Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

sử của việc sử dụng agar làm chất kết đông. ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.62 KB, 5 trang )

ịch sử của việc sử dụng agar làm chất kết
đông.
Mọi người làm nghiên cứu trên đối tư
ợng vi sinh
vật đều biết về những chất kết đông môi trư
ờng
như agar, agarose, gelatin, gellan gum…và đ
ặc
điểm sử dụng của chúng (xem thêm tại đây)
nhưng l
ịch sử về việc sử dụng agar thì không
ải ai cũng rõ.

Robert
Koch


Môi trư
ờng dùng để nuôi cấy vi sinh vật trong thời kỳ đầu
không ph
ải ở dạng rắn mà là dạng lỏng. Đi
ều này làm cho việc
phân l
ập và nuôi cấy chủng thuần gặp rất nhiều khó kh
ăn,
ồng thờ
i cũng chưa có khái ni
ệm về hình thái khuẩn lạc, một
ỉ tiêu rất quan trọng vi sinh vật học. Vào lúc
đó để có đư
ợc


ủng thuần, ng
ư
ời ta luôn phải hy vọng vào quá trình pha
loãng
đ
ến mức 1 tế bào diễn ra suôn sẻ, và bạn có thể hình
dung đ
ể có được chủng thuần khó khăn và mệt mỏi đến
ờng nào. Sự rắc rối trong việc sử dụng môi tr
ư
ờng lỏng
làm ch
ậm đi rất nhiều quá trình phân lập, nghiên cứu các
ủng vi khuẩn gây bệnh mới vào thời
đó.
ự phát triển của kỹ thuật pha chế môi tr
ường chuẩn bị b
ư
qua khúc n
goặt mới khi khái niệm môi trường rắn đ
ầu tiên
ợc gợi ra vào n
ăm 1881 b
ởi Robert Koch, một nhà vi sinh
ật học nổi tiếng ng
ười Đức. Ông đăng m
ột bài báo mô tả về
cách s
ử dụng lát khoai tây được cắt bởi dao vô trùng đ
ể phân

ập một số vi sinh vật và cho t
hấy sự tiện dụng của ph
ương
pháp này. Lúc đó, k
ỹ thuật cấy ria cũng lần đầu tiên được
Koch s
ử dụng, ông dùng đ
ầu kim ria trên mặt khoai tây và
ận thấy có những khuẩn lạc tế bào rời, việc phân lập chủng
ần từ những khuẩn lạc này
đơn giản hơn nhi
ều so với cách
oãng. Mi
ếng khoai tây sau đó được đ
ặt trong một chuông
ể tránh tap nhiễm…

Tuy nhiên ch
ỉ sau một thời gian ngắn, Koch nhận thấy có rất
ều loại vi khuẩn không mọc
được trên lát khoai tây.
Lúc b
ấy giờ, môi trường cao thịt pepton vừa đư
ợc một cộng
ủa ông là Frederick Loeffer phát triển
đ
ể nuôi cấy vi khuẩn
gây b
ệnh rất hiệu quả. Ngay lập tức Koch đ
ặt ra mục tiêu làm

ắn loại môi tr
ường này.
Nói thêm v
ề Koch, ông là một thợ ảnh nghiệp dư, là ngư
ời
tiên ch
ụp ảnh vi khuẩn và cũng rất rành rỏi trong vi
ệc rửa ảnh
ử dụng muối bạc và gelatin. Việc
đầu tiên ông nghĩ đ
ến là thử
ết hợp môi tr
ư
ờng của Loeffer và gelatin bằng cách pha trộn
ổ lên một
đĩa thủy tinh, chờ nó đông l
ại rồi nuôi cấy nh
lát khoai tây. Và l
ại một lần nữa, gelatin tuy làm đông môi
ờng nh
ưng hi
ệu quả của nó không làm Koch hài lòng vì môi
ờng tan chảy ở 37
độ C, một nhiệt độ tối ưu c
ủa vi khuẩn
gây b
ệnh cho đ
ộng vật, ngoài ra thì nhiều vi sinh vật phân hủy
gelatin làm l
ỏng môi trư

ờng. Koch lại phải mày mò tìm chất kết
ông m
ới.
ột n
ăm sau, năm 1882, môi trường rắn được kết đông b
ằng
agar ra đ
ời trong một sự tình cờ. Walther Hess (một cộng sự
ủa Koch) than phiền về sự tệ hại gelatin cũng nh
ư v
ề việc
Koch đang t
ìm một chất kết đông m
ới với vợ ông, bà Fanie
Eilshemius He
ss, một cư dân miền biển New Jersey. Bà đ
ã g
ý cho h
ọ dùng agar, một loại chất kết đông mà bà thư
ờng dùng
làm m
ứt hay rau câu. Và kết quả là ngoài sức mong đ
ợi vì
agar không ch
ỉ đông đặc tốt ở nhiệt độ dư
ới 40 mà còn không
ị vi sinh vật phân giải làm bi
ến tính.
Môi trư
ờng kết đông bằng agar từ khi mới ra đời đến nay

đ
ở nên một cái gì
đó quan trọng không thể thiếu.
Tham kh
ảo:

×