Phim Quảng cáo
Phim quảng cáo (hoặc còn gọi hẹp là Quảng cáo truyền hình , theo thuật ngữ tiếng Anh là
television advertisement hay television commercial -viết tắt TVad hay TVC- hoặc thường được gọi
đơn giản là commercial hay advert) là một dạng phim hay tiết mục được dàn dựng sản xuất và
phải trả phí bởi những tổ chức, hội đoàn muốn quảng bá một thông điệp nào đó, thường là để
quảng cáo hay khuyến mại một món hàng nào hoặc để cổ động, phổ biến điều gì đó.
Nguyên thủy những phim quảng cáo này được chiếu trên truyền hình (như tên gọi theo tiếng Anh)
nhưng sau này dịch vụ này đã phát triển thành phim quảng bá trên các phương tiện truyền thông
khác như các trang web tư nhân, trang web thương mại hoặc trang web dịch vụ (như Youtube,
Yahoo) trên hệ thống mạng, hoặc chiếu trong những rạp hát (trước hoặc sau, đôi khi giữa phim
chính), trong siêu thị, hoặc những nơi công cộng. Thu nhập từ quảng cáo là một phần quan trọng
trong nguồn ngân sách của một mạng lưới truyền hình tư nhân, nay trong thời bùng nổ thông tin,
quảng cáo ngày càng được phổ biến nhiều trên mạng và cũng là nguồn thu nhập lớn cho các trang
web. Sự phong phú của phim quảng cáo ngày nay bao gồm những quảng cáo ngắn (brief
advertising spot), có độ dài từ vài giây đến nhiều phút cũng như các chương trình quảng cáo cung
cấp thông tin đặc biệt trong thời gian dài (infomercial) khác. Hình thức cũng được sử dụng phong
phú từ những hoạt hình (animation), Flash trên web, đến phim video, phim nhựa.
Phạm vi ứng dụng
Các phim quảng cáo này có thể do các tổ chức, đoàn thể (kinh doanh hoặc phi kinh doanh) sản
xuất vì mục tiêu kinh doanh hoặc phi thương mại, phi lợi nhuận. Vì mục tiêu kinh doanh, người ta
có thể quảng cáo mọi thứ sản phẩm, dịch vụ mà luật pháp cho phép. Vì mục tiêu phi kinh doanh,
phi thương mại, người ta có thể quảng cáo cho các mục tiêu như chống hút thuốc, bảo vệ môi
trường, tuyên truyền lợi ích công cộng, vận động từ thiện, cổ động bầu cử...
Tại Hoa Kỳ, các mục tiêu chính trị như chiến dịch tranh cử và các chính trị gia được phép dùng
quảng cáo truyền hình và các chiến dịch quảng cáo trên truyền hình. Hiệu quả của quảng cáo
truyền hình dựa vào mạng lưới truyền hình công cộng đã rất thành công và phổ biến ở quốc gia
này, người ta cho rằng một nhà chính trị sẽ không có khả năng giành được thắng lợi trong một
chiến dịch bầu cử nếu không có quảng cáo truyền hình. Tuy nhiên, tại một số nước khác như Pháp,
Nhật Bản việc này bị cấm.
Lịch sử
Một bìa tạp chí Mỹ năm 1928 nói về tương lai của truyền hình
Quảng cáo truyền hình được phát sóng lần đầu tại Mỹ vào lúc 14:29 ngày 1 tháng 7 năm 1942 sau
khi quảng cáo thương mại trên truyền hình được Ủy ban Thông Tin Liên Bang (FCC hay Federal
Communication Commission) chấp nhận trên nguyên tắc. Đó là đoạn phim mà công ty sảm xuất
đồng hồ Bulova Watch đã trả 9 đôla cho New York City NBC chi nhánh của WNBT (hiện nay là
WNBC) để có 20 giây lên hình trước một trận bóng rổ giữa hai đội Brooklyn Dodgers và
Philadelphia Phillies. Nó chỉ có cảnh đơn giản là một chiếc đồng hồ Bulova nằm trên tấm bản đồ
Mỹ, với một giọng nói đọc khẩu hiệu của công ty "America runs on Bulova time!" (Tạm dịch:
Nước Mỹ chạy bằng thời gian của Bulova)
[
Đặc điểm
Rất nhiều quảng cáo truyền hình lôi cuốn người xem bởi phần âm nhạc (bài hát hoặc giai điệu)
hoặc các cụm từ gây ấn tượng (catch-phrase) và dễ nhớ, cái sẽ còn đọng lại trong tâm trí người
xem một thời gian dài sau khi chiến dịch quảng cáo đó kết thúc. Một vài nhạc nền hoặc các cụm từ
dễ nhớ đó còn có thể có được sức sống riêng, trở thành câu cửa miệng hoặc những đoạn nhạc dạo
“riff” và được sử dụng trong các loại hình truyền thông khác, như phim hài hoặc các show truyền
hình nhiều kỳ, hay trong các loại hình truyền thông viết, ấn phẩm như tạp chí comic (hí họa) hay
văn học. Những phần quảng cáo có sức sống lâu dài này còn có thể có chỗ đứng trong lịch sử văn
hóa đại chúng của người dân nơi mà nó có sức ảnh hưởng. Một ví dụ tiêu biểu là cụm từ bất tử
“Winston tastes good like a cigarette should” (Tạm dịch: Hương vị Winston ngon như một điếu
thuốc lá cần có) từ chiến dịch quảng cáo dài 18 năm của hãng thuốc lá Winston từ những năm 50
đến những năm 70. Thậm chí hai thập niên sau khi chiến dịch quảng cáo này kết thúc, những dị
bản của câu nói này và những phiên bản dựa trực tiếp vào nó vẫn còn đầy sức hấp dẫn. Ví dụ khác
là câu “Where’s the Beef?” (Tạm dịch : Thịt bò đâu nhỉ ?
[2]
) được Walter Mondale dùng trong
chiến dịch tranh cử Tổng thống Mỹ đã trở nên rất phổ biến sau đó. Hay như một cụm từ dễ nhớ
nữa là “I’ve fallen and I can’t get up” (Tạm dịch : Tôi đã gục ngã và tôi không thể đứng dậy), đôi
khi vẫn còn xuất hiện hàng thập niên sau lần đầu tiên nó được sử dụng.
Các hãng quảng cáo thường sử dụng sự hài hước như một công cụ trong các chiến dịch tiếp thị
sáng tạo. Thực tế, nhiều nhà nghiên cứu tâm lý học đã cố gắng để chứng minh hiệu quả của yếu tố
hài hước và chỉ ra đó là cách để tạo ra sức mạnh thuyết phục cho quảng cáo.
Một cảnh sử dụng hoạt họa trong đoạn cuối của phim quảng cáo "Lasol".
Hoạt hình và hí họa (tranh vẽ vui) thường được sử dụng trong quảng cáo. Những bức tranh có thể
biến đổi từ cách vẽ tay trong hoạt hình truyền thống đến cách sử dụng máy tính để dựng lên các
đoạn phim hoạt hình. Bằng cách sử dụng các nhân vật hoạt họa, một đoạn quảng cáo có thể có sức
hấp dẫn mạnh mẽ mà khó có thể đạt được với diễn viên hay chỉ là trưng ra hình ảnh độc nhất của
sản phẩm (chỉ hiển thị các sản phẩm). Vì lý do này, có thể thấy rất nhiều ví dụ về quảng cáo hoạt
hình (hay một series những quảng cáo loại này) có ảnh hưởng lâu dài đến hàng thập niên sau. Một
minh chứng tiêu biểu là series quảng cáo của sản phẩm ngũ cốc Kellogg có các nhân vật chính là
Snap, Crackle và Pop. Các phim quảng cáo hoạt hình thường kết hợp với diễn viên thực.
Một chiến dịch quảng cáo trong thời gian dài có thể khiến mọi người phải bất ngờ hoặc thậm chí
đánh lừa người xem. Ví dụ như series quảng cáo Energizer Bunny (thỏ máy Energizer), nó bắt đầu
từ cuối những năm 80 như một quảng cáo so sánh đơn giản, trong một căn phòng đầy những con
thỏ chạy bằng pin đang gõ trống, tất cả đều gõ chậm dần... trừ một con, chạy bằng pin Energizer.
Nhiều năm sau đó một phiên bản dựa trên đoạn quảng cáo ban đầu này có cảnh chú thỏ Energizer
thoát khỏi sân khấu và vẫn tiếp tục (theo lời bình, nó “vẫn liên tục và liên tục và liên tục...”
-"keeps going and going and going..."). Đoạn phim mới này chỉ là sự nối tiếp của cái đã xuất hiện
để trở thành một quảng cáo khác: người xem thấy rõ được sự thật rằng “quảng cáo” tiếp theo thực
tế là một sự nhái lại của quảng cáo đã nổi tiếng cũ cho đến khi chú thỏ Energizer đột nhiên bị ấn
vào vị trí đó, với lời bình nói rằng “vẫn liên tục...” (Bằng cách đó công ty sản xuất pin Energizer
nhấn mạnh rằng pin của họ có thể chạy lâu hơn bất cứ loại pin tốt nhất nào). Chiến dịch quảng cáo
này kéo dài trong gần 19 năm. Series về chú thỏ máy Energizer được bắt chước trong những quảng
cáo khác, như quảng cáo Coors Light Beer, trong các bức tranh chuyển động, và thậm chí bởi
những quảng cáo hiện nay của hãng bảo hiểm Geico Insurance.
Quảng cáo Truyền hình trên thế giới
Tại Mỹ
Tần suất
Quảng cáo xuất hiện giữa các show truyền hình, nhưng thường cắt ngang một show giữa hai sự
kiện. Phương pháp của các quảng cáo cắt ngang (screening advertisements) này nhằm mục đích
tóm hoặc chộp lấy sự chú ý của công chúng, vì người xem vẫn chú ý vào show truyền hình nên họ
sẽ không muốn chuyển kênh; mà thay vào đó; họ sẽ (hy vọng là thế) xem các đoạn quảng cáo
trong khi chờ cảnh tiếp theo của show. Đây là một kỹ thuật làm tăng tính hồi hộp, đặc biệt nếu sự
cắt ngang này xảy ra tại một đoạn đầy kịch tính trong show.
Toàn bộ nền công nghiệp này tồn tại chỉ nhằm một nhiệm vụ duy nhất là giữ cho khán giả đủ hứng
thú để ngồi xem hết các đoạn quảng cáo. Hệ thống tính toán tỉ lệ Neilsen ra đời như một cách thức
để các đài truyền hình khẳng định được mức động thành công của các show truyền hình của mình,
nhờ đó có thể đưa ra quyết định về chi phí mà các nhà quảng cáo phải trả khi muốn quảng cáo của
mình được phát sóng.
Quảng cáo lấy đi thời gian phát sóng của các chương trình khác. Vào những năm 60, một show
truyền hình điển hình của Mỹ thường dài khoảng 51 phút bao gồm cả quảng cáo. Ngày nay, một
chương trình tương tự có thể chỉ dài 42 phút; một show 30 phút điển hình bao gồm 22 phút
chương trình chính thức, còn lại là 6 phút cho quảng cáo quốc gia và 2 phút cho quảng cáo địa
phương.
Nói cách khác, cứ mỗi 10 tiếng, trung bình một người Mỹ sẽ xem xấp xỉ 3 tiếng quảng cáo, gấp
đôi lượng thời gian mà họ phải xem trong những năm 60. Hơn nữa, nếu các show trong thập niên
60 được phát lại ở hiện tại thì lượng thời gian của chúng có thể bị cắt bớt khoảng 9 phút để chèn
vào các chương trình quảng cáo (điều này có thể thấy trong một số show của đài Star Trek).
Trở lại những năm 50, 60, độ dài trung bình của quảng cáo truyền hình thường chỉ là 1 phút.
Nhưng theo thời gian, độ dài trung bình ấy rút ngắn lại chỉ còn 30 giây (hoặc 10 giây tùy theo quy
định thời gian của mỗi đài truyền hình). Tuy nhiên, phần lớn các quảng cáo ngày nay đều kéo dài
trong 15 giây.
Mức độ thường xuyên của quảng cáo truyền hình được tính bằng mã số ISCI (Industry Standard
Commercial Identifier).
Mức phổ biến
Tại Mỹ, quảng cáo truyền hình được coi là hình thức quảng cáo tiếp thị đại chúng hiệu quả nhất,
và điều này kéo theo sự gia tăng nhanh chóng thời lượng quảng cáo chèn vào những chương trình
phổ biến trên sóng các mạng lưới truyền hình. Giải trò chơi về bóng đá Super Bowl nổi tiếng vì
chính bản thân chương trình cũng như thời lượng các quảng cáo chèn vào, và chi phí trung bình
cho mỗi 30 giây quảng cáo trên truyền hình trong suốt trò chơi (thu hút 90 triệu khán giả) đã lên
tới 2,7 triệu USD (vào tháng 2/2008).
Vì một chương trình quảng cáo có thể được phát sóng lặp đi lặp lại trong khoảng thời gian hàng
tuần, hàng tháng, thậm chí là hàng năm (công ty Tootsie Roll đã tung ra một quảng cáo nổi tiếng
có câu hỏi: "How many licks does it take to get to the tootsie center of a Tootsie Pop?" – mất bao
nhiêu lượt click để bạn đến được trung tâm tootsie của Tootsie Pop? – trong suốt quãng thời gian
hơn ba chục năm), các studio sản xuất quảng cáo truyền hình thường bỏ ra một lượng tiền khổng
lồ cho một đoạn quảng cáo 30 giây trên truyền hình. Phí tổn to lớn này cho ra kết quả là các quảng
cáo chất lượng cao, một trong số đó có thể tự hào về chất lượng sản xuất tốt nhất, sử dụng những
hiệu ứng công nghệ mới nhất, phong cách được ưa chuộng nhất, và có phần nhạc nền tốt nhất. Một
số các quảng cáo truyền hình được sản xuất một cách tỉ mỉ đến nỗi có thể coi chúng là phiên bản
thu nhỏ của một bộ phim dài 30 phút; thêm vào đó; rất nhiều đạo diễn phim cũng dạo diễn cho các
quảng cáo truyền hình với mục đích vừa được quảng cáo, lại vừa kiếm được tiền. Một trong số các
đạo diễn phim điện ảnh nổi tiếng nhất của Ridley Scott cũng chính là đạo diễn quảng cáo truyền
hình đã đạo diễn cho quảng cáo của hãng máy tính Apple Macintosh, phát sóng năm 1984. Dù cho
quảng cáo đó chỉ được phát sóng có 1 lần, (bên cạnh những quảng cáo đặc biệt thường xuyên xuất
hiện trên truyền hình), nó vẫn trở nên nổi tiếng và được yêu thích, đến mức được coi là một thước
phim kinh điển.
Mặc cho sự phổ biến của quảng cáo truyền hình, nhiều người cho rằng chúng rất khó chịu vì một
số lý do. Mà lý do chính là âm thanh của quảng cáo truyền hình ngày càng có xu hướng lớn hơn
(một số trường hợp là lớn hơn rất nhiều) so với các chương trình thông thường, cũng như việc phát
đi phát lại một quảng cáo giống nhau, là lý do gây phiền phức thứ hai. Nguyên nhân thứ ba có thể
là khả năng gia tăng quảng cáo của các đài truyền hình, các chiến dịch quảng cáo còn mở rộng
phạm vi từ các công ty điện thoại di động và các nhà hàng fastfood đến những doanh nghiệp địa
phương và doanh nghiệp nhỏ.
Từ quan điểm này, lý do chính khiến người ta thấy quảng cáo phiền phức là do những lời mời chào
của chúng không thích hợp với họ trong thời điểm đó, hoặc sự diễn đạt không rõ ràng. Một khán
giả thông thường đã nhìn thấy đủ loại quảng cáo để biết trước rằng phần lớn phim quảng cáo là
khó chịu, khiến cho người xem chọn lọc kỹ và thẳng tay loại bỏ những gì họ không muốn xem.
Ngược lại, nếu một quảng cáo đánh đúng vào mối quan tâm của khán giả (như một quảng cáo về
sự giảm nợ chiếu ngay trước mắt một khán giả vừa nhận được cảnh cáo nợ trong hộp thư), hoặc có
giá trị giải trí bên cạnh thông điệp chính (như quảng cáo được cho là hài hước kinh điển trong
chiến dịch "Where's the beef?" của Wendy), lúc ấy người xem sẽ muốn theo dõi đoạn quảng cáo,
thậm chí còn có thể mong chờ để được xem lại nó
[cần dẫn nguồn]
.
Các hạn chế
Từ những năm 70, quảng cáo về thuốc lá đã bị cấm trên truyền hình Mỹ. Quảng cáo về rượu vẫn
được phép chiếu, nhưng sự tiêu thụ các sản phẩm có chất cồn lại bị cấm chiếu trên truyền hình. Từ
cuối thập niên 90 quảng cáo truyền hình đa dạng và biến đổi không ngừng, thêm vào đó là hàng
gia dụng và thực phẩm tuy còn nhưng không quảng cáo nhiều như trong thời gian giữa thế kỷ
trước.
Có phải là một chương trình?
Từ những năm 1960, những nhà phân tích truyền thông đòi hỏi phải có sự phân định rạch ròi giữa
“chương trình” và “quảng cáo” đã bị đuối lý khi ranh giới đó cũng khó phân định như thời bắt đầu
của truyền thông, khi mà phần lớn các show truyền hình được bảo trợ bởi những tập đoàn. Trước
đây, trong những thập niên 70 đến 90, các đài truyền hình Mỹ thường có thông lệ báo trước khi
quảng cáo (như là nói "We'll return after these messages...", "...now back to our programming" -
"Chúng tôi sẽ trở lại sau thông tin này ...", "bây giờ trở lại chương trình của chúng tôi") để giúp trẻ
em phân biệt rạch ròi giữa chương trình và quảng cáo. Chương trình duy nhất không nằm trong
quy luật này là các bản tin và các chương trình thông tin liên quan đến tin tức. Cả điều kiện của
những chương trình dành cho trẻ em đã được giảm nhẹ một chút từ thời kỳ những năm 70 và 80.
Tại châu Âu
Tại rất nhiều nước châu Âu quảng cáo truyền hình xuất hiện trong thời gian dài hơn nhưng lại ít
ngắt quãng hơn. Ví dụ như thay vì cứ 8 phút lại có 3 phút quảng cáo thì thời gian này là 6 hoặc 7
phút quảng cáo cho mỗi giờ. Luật pháp của Liên minh Châu Âu gới hạn thời gian quảng cáo trên
truyền hình là 12 phút trên một tiếng (20% thời lượng), với một chương trình độ dài tối thiểu là 20
hoặc 30 phút, tùy theo nội dung của nó.
[3]
Tuy nhiên, những giới hạn tối đa và việc điều chỉnh mức
xê dịch của chúng có sự khác biệt lớn ở từng quốc gia cả trong vào ngoài EU, và cả từ mạng lưới
truyền hình này sang mạng lưới khác. Không giống như Mỹ, tại châu Âu tên các hãng quảng cáo
có thể xuất hiện ở đầu hoặc cuối quảng cáo.
Anh quốc
Ở nước Anh, đài BBC (British Broadcasting Corporation) được tài trợ bởi phí xem truyền hình từ
người có truyền hình và không có quảng cáo. Tuy nhiên, trong những kênh thương mại, thời lượng
phát sóng được quy định bởi Independent Television Authority và do đó nó cho quảng cáo đã có
quy định về thời gian trung bình của quảng cáo là 7 phút mỗi giờ với hạn chế là 12 phút trong tổng
thời gian 1 tiếng phát sóng. Với một chương trình dài 42 phút của Mỹ xuất khẩu sang nước Anh,
như chương trình Lost, với thời lượng phát sóng là 1 giờ, trong đó chiếm gần 1/3 là thời gian cho
quảng cáo hoặc trailer giới thiệu cho chương trình khác. Kênh miễn phí đã tạo ra lối vào rất rẻ
thay cho việc đặt các dịch vụ Vệ tinh hay truyền hình cáp và đã chiếm hơn 80% đầu vào của các
mạng truyền hình kỹ thuật số. Sự phát triển của các kênh truyền hình phức hợp thay đổi bộ mặt
của quảng cáo truyền hình, tạo ra công cụ hiệu quả cho các công ty với những sản phẩm thích hợp
và khán giả chọn lọc cũng là đối tượng thích hợp. Quảng cáo 30-giây trên các kênh truyền hình kỹ
thuật số như Shy New, MTV hay E4 có thể được mua với số tiền ít hơn 50 Bảng Anh, và quảng
cáo trên những kênh chuyên ngành và ít khán giả hơn như Business Channel, Motors TV hay Real