Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Dược tính của nấm ăn & nấm dược liệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.21 KB, 4 trang )

Dược tính của nấm ăn & nấm dược liệu
NẤM ĂN: Ngoài giá trị dinh dưỡng, nấm còn có các giá trị
dược tính: Nấm mỡ tên khoa học là Agaricus bisporus: Có
chứa hợp chất ngăn cản enzym aromatas, một enzym liên
kết với sinh trưởng của khối u. Hợp chất này điều trị và
ngăn ngừa được ung thư vú. Nấm kim châm (Flammulina
velutipes): Thành phần nấm luôn thay đổi bởi chất trồng.
Polysaccharid tan trong nước là Flammulin, có tác dụng
hiệu quả từ 80 - 100% trên u báng (sarcoma 180) và ung
thư biểu bì. Các khảo cứu ở Nhật cho thấy các nhà trồng
nấm kim châm ở tỉnh Nagano có tỷ lệ ung thư rất thấp so
với cộng đồng.
Nấm hương (Lentinula edodes):
Chất lentinan, một polysaccharid tan trong nước được chiết xuất từ nấm hương là
thuốc chống ung thư ở Nhật. Một polysaccharid có phân tử lượng cao khác (KS-2)
chiết xuất bởi Fujii và cộng sự (1978) cũng có tác dụng chống lại sarcoma 180 và
ung thư biểu bì. Chất aritadenin còn làm giảm cholesterol trong máu.
Nấm bào ngư: (Pleurotus ostreatus)
Những khảo cứu gần đây cho thấy, bào ngư xám chứa lovastatin (3-hydroxy-3-
methylglutaryl - coenzym A reductase) được Cơ quan Thực dược phẩm Hoa Kỳ
(FDA) đồng ý cho điều trị dư cholesterol trong máu. Lovastatin hiện diện nhiều
trong mũ nấm hơn là cuống, tập trung ở phiến nấm và đặc biệt có nhiều ở bào tử
nấm. Chuột bị nhiễm sarcoma 180 dùng khẩu phần ăn có bổ sung 20% nấm bào
ngư, sau 1 tháng khối u bị ngăn cản nhiều hơn 20% so với nhóm đối chứng.
Nấm rơm (Volvariella volvacea):
Những khảo sát khoa học cho thấy nấm rơm có chứa nhiều vitamin B, nhiều
khoáng và các amino acid cân xứng. Gần đây (Vincent E.C.Ooi, 2002) chiết từ
nấm rơm ra một chất có phân tử lượng khoảng 10 kDa có tác dụng hạ huyết áp,
hoạt động như seretonin.
Nấm mèo (còn gọi mộc nhĩ) (Auricularia polytricha):
Những khảo cứu cho biết chất chiết từ nấm mèo có tác dụng hiệu quả từ 80 - 90%


trên ung thư biểu bì và sarcoma 180. Phần chiết polysaccharid tan trong nước của
nấm mèo làm giảm đường huyết của chuột tiểu đường do di truyền; phần glucan
không tan trong nước có phân tử lượng 560.000 - 610.000 phân lập từ dịch chiết
nóng của tai nấm chống lại thể cứng của sarcoma 180 trong ống nghiệm. Ngoài ra,
polysaccharid chiết từ nấm mèo kích thích sinh tổng hợp DNA và RNA bởi bạch
huyết bào người trong ống nghiệm.
Ngân nhĩ hay nấm tuyết: (Tremella fuciformis):
Polysaccharid của ngân nhĩ là một heteropolysaccharid chứa xylose, glucuronic
acid, mannose và glucose có tính chống ung thư. Chất chiết từ ngân nhĩ bảo vệ tế
bào gan chó bị tổn thương bởi phóng xạ và được dùng để điều trị bệnh gan.
Polysaccharid và glycoprotein làm tăng hiệu quả của interferon, một thuốc trị
viêm gan siêu vi B.
Hầu thủ (Hericium erinaceus):
Không chỉ là loài nấm ăn ngon, hầu thủ có tác dụng chủ yếu kích thích hệ miễn
dịch, phòng chống ung thư dạ dày, ung thư phổi di căn. Chất erinacin chiết từ hầu
thủ có tác dụng kích thích tái sinh trưởng neuron, có khả năng quan trọng trong
điều trị lão suy, bệnh Alzheimer, tăng trí nhớ, phục hồi chấn thương thần kinh do
đột quỵ, cải thiện con đường kích thích cơ - vận động và chức năng nhận thức.
Nấm thái dương (Agaricus brasiliensis):
Lần đầu tiên trồng thành công ở Việt Nam, có hàm lượng đạm cao và có giá trị
dược tính tốt, ăn ngon.

NẤM DƯỢC LIỆU
Linh chi: (Ganoderma lucidum)
Nổi tiếng từ hơn 2.000 năm nay, linh chi là nấm có giá trị dược tính cao, có chứa
các hoạt chất sinh học như các saponin triterpen, các polysacharid, các steroid, các
nguyên tố đa lượng và vi lượng. Các nhóm trên hiện diện nhiều nhất trong tai
nấm, bào tử nấm; có khả năng chống viêm, ổn định huyết áp, nâng cao và phục
hồi chức năng gan, chống nhiễm mỡ xơ mạch, hỗ trợ trong điều trị ung thư. Ngoài
ra, linh chi còn có khả năng kháng oxy hóa do vai trò của các saponin triterpen,

các polyphenol. Trung Quốc và Việt Nam đã chứng minh tác dụng khử gốc tự do
hydroxyl và khả năng chống lão hóa của linh chi.
Vân chi: (Trametes versicolor)
Có tác dụng hỗ trợ trong điều trị ung thư và nâng cao hệ miễn dịch nhờ các
polysaccharid PSK và PSP. Nhật Bản thường xuyên dùng thuốc chiết xuất từ vân
chi có tên là Krestin để điều trị các bệnh ung thư.
Vân chi vàng
Đông trùng hạ thảo:
Là tên chung chỉ các loài nấm Cordiceps, trong đó gồm: Cordiceps sinensis và Bắc
trùng thảo Cordiceps militaris.
C. sinensis có vị ngọt, hăng, chua và ấm; khi xưa chỉ để dùng cho vua chúa, vì rất
hiếm có. Trung Quốc dùng đông trùng hạ thảo làm thuốc bổ phổi, thận, tăng sản
xuất máu, dùng để hồi phục cơ thể sau khi bị kiệt quệ hoặc do bệnh kéo dài. Được
dùng như một món thuốc bổ nấu với thịt vịt.
Đông trùng hạ thảo có 17 amino acid, dầu béo, nhiều nguyên tố vi lượng và nhiều
chất có hoạt tính sinh học khác. Đông trùng hạ thảo làm nâng cao tính miễn dịch
của cơ thể, bổ phổi, ích thận, cầm máu, tan đờm, chữa hen suyễn, liệt dương…
Hiện nay, Trung Quốc là nước sản xuất lớn nhất về đông trùng hạ thảo và bắc
trùng thảo mà không cần sâu bướm.
Nấm phục linh (Poria cocos), còn gọi là bạch phục linh, phục thần:
Nấm mọc ký sinh trên rễ cây thông và sâu dưới đất. Người ta cho là linh khí của
cây thông nên gọi là phục linh. Nấm hình khối to có thể nặng đến 10 kg, mặt ngoài
màu xám đen, bên trong màu trắng hoặc hơi hồng xám. Thành phần hóa học của
phục linh gồm 3 nhóm chất:
- Nhóm triterpen.
- Nhóm chất đường: đường pachyman của phục linh có thể chiếm đến 75%.
- Nhóm ergosterol, cholin, histidin…
Công dụng của phục linh: Phục linh có vị ngọt, tính bình, có tác dụng vào 5 kinh:
tâm, phế, thận, tì, vị, thường được dùng như là vị thuốc bổ, lợi tiểu, làm trấn tĩnh,
chữa các trường hợp mất ngủ, hay sợ hãi, di tinh.

Các toa thuốc bắc thường có phục linh, là những khối lập phương trắng, nhỏ dùng
như thuốc bồi bổ cơ thể. Phục linh có nhiều ở Trung Quốc. Ở Việt Nam có phát
hiện phục linh tự nhiên ở Đà Lạt, nhưng chưa trồng được. Phục linh hiện dùng là
nấm của Trung Quốc.
Nấm trư linh (Zhu ling) Polyporus umbellatus
Là một loại nấm có hạch (sclerotia) và từ hạch này mọc lên một chùm quả thể là
các tai nấm.
Thành phần dinh dưỡng: protein: 8%; sợi 47%; carbohydrat: 5%; tro: 7%.
Về dược tính: Trư linh có tính chất chống ung thư, phục hồi hệ miễn dịch. Đối với
bệnh nhân bị ung thư phổi đã xạ trị, trư linh giúp ăn ngon miệng, giảm đau và bình
thường hóa chức năng hệ miễn dịch. Ying (1987) thử nghiệm trên chuột cho thấy,
giảm 70% khối u. Miyaski (1983) nhận thấy trư linh chống lại u báng (sarcoma
180). Theo Bo và Yun-sun (1985) các nhà dược học Trung Quốc đã dùng dịch
chiết của hạch nấm trư linh điều trị: “Ung thư phổi, ung thư cổ tử cung, ung thư
thực quản, ung thư dạ dày, ung thư gan, ung thư ruột, ung thư tuyến vú và u bạch
huyết”.
Trư linh là nấm xứ lạnh, gần như chỉ trồng ở Trung Quốc, nấm tươi được dùng
làm thực phẩm, hạch nấm được Trung Quốc xuất khẩu. Chưa trồng được ở Việt
Nam cũng như ở Bắc Mỹ.
ThS. CỔ ĐỨC TRỌNG

×