Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

HIỆU QUẢ CỦA VIỆC UỐNG NƯỚC TRONG ĐIỀU TRỊ THIỂU ỐI Ở THAI TRƯỞNG THÀNH pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.98 KB, 29 trang )

HIỆU QUẢ CỦA VIỆC UỐNG NƯỚC TRONG ĐIỀU TRỊ THIỂU ỐI
Ở THAI TRƯỞNG THÀNH

TÓM TẮT
Thiểu ối là tình trạng thường gặp trong thai kì. Tần suất thiểu ối trong thai
kì rất thay đổi, tùy thuộc vào tuổi thai, công cụ chẩn đoán. Điều trị thiểu ối có
nhiều phương pháp như: truyền dung dịch nhược trương đường tĩnh mạch, truyền
dịch đẳng trương vào buồng ối, cho thai phụ uống nhiều nước, trong đó, uống
nước là biện pháp điều trị được cho là có khả năng gia tăng thể tích ối, không xâm
lấn và dễ thực hiện. Tại Việt Nam, việc cho thai phụ uống nước chưa được áp
dụng rộng rãi và chưa có nghiên cứu nào chứng minh tính hiệu quả của việc uống
nước có thể làm tăng thật sự thể tích ối. Vì thế chúng tôi tiến hành nghiên cứu nay
nhằm đánh giá hiệu quả của việc uống nước ở thai phụ thiểu ối ở thai đủ trưởng
thành có làm tăng thể tích ối và làm giảm tỉ lệ mổ lấy thai hay không.
Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng
tiến hành trên 158 trường hợp thai phụ thiểu ối (AFI# 5cm) có tuổi thai # 37 tuần.
79 thai phụ được phân bố ngẫu nhiên theo bảng block vào nhóm uống nước theo
nhu cầu (nhóm A), 79 thai phụ còn lại vào nhóm uống 2 lít nước trong vòng hai
giờ mỗi ngày cho đến lúc vào chuyển dạ (nhóm B). Chỉ số ối được đo trước phân
nhóm và sau phân nhóm 5 giờ ở cả hai nhóm (sau khi hoàn tất việc uống nước 3
giờ ở nhóm uống nước) và được đo lặp lại mỗi ngày cho đến khi vào chuyển dạ.
Hai nhóm được phân bố ngẫu nhiên và đồng đều về tuổi thai, thời gian theo dõi
trước sanh, lượng nước ối trung bình trước nghiên cứu không khác nhau (p= 0.93).
Kết quả: Chỉ số ối ở nhóm B sau uống nước 3 giờ tăng 2.15 cm so với
nhóm A, KTC 95%: 1.52 – 2.77, p< 0.0001. Chỉ số ối đo ở ngày vào chuyển dạ ở
nhóm B cao hơn nhóm A là 0.87 cm, KTC 95%: 0.11 – 1.62; p= 0.024. Than
phiền thường gặp là đi tiểu nhiều lần nhưng trong mức độ chấp nhận được. Tỉ lệ
chấp nhận uống nước của thai phụ là 98.73%. Tỉ lệ mổ lấy thai ở nhóm A cao hơn
nhóm B nhưng chưa đạt mức có ý nghĩa thống kê.
Kết luận: Uống nước giúp làm tăng chỉ số ối và đạt được sự chấp nhận điều
trị của các thai phụ cao, do đó có thể ứng dụng cho điều trị thiểu ối. Để khảo sát


vai trò của uống nước có thể cải thiện nguy cơ cho mẹ và thai chúng tôi cần
nghiên cứu khác với cỡ mẫu lớn hơn.
ABSTRACT
Objective: Oral maternal hydration is a treatment that may increase
amniotic fluid index and may help decreasing maternal and fetal risks.

Method: We conducted a randomized controlled trial on 158 pregnant who
had AFI # 5 cm and beyond 37 weeks of gestation. They were randomized with 79
pregnant drank as they need (group A) and 79 pregnant drank 2 litres of fresh
water within 2 hours everyday to delivery (group B). All pregnant in 2 groups
were measured amniotic fluid index after randomized 5 hours (after 3 hours
finished drinking water in group B) and repeated everyday til l delivery. Two
groups had good randomize in basis characteristics, and mean AFI before
randomized in 2 groups was not different (p= 0.93).
Results: Mean AFI after 3 hours drinking water of group B was 2.15 cm
higher than that of group A (95%CI : 1.52 – 2.77, p< 0.0001). Mean AFI on the
delivery day of group B was 0.87 cm higher than group A (95%CI: 0.11 – 1.62; p=
0.024). The common complain was frequent urination but it was acceptable.
98.73% pregnant accepted to oral maternal hydration. The rate of C-section in
group A was higher than group B but not significant.
Conclusion: Oral maternal hydration help increasing amniotic fluid and and
was mostly acceptable, so this treatment can be applied. We need further research
with bigger sample size to evaluate the role of oral maternal hydration on maternal
and fetal risks.
Đặt vấn đề
Thiểu ối là tình trạng thường gặp trong thai kì. Tần suất thiểu ối trong thai
kì rất thay đổi, tùy thuộc vào tuổi thai, công cụ chẩn đoán, dao động từ 2.3%(3)
đến 4%(5); ở những trường hợp thai quá ngày tỉ lệ thiểu ối lên đến 12%(2). Thiểu
ối thường đi kèm với những nguy cơ cho thai phụ và thai nhi khá rõ ràng: tăng tỷ
lệ mổ sanh, tăng tỷ lệ thai suy và Apgar thấp sau sanh(1,5,8,14).

Ở nước ta, do thiếu nhân lực và phương tiện theo dõi, thiểu ối được xem là
thai kì có nguy cơ. Sự can thiệp ở những trường hợp thiểu ối rất đáng kể. Xử trí
thiểu ối ở thai đủ trưởng thành thường được chọn là mổ sanh với tỷ lệ khá cao từ
35%(25), 45%(21) đến 98.9%(23). Có nhiều biện pháp điều trị thiểu ối được
nghiên cứu như: truyền dung dịch nhược trương đường tĩnh mạch, truyền dịch
đẳng trương vào buồng ối, cho thai phụ uống nhiều nước(13,15-19), trong đó,
uống nước là biện pháp điều trị được cho là có khả năng gia tăng thể tích ối, không
xâm lấn và dễ thực hiện(7,15,24). Tại Việt Nam, việc cho thai phụ uống nước
chưa được áp dụng rộng rãi và chưa có nghiên cứu nào chứng minh tính hiệu quả
của việc uống nước có thể làm tăng thật sự thể tích ối Với nhu cầu bức thiết là
tìm phương pháp điều trị có tác dụng làm giảm thiểu những nguy cơ cho thiểu ối,
việc tiến hành nghiên cứu đánh giá hiệu quả của việc uống nước ở thai phụ thiểu
ối, thai đủ trưởng thành có làm tăng thể tích ối và làm giảm tỉ lệ mổ lấy thai hay
không là phù hợp thực tế và cần thiết.
Phương pháp tiến hành
Những thai phụ với tuổi thai trên 37 tuần nằm theo dõi tại khoa sản bệnh
bệnh viện viện Hùng Vương từ tháng 8 năm 2005 đến tháng 5 năm 2006 có chỉ số
AFI # 5 cm được thu nhận vào nhóm nghiên cứu. Điều kiện thu nhận vào nhóm
nghiên cứu: (i) Đơn thai, ngôi đầu, thai lớn hơn hoặc bằng 37 tuần (SA sớm trong
3 tháng đầu thai kì), (ii) AFI nhỏ hơn hoặc bằng 5 cm, (iii) Không có dị tật thai
theo siêu âm, (iv) Thai phụ không có bệnh lí nội khoa kèm theo (bệnh lí cầu thận,
tiểu đường, cao huyết áp mạn ) và (v) Stress test âm tính.
Các thai phụ được kiểm tra đủ tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu, được giải
thích qui trình tiến hành nghiên cứu và được kí giấy đồng ý tham gia nghiên cứu.
158 thai phụ được thu nhận, bác sĩ nhận bệnh sẽ mở bao thư theo số thứ tự thu
nhận bệnh nhân, việc phân nhóm được tiến hành phân chia theo bảng block ngẫu
nhiên định sẵn trên máy tính, với tỉ lệ 1:1, gồm hai nhóm: nhóm uống 2 lít nước
trong 2 giờ mỗi ngày và nhóm uống nước theo nhu cầu. Sau khi phân nhóm, tất cả
các thai phụ đều được đo AFI trước can thiệp. Sau khi phân nhóm 5 giờ, tất cả các
thai phụ thuộc hai nhóm đều được đo lại AFI. Ngay sau đo AFI, được cho khởi

phát chuyển dạ nếu có chỉ định hoặc theo dõi vào chuyển dạ tự nhiên nếu có điểm
Bishop thuận lợi. Nếu sau 24 giờ, thai phụ thuộc nhóm có uống nước vẫn chưa vào
chuyển dạ sẽ được được hướng dẫn uống nước 2 L nước trong 2 giờ mỗi ngày, đo
AFI sau uống 3 giờ mỗi ngày cho đến khi thai phụ vào chuyển dạ thật sự. Tiếp
theo đó, ghi nhận và thu thập số liệu các biến số kết quả trên mẹ và thai bao gồm
cách sanh, lí do can thiệp, tỉ lệ nhập săn sóc tích cực nhi, điểm số Apgar sau sanh
1’ và 5’.
Hồ sơ bệnh án chỉ ghi nhận mã số nghiên cứu của bệnh nhân chứ không ghi
nhận thai phụ thuộc nhóm can thiệp nào. Do đó, các bác sĩ tiến hành xử trí ở bệnh
nhân cũng sẽ không biết bệnh nhân thuộc nhóm nghiên cứu nào. Việc đo đạc AFI
được thực hiện bởi một bác sĩ hoàn toàn không được biết bệnh nhân nào thuộc
nhóm nghiên cứu nào.
Cỡ mẫu nghiên cứu được tính theo công thức so sánh hai trung bình AFI
của hai nhóm, mức ý nghĩa là 0.05 và mức năng lực là 0.8 với giả định xoang ối
tăng có ý nghĩa khi trên 1.5 cm (dựa theo nghiên cứu đầu tiên của Kilpatrics
1991(19)), được tính khoảng 158 bệnh nhân cho mỗi nhóm.
Dữ liệu được thu thập và xử lí bằng phần mềm STATA 8.0, phép kiểm
student được dùng để kiểm định giả thuyết gia tăng AFI.
Kết quả
158 thai phụ được thu nhận vào nghiên cứu trong thời gian 9 tháng (từ
tháng 8 năm 2005 đến tháng 5 năm 2006), 79 thai phụ cho mỗi nhóm (nhóm
chứng và nhóm uống nước). Trong suốt quá trình nghiên cứu, có 1 thai phụ thuộc
nhóm uống nước bỏ cuộc vì đau bụng sanh và thai phụ này chỉ uống được 1.5 lít
nước vào ngày thứ 3 của nghiên cứu (2 ngày trước đó thai phụ uống đủ 2 lít nước
trong 2 giờ).
Sự phân bố ngẫu nhiên được thể hiện qua kết quả phân bố đồng đều về các
đặc điểm cơ bản của cả hai nhóm: tuổi mẹ, tuổi thai, số con đã sanh, chỉ số ối
trung bình trước tham gia nghiên cứu, (bảng 1). Với chỉ số AFI ban đầu ở cả hai
nhóm như nhau, việc gia tăng hay giảm sau can thiệp cũng chứng minh vai trò của
việc can thiệp cho uống nước.

Bảng 1: Các đặc điểm cơ bản
Đặc điểm

Nhóm chứng
n = 79

Nhóm uống nước n = 79
Tuổi mẹ, năm

28.14 ± 5.38

28.19±5.3
Tiền thai: 0
1
2
3
4

57 (72.15)
16 (20.25)
5 (6.33)
1 (1.27)
0 (0)

48 (60.76)
22 (27.85)
8 (10.13)
0 (0)
1 (1.27)
Vùng dân cư: Nội thành

Ngoại thành
Tỉnh khác

40 (50.63)
16 (20.25)
23 (29.11)

43 (54.43)
9 (11.39)
27 (34.18)
Tuổi thai trung bình

39.57±1.23

39.68±1.44
Thai trên 41 tuần

16 (20.25)

20 (25.32)
Khoảng thời gian siêu âm trung bình sau phân nhóm

5.08±0.92

4.9±1.15
Tỉ lệ thai phụ có bệnh lí nội khoa kèm theo:
Tiền sản giật
CHA mạn




3 (3.8)
1 (1.27)



2 (2.53)
0 (0)
Trung bình cân nặng thai nhi

3053.2±432

3043±457
Tỉ lệ giới tính em bé: Trai
Gái

49 (60.3)
30 (37.97)

46 (58.23)
33 (41.77)
AFI trung bình trước tham gia nghiên cứu

2.98±1.12

2.96±1.37
Trung bình AFI sau uống nước 3 giờ (bảng 2)
Sau can thiệp 3 giờ, giá trị AFI ở hai nhóm nghiên cứu khác nhau rõ rệt.
Nhóm uống nước có AFI tăng rõ rệt (4.82 so với 2.67, p< 0.0001). Giá trị trung
bình AFI sau phân nhóm của hai nhóm chênh nhau 2.15: cho thấy sự gia tăng AFI

sau uống nước có sự khác biệt vừa mang ý nghĩa thống kê vừa có giá trị lâm sàng.
Nguy cơ tương đối (còn thiểu ối) sau can thiệp giúp xác định việc cho uống
2 lít nước trong vòng 2 giờ có đủ làm cho bệnh nhân không còn thiểu ối. Nguy cơ
vẫn còn thiểu ối ở nhóm có uống nước là 0.59 (RR= 0.59, KTC 95%: 0.49 – 0.73,
p< 0.0001). Như vậy, uống 2 lít nước trong vòng 2 giờ là yếu tố bảo vệ giúp làm
giảm nguy cơ bị thiểu ối.
Số thai phụ cần điều trị để có được 1 thai phụ có chỉ số ối > 5cm (NTT -
number needed to treat) là 2.54 # 3 bệnh nhân. (KTC 95%: 2 - 3.8). Như vậy, nếu
cho 3 bệnh nhân thiểu ối uống nước thì sau 3 giờ sẽ có 1 bệnh nhân có chỉ số ối >
5cm.
Bảng 2: Các kết quả chính
Kết quả chính

Nhóm chứng

Nhóm uống nước

KTC95%

p
Trung bình AFI sau uống nước 3 giờ

2.67±1.39

4.82±2.4

1.52 – 2.77

<0.0001
Trung bình AFI của hai nhóm ở ngày vào chuyển dạ


3.31±1.96

4.18±2.76

0.11 – 1.62

0.024
Trung bình AFI của hai nhóm sau can thiệp ở ngày vào chuyển dạ
Giá trị AFI trung bình ở ngày vào chuyển dạ ở nhóm uống nước cao hơn
hẳn nhóm chứng, chênh nhau 0.87 và khác biệt có ý nghĩa thống kê (KTC 95%:
0.11 – 1.62; p= 0.024), (bảng 2): việc tiến hành uống nước sau nhiều ngày vẫn có
hiệu quả làm gia tăng lượng nước ối. Nguy cơ vẫn còn thiểu ối ở nhóm có uống
nước nhiều ngày là 0.82 (RR= 0.82, KTC 95%=0.68 – 0.97, p= 0.025). Như vậy,
uống nước nhiều ngày là yếu tố bảo vệ giúp thai phụ tránh bị thiểu ối tiếp diễn.
Số thai phụ cần điều trị để có được 1 thai phụ có chỉ số ối > 5cm (NTT -
number needed to treat) là 6.6 # 7 bệnh nhân (KTC 95%: 2 - 3.8). Như vậy, nếu
cho 7 bệnh nhân thiểu ối uống nước mỗi ngày thì ở thời điểm vào chuyển dạ sẽ có
1 bệnh nhân có chỉ số ối > 5cm.
Tỉ lệ thai phụ chấp nhận việc uống nước
Trong số 79 thai phụ tham gia vào nhóm uống nước, có một thai phụ không
đồng ý tiếp tục uống nước nữa, sau 2 lần uống nước (2lít nước/ 2giờ/ ngày), vào
ngày thứ 3, thai phụ chỉ uống được 1.5 lít nước và vì lí do mệt (có cơn gò chuyển
dạ sanh ) và vì buồn nôn nên thai phụ này không tiếp tục tham gia uống nước. Còn
lại 78 trường hợp đều uống nước đủ theo yêu cầu và đúng giờ. Do đó, tỉ lệ thai phụ
chấp nhận uống nước là 98.73%. Tỉ lệ này chiếm khá cao so với một nghiên cứu
can thiệp, do đó, khả năng chấp nhận của thai phụ được đánh giá là cao.
Tỉ lệ các tác dụng phụ của việc uống nước (bảng 3)
Tác dụng phụ thường gặp nhất của việc uống nước là đi tiểu nhiều lần
(chiếm 89.87%) nhưng vẫn trong phạm vi chấp nhận được vì việc uống nước chỉ

thực hiện trong vòng 2 giờ nhất định trong ngày nên đi tiểu nhiều lần cũng chỉ kéo
dài trong khoảng thời gian ngắn (2 giờ). Ngoài ra, có khoảng 18.99% thai phụ than
có triệu chứng đầy bụng, buồn nôn (chiếm 8.86%). Có một thai phụ bị phù tăng
thêm nhưng không xuất hiện các triệu chứng nặng khác.
Bảng 3: Các tác dụng phụ của uống nước
Than phiền

Không

Tiểu nhiều lần

Đầy bụng

Buồn nôn

Nôn

Mệt

Phù
Số ca

8

71

15

7


0

1

1
Tỉ lệ %

10.13

89.87

18.99

8.86

0

1.27

1.27
Các kết quả phụ
Tỉ lệ sanh thường hầu như tương đương nhau giữa hai nhóm nghiên cứu
(p=0.75). Riêng tỉ lệ mổ sanh nói chung ở nhóm uống nước thấp hơn so với nhóm
chứng khoảng 9%, về lâm sàng là có ý nghĩa, tuy nhiên sự khác biệt này vẫn chưa
có ý nghĩa thống kê (p=0.25).
Tỉ lệ mổ sanh vì thai suy, chèn ép rốn ở nhóm uống nước chỉ 12.66% trong
khi nhóm chứng là 20.23%, tuy nhiên, sự khác biệt này vẫn chưa đạt ý nghĩa thống
kê (p=0.2). Trong khi tỉ lệ mổ sanh vì lí do khác hầu như là tương đương nhau
(20.25% so với 18.99%, p= 0.84).
Tỉ lệ cần bù dịch trong chuyển dạ ở nhóm uống nước thấp hơn so với nhóm

chứng, lí do bù dịch thường do có biểu hiện chèn ép rốn, tuy nhiên, sự khác biệt
này không có ý nghĩa thống kê (p=0.32).
Không có sự khác biệt về thời gian từ lúc thu nhận vào nghiên cứu đến khi
sanh, thời gian chuyển dạ và các tai biến xảy ra trong chuyển dạ giữa hai nhóm
nghiên cứu.
Bảng 4: Bảng tóm tắt các kết quả liên quan đến thai phụ
Kết quả phụ

Nhóm chứng (%)

Nhóm uống nước (%)

p
Tỉ lệ sanh: Sanh thường
Sanh giúp
Sanh mổ

38 (48.10)
9 (11.39)
32 (40.51)

40 (50.63)
14 (17.72)
25 (31.65)

0.75
0.26
0.25
Tỉ lệ mổ sanh vì thai suy, chèn ép rốn
Tỉ lệ mổ sanh vì lí do khác


16 (20.23)
16 (20.25)

10 (12.66)
15 (18.99)

0.2
0.84
Tỉ lệ cần bù dịch trong chuyển dạ

31 (39.24)

25 (31.65)

0.32
Thời gian từ khi thu nhận vào nghiên cứu đến khi sanh (giờ)

30.55±22.07

29.15±23.45

0.7
Thời gian chuyển dạ (giờ)

8.28±8.36

6.83±6.73

0.26

Các tai biến trong chuyển dạ
BHSS
Nhiễm trùng
Sản giật
Phù phổi cấp


2 (2.53)
0
0
0


3 (3.8)
1 (1.27)
0
0

0.65
0.31


Bảng 5.: Kết quả liên quan đến thai nhi
Kết quả phụ

Nhóm chứng

Nhóm uống nước

p

Apgar 5’< 7

0 (0)

0 (0)


Tỉ lệ bé phải nhập nhi

8 (10.13)

12 (15.19)

0.34
Tỉ lệ bé có những biến chứng nặng, tử vong

0 (0)

0 (0)


Trung bình thời gian nằm tại khoa nhi

4.88±1.88

4.91±2.9

0.97
Bàn luận
Trung bình AFI sau uống nước 3giờ (lần đầu tiên)

Uống 2lít nước trong vòng 2 giờ ở lần đầu tiên không có thai phụ nào bỏ
cuộc. AFI trung bình sau uống nước 3 giờ ở nhóm uống nước cao hơn hẳn nhóm
chứng và tăng 1.86cm so với ban đầu. Trong khi đó, nhóm chứng lại có AFI trung
bình thấp hơn so với ban đầu là 0.31cm, mặc dù sự khác biệt này vẫn chưa đạt ý
nghĩa thống kê. Trong nghiên cứu của chúng tôi, AFI tăng 2.15cm cao hơn 1.5cm ,
mức giả định là sự gia tăng có ý nghĩa lâm sàng. Như vậy, sự gia tăng AFI sau
uống nước vừa có ý nghĩa thống kê, vừa có ý nghĩa lâm sàng. Nhằm làm gia tăng
giá trị nội tại của nghiên cứu chúng tôi chỉ cho một bác sĩ đo AFI tuân theo tiêu
chuẩn đo của Phelan(24) và với những nguyên tắc đã nêu trong phần tiến hành
nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của Deka là
đều có sự gia tăng AFI sau uống nước(13).
Nghiên cứu của Flack NJ: có gia tăng AFI rõ rệt ở nhóm thiểu ối: AFI trung
bình tăng: 3.2 cm (KTC95%: 1.1 – 5.3; p=0.02)(17), kết quả nghiên cứu cũng
tương tự như nghiên cứu của chúng tôi: AFI trung bình tăng 2.1 cm so với nhóm
chứng (KTC95%: 1.52 – 2.77, p<0.0001).
Nghiên cứu của Kilpatrics (1991)(19) có sự tăng AFI sau can thiệp: 1.5 so
với 0.31; AFI trung bình sau uống nước cao hơn nhóm chứng (6.1 so với 5.1,
p<0.01), cao hơn hẳn với trị số AFI trung bình sau uống nước của chúng tôi (4.82
cm và 2.67 cm), là do AFI lúc nhận bệnh trung bình là 2.1 – 6 cm, cao hơn trong
nghiên cứu của chúng tôi, AFI lúc nhận bệnh trung bình là 2.96±1.37 cm. Mức độ

×