm, người mua nghĩ nó sẽ lên. Hoặc bạn hoặc
người mua sẽ đúng nhưng chắc chắn chỉ thông qua sự tương tác của những thái độ khác
nhau như vậy thì thị trường mới nhộn nhịp đông kẻ mua- nhiều người bán. Sự sôi động
của TTCK Việt Nam trong năm 2006-2007, cũng như sự ảm đạm của TTCK 2009 và
tình trạng thảm hại nhất trong 10 năm vừa qua đã phản ánh phần nào triết lý ấy.
Rất nhiều lý do được đưa ra để giải thích cho sự phát triển quá nóng của
TTCK Việt Nam. Nhà đầu tư trong nước đổ lỗi cho nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư


nước ngòai đổ lỗi cho sự "điên cuồng” của nhà đầu tư trong nước. Tuy nhiên quy chung
lại phần lớn đồng tình cho rằng nguyên nhân chính là do tâm lý đầu tư bầy đàn, đầu tư
theo phong trào của các nhà đầu tư trong nước- thiếu kiến thức cũng như không có kỳ
vọng riêng, do đó chơi chứng khoán trong thời gian năm 2007 đã được báo chí nói tới
như một thứ “mốt”, một “phong trào” lan truyền nhanh hơn bất cứ dịch bệnh nào, trên
khắp cả nước. Không có gì phải chối cãi khi cho rằng hiệu ứng chứng khoán năm 2007 đã
thực sự tác động tới tất cả mọi người. Chứng khoán “nóng” tới mức hệ thống máy chủ của
thị trường chứng khoán bị “treo”, kéo theo sàn chứng khoán của Trung tâm giao dịch
chứng khoán TP.HCM phải ngừng phiên giao dịch sáng 2/2/2007. Đây là lần thứ hai
Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM phải ngừng giao dịch vì các “lỗi kỹ thuật”.
Nhưng câu chuyện TTCK thay đổi hoàn toàn trong năm 2008 – đầu năm 2009 khi
chỉ số VN-Index liên tiếp giảm, liên tục tạo nên những đáy mới. Đúng là thật khó tiên
liệu diễn biến trên TTCK Việt Nam. Mọi lý thuyết, mọi mô hình của thị trường hiệu
quả dường như vô nghĩa. Mặc dù nhà đầu tư được cảnh báo chứng khoán đã vượt quá giá
trị thật hơn 30% (2007) (số liệu VNExpress) nhưng họ vẫn mua bán, thị trường vẫn không
ngừng sôi động. Thậm chí cung không đủ cầu. Hay khi nhìn nhận thị trường ảm đạm
(2008-2009) thì họ lại kéo nhau tháo lui mà không cần xem xét nguyên nhân.
Dễ thấy thị trường chứng khoán Việt Nam không vận hành theo bất cứ một quy
luật nào. Mọi lý thuyết có vẻ như hoàn toàn thất bại. Có lẽ đã đến lúc dùng đến các lý
thuyết cơ bản dựa trên tâm lý con người để giải thích những bất thường trên TTCK.
D0859:;0,12=>BC
6&3?45@A1=>BC

Dễ dàng đưa ra các quyết định đầu tư dựa vào cảm tính, dựa vào một tin đồn,
một lời khuyên, một lời phát biểu mà không tự mình nghiên cứu để đưa ra các kết luận
của chính mình về việc mua hay bán cổ phiếu nào, giá bao nhiêu, khi nào và tại sao.
Tâm lý đó khiến cho nhà đầu tư không tự nhìn vào chính mình để đánh giá mình,
các quyết định của mình, và để tự chịu trách nhiệm. Và rất dễ dẫn đến việc trông chờ
vào người khác, để hỗ trợ, giúp đỡ. Nhưng nếu việc dựa vào người khác đó không đem

lại kết quả như mong muốn thì họ quay ra trách và đổ lỗi.
Hiện nay, phần lớn các NĐT khi tìm hiểu về một công ty để đầu tư cổ phiếu

thường chỉ chú trọng vào tiêu chí ngành, lĩnh vực mà công ty hoạt động và tình hình sản
xuất hiện tại của công ty. Mà phần lớn họ đã quên đi sự quan trọng của một số tiêu chí
khác BCTC, tình hình SXKD của công ty từ 3-5 năm phát hành, các chỉ số tài chính lien
quan đến cổ phiếu của công ty, các phân tích kỹ thuật, cơ bản của giới phân tích Rõ
ràng nếu chỉ ưu tiên cho hai chỉ số này khi tìm hiểu thông tin về một cổ phiếu nào đó
thì thật sự là rủi ro lớn, nó chỉ giúp NĐT tạm an tâm với những đầu tư tạm thời, ngắn
hạn. Một tiêu chí quyết định mà thường các NĐT ít dành sự quan tâm là ban quản trị của
công ty. Đây là nơi vạch ra những chính sách chiến lược cho sự phát triển của công ty.
Nếu một công ty không có ban quản trị tốt ứng phó linh hoạt với mọi tình huống thì cũng
đồng nghĩa sự đầu tư khó mà có thể mang lại lợi nhuận. Nhưng NĐT thường không có
thói quen đi quá sâu vào tình hình cụ thể của công ty, đây rõ ràng cũng là nhược điểm
lớn, vì một khi nắm giữ cổ phiếu của một công ty nào đó, NĐT đã trở thành người góp
vốn.
Chính những tâm lý này khiến cho nhà đầu tư tự mình tước bỏ của mình một điều
rất quan trọng-quyền biểu quyết bằng chính kiến và đồng tiền của mình-Biểu quyết về
các cổ phiếu và công ty: Cổ phiếu nào là tốt, là không tốt, công ty nào hoạt động hiệu quả
hay kém hiệu quả, ban lãnh đạo nào là giỏi hay không giỏi và qua đó gửi những thông
điệp cho các công ty tốt làm tốt hơn, các công ty chưa tốt thì cải thiện tình hình và loại
đi những công ty không tốt, không hiệu quả.
 !"#$ %&!'
Thị trường chứng khoán có thể nói nó gần như là cuộc chơi theo quan niệm của
nhiều người. Trong cuộc chơi này, luôn luôn có hai ý kiến phổ biến trái chiều nhau là
chấp nhận rủi ro lớn trong quá trình đầu tư và một ý kiến khác cho rằng cần phải phân
tích đầy đủ thông tin, hạn chế tối thiểu rủi ro và đa dạng hoạt động đầu tư. Như vậy nhà
đầu tư luôn đề ra cho mình những lý tưởng đầu tư: Phải sẵn sàn chấp nhận rủi ro, phải
phân tích đầy đủ thông tin khi ra quyết định…nhưng lý tưởng đó lại khác xa thực tế đầu
tư của họ, chỉ với thông tin chưa chính thức (giá cổ phiếu đang nắm giữ rớt mạnh) thì

phần lớn đã vội bán cổ phiếu. Nhìn lại lại thị trường cổ phiếu năm 2007 là giai đoạn bùng
nổ. Chúng ta thấy được một điều rằng là các nhà đầu tư đã không dựa vào những nhận xét
đánh giá của chính mình mà đã mua vào một cách ào ạt. Đẩy giá cổ phiếu lên cao hơn so
với giá trị thật của nó, TTGDCK Hà Nội tăng gấp 6 lần về khối lượng và 15,8 lần về giá
!"
trị giao dịch so với năm 2006. Nhưng với nỗi sợ về một thị trường bong bóng các cơ quan
quản lý nhà nước cũng như Chính phủ đã vào cuộc để giảm nhiệt thị trường bằng các biện
pháp kiểm soát thị trường chặt chẽ, ban hành những thiết chế để kiềm chế sự tăng trưởng
quá nóng của thị trường. Lập tức thị trường phản ứng một cách thoái hóa chỉ trong vòng
một tháng giao dịch đã giảm 22,6%.
Nguyên nhân chính từ thiếu nhận định đầu tư, nhầm lẫn mục đích và tiêu chí đầu
tư của chính cá nhân mình, từ đó thiếu tự tin và chánh kiến trong đầu tư. Làm cho nhà
đầu tư có sự thay đổi đầu tư khi rủi ro và nhJng bất lợi diễn ra tren thị trường.
7&3?45@A1,>5XA/
("#)* !+*, !-.-/"#012
Rất hiếm ở nơi nào mà rất nhiều phiên hoặc chỉ có người bán, hoặc chỉ có người
mua, đã lên thì lên kịch trần và đã xuống thì xuống cũng kịch sàn, đã lên thì dù có tin xấu
cũng bị bỏ qua, xuống thì dù có tin tốt cũng không thể kéo lại.
TTCK Việt Nam trong năm 2006 có mức tăng trưởng cao nhất khu vực Châu
Á- Thái Bình Dương với 145% , thậm chí đứng trên TTCK Thượng Hải với mức tăng
130%. Và đầu năm 2007 vẫn đang tăng 46% - cao nhất trên thế giới (Theo kết quả công
bố của Sở Giao Dịch Chứng Khoán) Thị trường tăng mãnh liệt đã gây sốc cho không ít
nhà đầu tư trong nước và các chuyên gia chứng khoán kể cả những nhà quản lý thị trường.
Kéo theo đó sự lo sợ nguy cơ hình thành bong bóng trên TTCK.
Nhiều nghiên cứu đã được đưa ra, cho rằng TTCK VN vẫn còn mang nặng yếu tố
tâm lý mà ở đây là tâm lý đám đông phản ứng quá mức đối với thị trường. Tất nhiên đây
cũng không phải là đặc sản của VN. Thị trường nhiều nước khác, ngay cả những nước
phát triển, cũng có những giai đoạn tương tự. Vấn đề là dường như tâm lý bầy đàn hiện
vẫn chi phối quá nhiều đến hành vi của đa số các nhà đầu tư cá nhân và ngay cả nhà đầu
tư tổ chức.

Quay lại giai đoạn phát triển đỉnh cao của thị trường chứng khoán VN năm 2007,
lúc đó dường như phong trào đầu tư rộ lên như là một thứ “mốt”, một “phong trào” lan
truyền nhanh hơn bất cứ dịch bệnh nào trên khắp cả nước. Nhà đầu tư “ăn chứng khoán,
ngủ cũng chứng khoán” rồi người ta kháo nhau rằng “Cứ mua được cổ phiếu là thắng”
Người nọ thấy người kia chỉ trong chốc lát và quá đơn giản để trở thành đại gia. Và thế là
họ ùn ùn lao vào
Đến giai đoạn thị trường bắt đầu rơi vào suy thoái và khủng hoảng thì tâm lý đám
!!
đông lại tiếp tục chi phối nhà đầu tư. Sự hoảng sợ và tháo chạy theo số đông tiếp tục kéo
thị trường ngày càng giảm điểm mạnh hơn và tiệm cận về mức đáy khi tâm lý hoảng sợ
kết thúc.
3# "    4 5 # *, 36 ( 7 8 $! '9#:
;%:,',+'
Sức nóng của TTCK còn “hút” cả anh hai lúa, bà bán đậu phộng đến ông xích lô…
gom góp tiền dành dụm cả đời đổ vào chơi chứng khoán. Họ biết phân tích cổ phiếu, biết
dự đoán khả năng hoạt động sinh lời của công ty? Không hề! Họ chơi theo tâm lý bầy
đàn. Thậm chí có nhiều người còn mua bán theo cách hoàn toàn bắt chước các nhà đầu tư
nước ngoài. Tuy nhiên điều này cũng chẳng có gì là khó hiểu cả. Khuynh hướng (bản
năng) bầy đàn giải thích tại sao con người lại thích bắt chước người khác. Khi thị trường
lên hoặc xuống, nhà đầu tư cho rằng người khác sẽ có nhiều thông tin hơn. Và hệ quả của
điều này, họ cảm thấy có sự thôi thúc ghê gớm đối với việc làm theo những gì người khác
đang làm. Các nhà tâm lý học cũng đã đưa ra nghiên cứu cho thấy hành vi đám đông
thường có khuynh hướng hành động theo một số người chủ chốt, có khả năng tiên đoán
thị trường. Trong trường hợp của TTCK Việt Nam, “sứ mệnh” đó nhiều lúc được giao
cho nhà đầu tư nước ngoài.
!
YYZ[&&L$(IJ%&KL
\]:?
6\]
Bình thường, lãi suất thực chất không là gì khác hơn ngoài chi phí mà một ngưòi

phải trả cho việc sử dụng tiền của người khác. Đối với hầu hết chúng ta thì thuật ngữ” lãi
suất” có lẽ là không có gì xa lạ. Lãi suất có thể ảnh hưởng đến toàn bộ nhà đầu tư chính là
lãi suất chiết khấu của ngân hàng trung ương (ở VN là ngân hàng nhà nước). Với những
kiến thức liên quan đến bộ môn LTTCTT, trong phạm vi bài tiểu luận, chúng tôi xin đề
cập trực tiếp đến tác động của lãi suất chiết khấu đến TTCK mà không nhắc lại một số
khái niệm cơ bản.
:< +'=$%
Sự thay đổi trong lãi suất chiết khấu đã ảnh hưởng một cách gián tiếp đến hành vi của
các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp, nhưng không dừng lại ở đó,thị trường chứng
khoán cũng bị ảnh hưởng. Như chúng ta đã biết, một trong những cách để định giá một
doanh nghiệp chính là đưa tất cả các dòng tiền kỳ vọng trong tương lai chiết khấu về hiện
tại. Lấy giá trị của doanh nghiệp chia cho số lượng cố phần đang lưu hành ta có giá trị một
cổ phần. Gía chứng khoán thay đổi tuỳ theo các kỳ vọng khác nhau của nhà đầu tư về
công ty ở các thời điểm khác nhau. Do đó mà nhà đầu tư sẵn sàng mua hoặc bán cổ phần ở
các mức giá khác nhau.
Một khi doanh nghiệp bị thị trường nhìn thấy là sẽ cắt giảm các chi phí đầu tư
tăng trưởng hoặc là doanh nghiệp đang tạo ra lợi nhuận ít hơn vì chi phí vay nợ tăng cao
hoặc là doanh thu sụp giảm do người tiêu dùng thì dòng tiền tương lai được dự đoán sẽ
giảm đi. Và hệ quả là giá cổ phần của doanh nghiệp sẽ thấp xuống. Nếu số lượng doanh
!
nghiệp trên TTCK có sự sụp giảm này đủ lớn thì xét toàn bộ thị trường, chỉ số thị trường
chứng khoán sẽ giảm.
: &!'
Đối với nhiều nhà đầu tư, thị trường đi xuống hoặc giá chứng khoán sụt giảm là
điều không hề mong muốn. Nhà đầu tư nào cũng kỳ vọng giá trị khoản đầu tư của mình sẽ
không ngừng tăng lên, có thể là ở dạng lãi vốn, cổ tức hoặc cả hai. Nhưng với kỳ vọng về
sự tăng trưởng trong tương lai thấp hơn và dòng tiền trong tương lai của doanh nghiệp
không tốt như mong đợi, chắc chắn không nhà đầu tư thông minh nào tiếp tục đánh giá
cao doanh nghiệp, nhà đầu tư sẽ mong đợi ít hơn khi sở hữu các cổ phần.
Hơn nữa, đầu tư vào cổ phiếu có thể được xem là rủi ro hơn so với việc đầu tư vào

các lĩnh vực khác. Khi ngân hàng trung ương công bố tăng lãi suất chiết khấu, thường sẽ
kèm theo là các chứng khoán chính phủ mới được phát hành thí dụ như trái phiếu chính
phủ. Đây được xem là cơ hội đầu tư an toàn nhất. Nói cách khác, lúc này tỷ suất sinh lợi
phi rủi ro sẽ tăng và do đó đầu tư vào trái phiếu chính phủ và các cơ hội đầu tư tương tự
trở nên hấp dẫn hơn. Nếu nhà đầu tư vẫn tiếp tục trung thành với các cổ phiếu thì họ sẽ
nâng tỷ suất sinh lợi đòi hỏi của mình lên để bù đắp cho phần rủi ro tăng thêm một lượng
gọi là phần bủ rủi ro. Tỷ suất sinh lợi mong đợi từ việc nắm giữ cổ phiếu bao gồm tổng
của tỷ suất sinh lợi phi rủi ro và phần bù rủi ro thị trường. Dĩ nhiên là độ lớn của phần bù
rủi ro khác nhau với mỗi nhà đầu tư, tuỳ thuộc vào khả năng chịu đựng rủi ro cũng như
doanh nghiệp mà họ đầu tư. Tuy nhiên nói một cách tổng quát thì, khi ngân hàng trung
ương tăng lãi suất chiết khấu, lãi suất phi rủi ro cũng tăng theo, và do đó tổng tỷ suất sinh
lợi đầu tư đòi hỏi cũng sẽ tăng. Do vậy, nếu phần bù rủi ro đòi hỏi giảm trong khi tỷ suất
sinh lợi tiềm năng vẫn như cũ hoặc thậm chí là thấp hơn, thì chắc là nhà đầu tư sẽ cảm
thấy đầu tư vào cổ phiếu trở nên rủi ro hơn và kết quả là họ sẽ chuyển tiền của mình vào
các lĩnh vực đầu tư khác.
^C_5`O5+Q
Có thể nói thị trường Việt Nam cũng là một trong những thị trường bất ổn nhất thế
giới. Điều đó ảnh hưởng khá nhiều đến tâm lý nhà đầu tư kể cả nhà đầu tư nước ngoài. Chỉ
mới 2 tháng đầu năm 2011 chỉ số CPI tăng cao vượt ngưỡng, tốc độ lạm phát tăng ảnh
hưởng đến nhận định rủi ro cao cho NĐT. Hơn nữa kèm theo là giá xăng, giá điện tăng
!
gây tâm lí hoang mang, lãi suất cao vì thế nhà đầu tư càng có xu hướng bỏ TTCK => thị
trường chững lãi. Trong phạm vi kiến thức cho phép, chúng tôi đã nhận diện một số rủi ro
trong thị trường chứng khoán ảnh hưởng đến tâm lí NĐT.
6G=>?aA
Tính thanh khoản thấp của chứng khoán mà nhà đầu tư đang sở hữu có thể do chứng
khoán đó khó và thậm chí không thể bán được, hoặc không được phép bán hay chuyển
nhượng nhằm thu hồi vốn đầu tư. Thật không may cho nhà đầu tư chứng khoán, khi vì một
lý do nào đó, chứng khoán đã mua là của một công ty có tình trạng tài chính thiếu lành
mạnh và triển vọng cung cấp các yếu tố đầu vào, cũng như khả năng tiêu thụ sản phẩm

thiếu hiệu quả vững chắc.
Thậm chí, chỉ cần một sự thay đổi nhân sự cấp cao trong công ty cũng có thể khiến
giá chứng khoán đó sụt giảm. Và rủi ro đối với nhà đầu tư sẽ là tối đa khi công ty phát
hành chứng khoán bị phá sản và biến mất trên thương trường. Nhà đầu tư chứng khoán
cũng có thể chịu rủi ro do “bỏ hết trứng vào một giỏ”. Thậm chí, việc sở hữu thuần túy các
cổ phiếu ưu đãi mà không được chuyển nhượng trong thời hạn nhất định (thường từ 3-5
năm) cũng có thể khiến nhà đầu tư gặp rủi ro, nhất là khi cần tiền để trả lãi vay ngân hàng
hoặc muốn rút vốn về để đầu tư vào chỗ khác. Ngay cả những chứng khoán tốt nhất cũng
có thể không giữ vững được vị thế lâu dài trước sự biến động của thị trường. Điều này
cũng đồng nghĩa với việc các nhà đầu tư chứng khoán này có thể phải hứng chịu cả hai
thiệt hại dạng “khấu hao hữu hình” và “khấu hao vô hình” giá trị và tính thanh khoản của
các chứng khoán đang nắm giữ.
7G=b45
Thật hiếm có hoạt động kinh doanh nào mà sự thành bại của nhà đầu tư lại đòi hỏi và
gắn liền với yêu cầu về tính đa dạng, tính hệ thống, toàn diện, cập nhật và chính xác của
các thông tin có liên quan trực tiếp và gián tiếp như đầu tư chứng khoán.
Chân dung nhà đầu tư chứng khoán điển hình là người luôn háo hức trước mọi tin
đồn và hăng hái góp phần vào tin đồn; luôn cảnh giác đề phòng và cũng rất nhẹ dạ, cả tin;
ranh ma và nhạy cảm; quen biết nhiều, nhưng không kết bạn thân với ai trong làng chứng
khoán. Và trong số họ, ai nắm được thông tin tốt hơn cả thì sẽ dễ dàng chiến thắng và
giảm thiểu được nhiều rủi ro.
!
Nói cách khác, rủi ro trong kinh doanh chứng khoán có nguồn gốc rất sâu đậm từ số
lượng và chất lượng thông tin mà nhà đầu tư cần để làm cơ sở đưa ra các quyết định đầu
tư. Rủi ro luôn rình rập ở mọi nơi và nhà đầu tư sẽ phải trả giá sớm hay muộn, đắt hay rẻ,
khi không nắm được các thông tin chính xác nhất, đầy đủ và kịp thời nhất liên quan đến
môi trường đầu tư, chất lượng chứng khoán và tình hình thị trường
Một báo cáo tài chính hoặc cáo bạch chưa được kiểm toán, thẩm định bởi các tổ
chức độc lập, chuyên nghiệp, có uy tín và trình độ chuyên môn cao; một thông tin đến
chậm hoặc bị cắt xén, không chính xác về hoạt động kinh doanh của công ty phát hành cổ

phiếu, về môi trường pháp lý và về các nhà đầu tư khác trên cùng “sân chơi”, hoặc đơn
giản là về tình hình thời tiết hay dịch bệnh nào đó đều có thể gây ra thiệt hại khôn lường
cho nhà đầu tư chứng khoán.
cG=b*P9^31C@5^3d=>]5>
Vì yêu cầu đặc thù đòi hỏi bắt buộc kinh doanh chứng khoán phải thông qua các tổ
chức trung gian, môi giới, nên các nhà đầu tư có thể phải chịu nhiều rủi ro liên quan đến
các quy định, quy trình nghiệp vụ và chất lượng dịch vụ của các tổ chức trung gian. Điển
hình là các rủi ro liên quan đến việc tổ chức khớp lệnh và phân lô giao dịch cổ phiếu trên
thị trường chứng khoán có tổ chức.Việc khớp lệnh định kỳ gây rủi ro cho nhà đầu tư vì họ
không thể hủy ngang lệnh đã đặt trước khi kết thúc phiên khớp lệnh, bất chấp những biến
động mới bất lợi trên thị trường, nếu họ không muốn chịu phạt về sự thay đổi quyết định
này. Khớp lệnh định kỳ có thể gây rủi ro cho nhà đầu tư vì dễ gây tình trạng cung - cầu ảo
trên thị trường và cả tình trạng nghẽn mạch, quá tải hoặc phân biệt đối xử theo kiểu bỏ rơi
nhà đầu tư nhỏ ở các sàn giao dịch.
Tuy vậy, việc khớp lệnh định kỳ này cũng có thể tạo cơ hội để nhà đầu tư giảm bớt
thiệt hại khi hủy lệnh đã đặt sau khi khớp lệnh đối với các chứng khoán còn dư chưa xử lý
hết trong phiên giao dịch gần nhất mà họ tham dự. Trong khi đó, việc khớp lệnh liên tục,
mặc dù cho phép các nhà đầu tư đặt lệnh thận trọng, chính xác hơn, được giải quyết nhu
cầu mua - bán nhiều hơn, nhanh chóng, bình đẳng hơn và giảm thiểu tình trạng cung - cầu
ảo trên thị trường chứng khoán, song có thể gây rủi ro cho nhà đầu tư ở chỗ: khớp lệnh
liên tục là giao dịch trên cơ sở khớp liên tục các lệnh mua- bán chứng khoán ngay khi lệnh
được nhập vào hệ thống giao dịch, không phải chờ đến thời điểm định kỳ như kiểu khớp
lệnh định kỳ.
!
Trong nguyên tắc xử lý khớp lệnh liên tục này thì quyền ưu tiên luôn dành cho các
lệnh mua có mức giá cao hơn và các lệnh bán có mức giá thấp hơn. Trường hợp các lệnh
mua và bán có đồng mức giá thì quyền ưu tiên sẽ dành cho lệnh nhập vào hệ thống giao
dịch trước.
Đến đây, rủi ro cho nhà đầu tư có thể xuất hiện theo hai cách: hoặc rủi ro vì lệnh
mua - bán của họ bị nhập vào hệ thống chậm hơn so với các nhà đầu tư khác có lệnh

tương tự nên không thực hiện được sớm hoặc hết các lệnh đã đặt; hoặc rủi ro vì họ buộc
phải mua - bán bằng hết các chứng khoán đã đặt lệnh theo mức giá thị trường thời điểm
hiện hành cao (khi mua vào) hoặc thấp hơn (khi bán ra) so với mức lệnh đã đặt.
eG=b*W5^C_5
Các nhà đầu tư chứng khoán, nhất là các nhà đầu tư nhỏ, có thể phải gánh chịu nhiều
rủi ro liên quan đến các chấn động thị trường trong nước hoặc nước ngoài gây ra, bởi:
- Các trào lưu mua, bán chứng khoán theo tâm lý đám đông làm phá vỡ các quy luật
vận động bình thường của thị trường.
- Các hoạt động đầu cơ, tung tin đồn thất thiệt, gây nhiễu thông tin và tự đánh bóng,
thổi giá hoặc thậm chí lừa đảo và thông đồng có tổ chức của các nhà đầu tư chuyên nghiệp
đủ sức gây biến động thị trường hòng trục lợi.
- Các chấn động thị trường khác từ nước ngoài như cuộc khủng hoảng tài chính - tiền
tệ châu Á hồi năm 1997 là một ví dụ điển hình.
fG=1Q,A*
Trước tiên là khả năng kiếm lời không đuổi kịp sự mất giá của đồng tiền đã bỏ ra
đầu tư. Và khi sức mua của đồng bạc giảm sút do giá tiêu dùng tăng sẽ kéo theo lãi suất
tăng. Tác động của lạm phát lên cổ phần và cổ phiếu, theo đó, thể hiện ở nhiều chừng mực
khác nhau và rất phức tạp. Khái quát có thể nên biết rằng các trái phiếu càng dài hạn càng
bị mất giá nhiều hơn loại ngắn hạn, các cổ phần thuộc về các công ty tiện ích có thể bất lợi
vì không dễ tăng giá, cổ phần ưu đãi bị mất giá nhiều so với cổ phần thường, …
SG=`^d3;
Nhà đầu tư – đặc biệt là trong TTCK- có thể bị mất một phần hoặc toàn bộ vốn đã bỏ
ra do tiên đoán trật, hoặc do những hoàn cảnh bất lợi ập đến từ bên ngoài chứ không phải
!
vì sức khoẻ công ty. Ví dụ một ảnh hưởng tâm lý xa lánh, tẩy chay đối với một sản phẩm
hay ngành sản xuất, sự thay đổi tập quán tiêu dùng,
gG=B,;C@5
Người ta vẫn có thể bị lầm lẫn trước một quyết định tồi, ngay cả khi mọi thứ đã bày
công khai ra trước mắt. Sự chủ quan hoặc hời hợt có thể cũng xui khiến ta làm sai mong
đợi. Đó là lúc người đầu tư quyết định khi mua phải một loại chứng khoán không sinh lợi

hoặc thậm chí lỗ.
hG=`Ai5_
Mua hoặc bán cổ phần hoặc chứng khoán sai thời điểm cũng được xem là một rủi ro
vì nó có thể dẫn đến lỗ lã hoặc bị hớ giá mất ăn. Bán quá bèo hoặc mua quá cao ngay ở
các ngưỡng biến động có khi là một thiệt hại đáng kể.
jG=31\]
Người ta còn gọi đây là rủi ro mất khả năng tái đầu tư. Loại rủi ro này thường xảy ra
đối với người đầu tư vào chứng khoán có thu nhập đều đặn, do họ không thể dùng tiền lãi
hoặc tiền gốc để mua lại loại chứng khoán cùng mức cũ. Khi lãi suất thị trường tăng, giá
thị trường của các chứng khoán có thu nhập ổn định sẽ giảm. Các trái phiếu dài hạn và cổ
phiếu ưu đãi bị rủi ro cao nhất do bị mất giá. Ngược lại các chứng khoán ngắn hạn, do sẽ
được đáo hạn trong một thời gian ngắn, khả năng tái tạo nhanh, nên không bị ảnh hưởng
nhiều so với biến động của lãi suất cổ phần thường cũng sẽ có biến động mặc dù mối liên
hệ không có gì là rõ ràng.
6RG=3
Đây là rủi ro trực tiếp và đôi khi thảm hại do công ty phát hành làm ăn thất bại hoặc
phá sản, đe doạ người đầu tư thiệt hại một phần hoặc mất trọn số tiền đã bỏ ra mua chứng
khoán.
!
66G=A*A:
Sự thay đổi của luật pháp hiện hành có thể tác động xấu đến một số hoạt động đầu tư
đang tồn tại. Sự thay đổi về chính sách của chính phủ cũng có thể là rủi ro của nhiều nhà
đầu tư. Tuy nhiên, đây lại chính là công cụ điều hành vĩ mô của Nhà nước.
Ngoài ra, các nhà đầu tư còn chịu các rủi ro liên quan đến các chính sách của Chính
phủ, như: chính sách hai giá trong phát hành cổ phiếu (giảm giá từ 20-40% cho các nhà
đầu tư chiến lược hoặc cán bộ, công nhân viên của công ty cổ phần hóa lần đầu); những
thay đổi trong chính sách tỷ giá, lạm phát, tỷ lệ nắm giữ cổ phần trong công ty cổ phần của
các nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư nước ngoài; chính sách xuất nhập khẩu, độc
quyền hoặc các quan hệ quốc tế song phương, đa phương Cuối cùng, rủi ro lớn nhất và
cũng là nguồn cội của mọi rủi ro trong đầu tư chứng khoán chính là rủi ro từ sự sai lầm do

thiếu hiểu biết, thiếu kỹ năng tổng hợp, phân tích và phản ứng thị trường nhạy bén, chính
xác của bản thân nhà đầu tư Đã qua rồi những cơ hội ngắn ngủi và các ảo tưởng về kinh
doanh chứng khoán đơn giản chỉ là mua chứng khoán vào, “đợi giá lên một chiều và khi
cần tiền thì bán ra”.
0,1233kV>9;5
6[Cl53kV>9;5:m5?*
Để kịp thời đi theo thời đại và tạo điều kiện huy động vốn sử dụng trong quá trình
công nghiệp hóa-hiện đại hóa cũng như tiếp cận với nền kinh tế thị trường thế giới….với
những yêu cầu trên thì thị trường chứng khoán đã ra đời ở nước ta. Tháng 7/2000, thị
trường chứng khoán trong nước bắt đầu khởi động những bước đi đầu tiên lúc ấy sàn giao
dịch còn rất nhỏ bé , “hàng hóa”thì khan hiếm,và nó chỉ mới có mặt ở TP.HCM. Tại Hà
Nội do chưa hội đủ các yếu tố nên mãi đến tháng 3/2005, sàn giao dịch mới được khai
trương.Tuy chỉ mới “ra đời” không bao lâu nhưng thị trường chứng khoán đã bắt đầu
chứng tỏ là một thương trường mới nhiều khó khăn và thách thức đối với các nhà đầu tư
(tuy lợi nhuận và vốn thu từ các sàn giao dịch là không nhỏ). Nó vừa chịu ảnh hưởng các
“thông số”biến động của thế giới, lại chịu ảnh hưởng trong và ngoài nước vô cùng phức
tạp.
!
Với những khó khăn và thách thức như vậy,đòi hỏi các nhà đầu tư phải có một trình
độ văn hóa, tư duy, cũng như một đầu óc phán đoán nhạy bén với các “thông số” trên thị
trường. Nhưng ít ai biết được “văn hóa truyền thống” dân tộc đã ảnh hưởng không nhỏ
đến tâm lý và khả năng “làm kinh tế” của họ. Các nhà đầu tư đã vô tình “ứng dụng”các
đặc trưng văn hóa “nông nghiệp-làng xã” vào hoạt động kinh doanh của mình. Từ đó, đã
hình thành cái văn hóa mà các chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh, hình
thành nên những kiểu kinh doanh “ổn định” và “đặc thù” chính họ.
Thay vì đem lại những lợi ích ưu điểm cho nhà đầu tư chứng khoán thì “văn hóa
truyền thống” lại có quá nhiều điểm không phù hợp với việc “kinh doanh chứng khoán”
hiện nay.Nó chủ yếu làm hạn chế những khả năng kinh doanh, xây dựng cũng như sức hấp
dẫn của chứng khoán đối với NĐT.
7859:;.C5=>3kV>455+AaCl5:0,15C_nm5

?*
:6
Như ta biết tính cộng đồng là sự liên kết các thành viên trong làng xã với nhau, mỗi
người đều hướng tới những người khác. Con người trong xã hội nông nghiệp thường chú
trọng đến các mối quan hệ.Từ đó, dẫn đến việc thủ tiêu vai trò cá nhân, làm cho người
Việt Nam thiếu hụt những cá tính mạnh mẽ, mỗi con người chưa thực sự phát trỉên với tư
cách là một chủ thể tự chủ, môi trường xã hội mang đậm tính cộng đồng không thể khuyến
khích cao độ những động lực và lợi ích, tài năng sáng tạo của cá nhân.Trong khi thời đại
nhiều thách thức như bây giờ, người chiến thắng là những nhà doanh nhân can đảm với
những khát khao cháy bổng và một đầu óc phán đoán cực kì nhạy cảm. Đó là những người
biết tạo cho mình một văn hóa kinh doanh mới, một văn hóa mang tính cá nhân cao độ,
không còn quá lệ thuộc vào các mối “quan hệ nông nghiệp” như trước. Yếu tố tâm lý đám
đông chi phối mạnh.
6>
Nhân vật trung tâm trong nền văn hoá truyền thống chủ yếu là con người nông
thôn,với các tính cách hay dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể,chịu ảnh hưởng tư tưởng “kéo theo”
một cách khá mạnh mẽ từ tập thể: nước trôi thì bèo trôi, nước nổi thì thuyền nổi… đó là
"
một tư tưởng cầu an.Từ đó, đã hình thành nên tâm lí “ăn theo”trong việc kinh doanh cũng
như thị trường chứng khoán, chứ chưa phải là con người kinh doanh.
+
Con người Việt Nam trong nền văn hóa nông nghiệp làng xã có tính tự trị khá cao,
những người vùng nào thì chỉ biết vùng đó, đôi khi cả cuộc đời họ cũng không bao giờ
bước chân ra khỏi “lũy tre” làng. Với cuộc sống và các mối quan hệ ổn định nên người
Việt Nam thường có lối suy nghĩ đơn giản, tùy tiện, manh mún, phân tán,t hiếu hệ thống…
tính hợp tác,ỷ vào khả năng xoay sở của mình , không nhìn xa trông rộng.Đây chính là
những tối kị trên thương trường , chính những điều này đã làm cho các nhà đầu tư chứng
khoán gặp không ít khó khăn trong việc nắm bắt và phân tích ,tìm hiểu các “thông số” để
đưa ra chính sách đầu tư hợp lí nhất để thu lợi nhuận cao. Chính những yếu kém về tâm lí
mà nhà đầu tư thường gặp nhiều khó khăn trong việc quyết địnhkịp thời  dẫn đến những

hậu quá khó lường.
Từ những hạn chế của nền “văn hóa truyền thống” làm nảy sinh tâm lý về số phận.
Phản ánh một tâm lý thiếu tự tin hay bất an nào đó,vì cảm thấy không an toàn trong một
môi trường rủi ro, cảm thấy bất lực không làm chủ được cuộc sống  xuất hiện xu hướng
cục bộ, trong khi yêu cầu của xã hội hiện đại cần sự hợp tác theo quan hệ chức năng, thích
vào quen biết.Và nếu cái gì cũng dựa vào sự vất vả chạy chọt thì chắc chắn xã hội không
thể vận hành một cách lành mạnh được huống gì trong “kinh doanh thị trường chứng
khoán”, là một nơi với nhiều “thông số” phức tạp.
Nói vậy, nhưng không phải nền văn hóa nông nghiệp truyền thống lại không đem
đến những lợi ích cho người chơi chứng khoán: nhờ vào tính cộng đồng mà người chơi ở
Việt Nam thường có tâm lí hỗ trợ lẫn nhau nên thị trường không bị một số cá nhân “lũng
đoạn” chi phối như một số nước có nền văn hóa du mục.Mặt khác ,nhờ vào tính tự trị mà
thị trường trong nước thường ổn định hơn so với thị trường thế giới (dù bị thị trường thế
giới tác động tới cũng không nhỏ)
Nhìn chung thì văn hóa truyền thống nông nghiệp mang đặc tính làng xã, cộng đồng
vì vậy, cần phải hình thành và đào tạo ra những con người việt nam thế hệ mới với một ý
thức văn hóa mới mang truyền thống văn hóa dân tộc nhưng phải thích hợp với cơ chế
thời hiện đại mà đặc trưng là tính năng động.
!
o)5+,)N
)5+,53+BCm5?*
685]>1B,C_55.A5BCm5?*
Một phần quan trọng trong bất cứ chiến lược đầu tư nào đó là xây dựng một
phương pháp hiệu quả nhất khi bán cổ phiếu.Thoạt nghe thì có vẻ dễ dàng nhưng trên
thực tế thì nhiều nhà đầu tư đã mắc phải các sai lầm khiến lợi nhuận của họ tan biến thành
mây khói Bán cổ phiếu là một bước đi bắt buộc trong quy trình đầu tư để thu lợi nhuận.
Thật đáng tiếc, chúng ta không phải là những chiếc máy tính và khả năng tư duy phân tích
của chúng ta có thể làm cho kết quả bán cổ phiếu tốt đẹp hơn hay tồi tệ hơn mức trung
bình.
Sẽ có không ít lần bạn bán cổ phiếu quá sớm hay bán quá muộn vì chờ giá lên.

Điều này cũng là bình thường khi các quyết định của bạn dựa trên kinh nghiệm hay cảm
tính. Thậm chí không ít trường hợp mọi thứ sẽ tồi tệ hơn rất nhiều nếu các quyết định bán
cổ phiếu bị nỗi sợ hãi của bạn ảnh hưởng.
Trên thực tế, rất nhiều nhà đầu tư đã bán cổ phiếu dựa nhiều trên yếu tố cảm xúc và
do vậy đã mắc các sai lầm đáng tiếc. Hãy phân tích các sai lầm khi bán cổ phiếu dưới đây
và chắc chắn bạn sẽ rút ra được nhiều bài học bổ ích:
>:Ad5k,58OA:/31@Xn
Khi một cổ phiếu đột ngột tăng giá, bạn có thể lưỡng lự với việc bán nó, thậm chí
cả khi bạn cảm thấy mức giá đã tăng quá cao và quá nhanh.Sẽ luôn có khả năng rằng bạn
bán cổ phiếu và sau đó giá tiếp tục tăng cao. Nhưng cũng không ít trường hợp đây là việc
làm tốt nhất để bảo vệ các khoản lợi nhuận của bạn.
`)45.>*,dp5*a
Một cách để loại bỏ yếu tố cảm xúc ra khỏi thời điểm bán cổ phiếu đó là đặt ra các
mục tiêu giá cao và giá thấp cho việc tái định giá khoản đầu tư. Bạn không nên nhất thiết
phải bán cổ phiếu khi giá tăng lên đến mục tiêu trên nhưng ít nhất bạn nên xem xét kỹ
lưỡng lại,khi đó việc tuân theo các quy tắc cố định khi bán cổ phiếu khi giá giảm xuống
đến một tỷ lệ nhất định có thể giúp bạn ngăn ngừa những khoản thua lỗ đáng kể.
;5q5r`*sCU5^C_5
Rất khó để dự đoán chính xác khi nào thị trường đi lên và khi nào thị trường đi
xuống, cũng như khi nào lên đến đỉnh và khi nào xuống đến đáy. Thậm chí cả khi thị

trường chứng khoán đi theo đúng những chiều hướng chung, cũng sẽ có những ngày lên
cao và những ngày xuống thấp. Việc nỗ lực bán và mua cổ phiếu dựa trên những dự đoán
về sự thay đổi từng ngày là vô cùng khó khăn.
1q5P*3*?a:
Thuế có thể lấy đi một lượng tiền đáng kể trong các khoản lợi nhuận của bạn. Thậm
chí nếu các khoản đầu tư của bạn là dài hạn, thông thường các quy định về thuế thường ở
mức 15% lợi nhuận thu về.Tuy nhiên, việc tránh các khoản thuế có thể không phải là lý do
tốt để tiếp tục giữ cổ phiếu trong danh mục đầu tư. Có nhiều chiến lược đầu tư phổ biến có
thể được sử dụng để tránh các gánh nặng về thuế, nhưng thực tế không có nhiều việc bạn

có thể làm nhằm loại bỏ hoàn toàn mức thuế phải chịu.Do vậy, nếu đã đến thời điểm bán
cổ phiếu, bạn nên quyết tâm thực hiện và đừng quá lo lắng về các khoản thuế.
t)45P>0,U*?aBC=>`Q
Danh mục đầu tư chứng khoán của bạn cần được đánh giá định kỳ theo những yếu
tố cơ bản nhằm đảm bảo rằng bạn không bỏ lỡ mất các dấu hiệu cho thấy đã đến lúc để
bán cổ phiếu. Một trong những lý do hợp lý để bán cổ phiếu đó là khi xuất hiện những
thông tin xấu về công ty phát hành Bạn nên đánh giá lại khoản đầu tư của mình khi công
ty thay đổi ban quản lý, khi công ty tuyên bố sẽ sáp nhập haymua lại một công ty khác,
khi các đối thủ cạnh tranh mạnh gia nhập thị trường và khi một vài nhà quản trị cấp cao
bán ra một số lượng lớn cổ phiếu .
Danh mục đầu tư chứng khoán của bạn cần được đánh giá định kỳ theo những yếu
tố cơ bản nhằm đảm bảo rằng bạn không bỏ lỡ mất các dấu hiệu cho thấy đã đến lúc để
bán cổ phiếu. Một trong những lý do hợp lý để bán cổ phiếu đó là khi xuất hiện những
thông tin xấu về công ty phát hành. Bạn nên đánh giá lại khoản đầu tư của mình khi công
ty thay đổi ban quản lý, khi công ty tuyên bố sẽ sáp nhập haymua lại một công ty khác,
khi các đối thủ cạnh tranh mạnh gia nhập thị trường và khi một vài nhà quản trị cấp cao
bán ra một số lượng lớn cổ phiếu .
Tóm lại, dễ dàng thấy được những sai sót trên thị trường chứng khoán luôn xảy ra
mặc dù không phải khi nào cũng là những sai lầm ngớ ngẩn. Điều quan trọng đối với một
nhà đầu tư giỏi đó là phải biết loại bỏ yếu tâm lý cùng cái tôi cá nhân ra khỏi quá trình

mua bán cổ phiếu, phải định trước mức giá bán để cứ thế mà thực hiện chứ không để tình
cảm xen vào làm hỏng mọi việc.
Đặc biệt các sai lầm mà người đầu tư hay thường gặp lớn nhất là:
- Quá tự tin vào khả năng dự đoán trước diễn biến của thị trường và hoạt động của các quỹ
đầu tư.
- Quá trung thành với những thất bại.
- Chỉ nhìn thấy lãi.
- Quá thiển cận.
- Phớt lờ những chi phí theo thời gian.

Nếu biết nhìn nhận sâu sắc hơn về những sai lầm có thể mắc phải cũng như những ảnh
hưởng của chúng đối với việc kinh doanh, bạn sẽ dễ dàng thành công hơn.
74<3Cn51>3VB,<Q
Khó khăn nhất trong việc ra quyết định đầu tư là bạn phải phán đoán được những gì
sẽ xảy ra trong tương lai. Điều quan trọng là bạn phải học cách phân tích những dữ liệu,
biểu đồ, kết quả kinh doanh hiện tại, rồi định hướng điều gì sẽ xảy ra, và không lung lay
quyết định của mình.
Chỉ những ai mới tham gia thị trường mới chú ý nhiều đến lợi ích ngắn hạn. Tuy
nhiên, không phải nhà đầu tư nào (dù đã tham gia thị trường lâu năm) cũng có thể có được
tầm nhìn dài hạn và dễ dàng trút bỏ tâm lý “mua vào, bán ra và kiếm nhiều tiền trong thời
gian ngắn”.Những nhà đầu tư dài hạn thường chọn chiến lược “mua và giữ” (buy and
hold), tức là thực hiện chiến lược mua cổ phiếu và giữ chúng trong thời gian rất lâu, bất
chấp sự “chao đảo” (nếu có) của chúng trên thị trường chứng khoán.Không thể nói việc
quan tâm đến tầm nhìn dài hạn tốt hơn là quan điểm ưu tiên lợi nhuận ngắn hạn, hay
ngược lại, song nếu bạn là người không có kinh nghiệm, nguồn tài chính lại không dồi
dào, hạn chế về khả năng phân tích và thiếu sự đào tạo bài bản, và cũng không có niềm
ham mê lắm, thì tốt nhất bạn không nên là nhà đầu tư dài hạn. Đó cũng là lý do giải thích
tại sao hầu hết mọi người không phù hợp với ngành nghề đầu tư dài hạn này.
cQ]95u,l?1r>459
Các công ty lớn thường sở hữu những cổ phiếu tốt nhưng lại không phải là khoản
đầu tư sinh lời nhiều. Có hàng ngàn các công ty nhỏ hiện tại nhưng đầy tiềm năng sẽ trở

thành những doanh nghiệp lớn trong tương lai. Đi cùng với nó đương nhiên sẽ có rất nhiều
cổ phiếu có triển vọng, thuộc hàng blue-chip (cổ phiếu có giá).Tất nhiên, danh mục đầu tư
của bạn không nhất thiết chỉ toàn những công ty có số vốn nhỏ, nhưng hãy hiểu rằng:
ngoài những cái tên nổi tiếng bạn nghe thường ngày, vẫn còn những công ty ít được mọi
người biết tới. Vậy thì bạn hãy quan tâm đến chúng, vì chúng có thể sẽ cho bạn lợi nhuận
khổng lồ trong nay mai.Tùy theo hoàn cảnh của mình, bạn có thể áp dụng một hoặc tất cả
các nguyên tắc trên đây để tìm kiếm cơ hội thành công trong đầu tư trên thị trường chứng
khoán. Hy vọng rằng những nguyên tắc này sẽ giúp bạn có cái nhìn sâu sắc hơn, đưa ra

được các quyết định cẩn trọng hơn và sẽ trở thành nhà đầu tư dài hạn thành công.
Nói tóm lại,để nhà đầu tư thành công trên thị trường chứng khoán thì cần phải có
một tầm nhìn hoạch định chiến lược lâu dài,biết kiểm soát rủi ro.Đặc biệt cần phải có các
nguyên tắc đầu tư riêng như cổ phiếu mua có đặc điểm gì,khi nào mua bán….Đồng thời
phải biết cách quản lý tài chính của mình,bao gồm chi bao nhiêu tiền để đầu tư,huy động
nguồn vốn bằng cách nào,kế hoạch giải ngân ra sao….Phải biết cắt lỗ,chốt lãi tại thời
điểm lời.Có chế độ làm việc độc lặp và kiên trì.
85>5`^B:BC?>,5>C_5m5
?*
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải hơn 10 năm phát triển,tuy nhiên khái
niệm thị trường chứng khoán vẫn còn xa lạ với khá nhiều người.Để thị trường chứng
khoán thực sự phát triển và đi vào có chiều sâu,nên trang bị về kiến thức cũng như kinh
nghiệm cho các nhà đầu tư.
6N?:m
Đầu tiên các nhà đầu tư phải nắm rõ và am hiểu về luật chứng khoán,hiểu rõ và đúng
các khái niệm cơ bản về chứng khoán,có kiến thức cơ bản về tài chính-ngân hàng,để có
thể phân tích,đọc hiểu các bảng báo cáo tài chính,bản cân đối kế toán.Học cách đọc
bảng,tính các chỉ số cơ bản của chứng khoán.Tiếp theo phải học các thủ thuật lướt
sóng,các kinh nghiệm của các nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước.Điều quan trọng là phải
thường xuyên thu nhập thông tin để có cái nhìn đúng và toàn diện về thị trường

7!:A0v];=>459A*m5?*
Những người chơi chứng khoán thường sử dụng những chỉ số cơ bản về hoạt động
kinh doanh của những công ty phát hành cổ phiếu để xác định cổ phiếu được đánh giá
đúng mức hay quá mức. Tuy nhiên, sẽ là không đủ nếu bạn chỉ xem xét một chỉ số nào đó,
bạn cần phải đánh giá tổng thể tất cả các chỉ số mới có thể đưa ra được kết luận gần đúng
rằng: loại cổ phiếu này có đáng mua hay không. Một số cách phân tích:
Chỉ số P/E
Dòng tiền rỗi
Khấu trừ nợ

c!:_/,`* 51 
Phần lớn những người mới chơi chứng khoán đều không biết chính xác khi nào cần
phải bán cổ phiếu.Thực tế thì việc chọn thời điểm bán thường khó hơn thời điểm
mua.Nhưng chính điều này mới quyết định lợi nhuận của những người chơi cổ phiếu
Phần lớn những người mới chơi chứng khoán đều không biết chính xác khi nào cần phải
bán cổ phiếu.Thực tế thì việc chọn thời điểm bán thường khó hơn thời điểm mua.Nhưng
chính điều này mới quyết định lợi nhuận của những người chơi cổ phiếu
Xác định mức giá bán
Các chuyên gia khuyên: khi mua cổ phiếu của một hãng nào đó, bạn nên định ngay giá có
thể bán được chúng. Bạn có thể xác định mức giá này dựa vào những bảng phân tích của
các nhà băng hoặc các công ty môi giới chứng khoán.
Giới hạn tổn thất
Khi giá thị trường thay đổi, mức stop loss cũng có thể thay đổi theo nhưng khoảng phần
trăm chênh lệnh giữa chúng không đổi. Bằng cách này, người chơi chứng khoán luôn biết
số lợi nhuận thấp nhất mà anh ta có thể nhận được.
Kiểm tra bản thân
Người chơi chứng khoán cần phải hiểu rõ tại sao anh ta mua cổ phiếu và định kỳ kiểm tra
lại những nguyên nhân dẫn đến quyết định mua xem chúng còn tồn tại không.

×