Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Luận văn: Lợi nhuận từ đâu có ? phần 8 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.23 KB, 11 trang )

78

bệnh trầm kha của Chủ nghĩa T bản. Tuy nhiên,mặc dù sản
phẩm hàng hoá đợc tạo ra nhiều vô số thì quần chúng nhân dân
lao động vẫn nghèo đói, khổ cực. Nguyên nhân của mâu thuẫn
phi lý này cũng xuất phát từ lợi nhuận. Do muốn đạt đợc lợi
nhuận cao nên giới t bản sẵn sàng đốt bỏ, phá huỷ đi hàng triệu
tấn hàng hoá sản phẩm để giữ đợc giá bán cao.Nh trong cuộc
đại khủng hoảng năm1929-1933 ở Mĩ,giới t bản đã phá đi 10
triệu 40 vạn mẫu anh cây bông, giết bỏ 6 triệu 46 vạn con lợn.ở
Braxin, phá huỷ gần 22 triệu bao cà phê, ở Đức, thiêu huỷ 117
nghìn con súc vật vv
Hay nh sự phân hoá giầu nghèo, phân phối bất bình đẳng
trong quy mô một nớc cũng nh các nớc t bản với nhau. Có
thể nói rằng,CNTB ngày càng phát triển thì sự phân hoá giầu
nghèo cũng ngày càng tăng lên.Nguyên nhân của sự phân hoá
này cũng xuất phát từ ham muốn tối đa lợi nhuận.Để thoả mãn
ham muốn này, mọi nhà t bản sẵn sàng lờ đi lợi ích của nhiều
ngời, sẵn sàng lao vào cuộc cạnh tranh khốc liệt nhằm thu đợc
lợi nhuận. Và lẽ tất nhiên là trong cuộc cạnh tranh phải có kẻ
thắng, thua. Tuy nhiên trong xã hội t bản,do nhà nớc không
quản lý,điều chỉnh các nguồn thu nhập,không tiến hành phân
phối lại thu nhập qua các công cụ thuế và trợ cấp để đảm bảo
công bằng xã hội mà để mặc cho thị trờng tự phát,cho nên xảy
79

ra tình trạng ngời đã giầu lại càng giầu còn ngời nghèo thì cứ
nghèo mãi đi,làm cho hố phân cách giầu nghèo ngày càng rộng
ra.Hơn thế nữa, sự phân cách giàu nghèo này không chỉ tồn tại
trong phạm vi một quốc gia mà còn lan ra trên phạm vi toàn thế
giới.Theo số liệu thống kê thì hiện nay, một phần năm dân số


giàu nhất thế giới đã chiếm 87,5% GNP ; 84,2% thơng mại thế
giới ; 85% tích luỹ và 85% đầu t của thế giới còn một phần
năm dân số nghèo nhất chỉ chiếm tơng ứng là 1% ; 0,9% ;
0,7% và 0,95%. Sự phân hoá giữa các nớc cũng có thể thấy rõ
qua ví dụ sau:
Theo một tờ báo ở Nga,năm 1995, toàn thế giới có khoảng 457
tỉ phú thì riêng 5 nớc đứng đầu đã chiếm 263 ngời trong đó
nớc đứng đầu là Mĩ với 140 ngời, đứng thứ hai là Đức thì
cũng chỉ có 51 ngời.
Ngoài ra,còn có thể kể ra rất nhiều những tồn tại trong xã hội
t bản do sự ham muốn tối đa hoá lợi nhuận gây ra nh các nhà
t bản vì chạy theo lợi nhuận mà sẵn sàng sử dụng các công
nghệ độc hại do chi phí thấp nên gây ra nạn ô nhiễm môi trờng
hoặc nh tình hình các tệ nạn xã hội nh buôn bán ma tuý, ngày
càng gia tăng ở các nớc t bản mà nguyên nhân cuối cùng là do
chạy theo lợi nhuận vv
80

Mặc dù các chính phủ của các nớc t bản đã có những biện
pháp để ngăn chặn, khắc phục tuy nhiên cần phải thấy rằng
những tồn tại, những mâu thuẫn đó mặc dù có nguyên nhân bắt
nguồn từ sự ham muốn lợi nhuận nhng chỉ có trong xã hội t
bản thì chúng mới nảy sinh ngày càng nhiều. Sử dĩ nh vậy là
do,trong các xã hội có giai cấp bóc lột thống trị nói chung mà
điển hình là xã hội TBCN thì giai cấp thống trị luôn tìm mọi
cách để thoả mãn lợi ích cá nhân của giai cấp mình mà không hề
quan tâm đến lợi ích của các giai cấp còn lại trong xã hội. Nh
vậy là tuyệt đại đa số nhân dân bị áp bức bóc lột, bị buộc phải
phục vụ cho một số ít giai cấp thống trị. Khi đó, chỉ có lợi ích cá
nhân của giai cấp thống trị là đợc thoả mãn còn lợi ích cá nhân

của ngời lao động thì bị giày xéo. Sự bất công đó đã đặt lợi ích
cá nhân của một số ít giai cấp thống trị đối lập với lợi ích của
đông đảo quần chúng nhân dân.Chính vì vậy mà trong xã hội t
bản, dù cố gắng đến mấy, chính quyền của giai cấp t sản cũng
không thể dung hoà đợc mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân của
riêng giai cấp t sản và lợi ích chung của toàn xã hội. Do đó tất
yếu nẩy sinh các mâu thuẫn và khủng hoảng trong xã hội TBCN.
Nh vậy, trong phần 2 này, chúng ta,trên cơ sở phân tích các
học thuyết kinh tế cũng nh một số biểu hiện trong thực tiễn của
xã hội t bản,đã chỉ ra đợc vai trò động lực của lợi nhuận đối
81

với xã hội t bản đồng thời cũng đã thấy đợc những ảnh hởng
tiêu cực của động lực lợi nhuận tới xã hội. Trong phần sau này,
chúng ta cũng sẽ tiến hành phân tích nhằm thấy đợc vai trò
động lực của lợi nhuận đối với các nớc XHCN.

3/ Vai trò của lợi nhuận đối với các nớc Xã Hội Chủ Nghĩa :

a/ Vai trò của lợi nhuận đối với các nớc Xã Hội Chủ
Nnghĩa trong các giai đoạn trớc và sau đổi mới:
Đối với các nớc XHCN vai trò động lực của lợi nhuận đợc
biểu hiện khá khác biệt ở hai giai đoạn phát triển của CNXH mà
chúng ta tạm gọi là giai đoạn trớc đổi mới và giai đoạn sau đổi
mới.Giai đoạn trớc đổi mới bắt đầu từ khi nhà nớc XHCN đầu
tiên đợc thành lập cho đến thời điểm xã hội có những đổi mới
khá quan trọng trong lý luận và thực tiễn về CNXH. Thời điểm
đổi mới này đợc đánh dấu bằng chính sách 'kinh tế mới' của
LêNin, tuy nhiên việc đổi mới t tởng chỉ đợc áp dụng triệt để
và thành công bắt đầu từ công cuộc đổi mới của Trung Quốc

82

năm 1979. Hơn nữa,ở các nớc khác nhau thì thời điểm đổi mới
cũng khácnhau, nh ở Việt Nam thời điểm đổi mới lý luận, thực
tiễn đợc bắt đầu từ Đại Hội Đảng Toàn Quốc lần thứ VI năm
1986. Còn giai đoạn sau đổi mới thì đợc bắt đầu từ khi tiến
hành đổi mới cho đến nay, ứng với mỗi nớc. Trong hai giai
đoạn này,lợi nhuận mang ý nghĩa và vai trò hoàn toàn trái ngợc
nhau.
Trong giai đoạn trớc đổi mới,nhận thức của chúng ta về
CNXH còn quá giản đơn, mang tính rập khuôn máy móc
Chúng ta cha nhận thức đợc rằng bất kì một lý luận nào dù
mang tính khoa học đến đâu cũng đòi hỏi phải đợc vận dụng
một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế bởi vì lịch sử một quá
trình phát triển và không hề có điều gì là đúng đắn một cách
tuyệt đối trong mọi hoàn cảnh đợc. Chính vậy mà ngay cả
những lý luận của CN Mác - Lênin về CNXH cũng cần đợc vận
dụng một cách sáng tạo và hợp lý.Tuy nhiên,trong giai đoạn
này,tất cả các nớc XHCN đều mới chỉ áp dụng những lý luận
về CNXH của CN Mác-LêNin một cách rập khuôn,máy móc.
Đó là nguyên nhân cơ bản, sâu xa khiến cho lợi nhuận hoàn toàn
mất đi vai trò động lực của nó trong giai đoạn này. Ngoài ra,ta
có thể kể ra một số những nguyên nhân cụ thể gây ra điều này
nh:
83

Trớc tiên, xuất phát từ những đặc trng của CNXH mà Mác
đã nêu ra trong học thuyết của mình, các nhà lãnh đạo,trong giai
đoạn này,cho rằng trong CNXH sẽ không còn sự bóc lột mà lợi
nhuận lại gắn liền với sự bóc lột, mang bản chất bóc lột. Chính

vì vậy họ đã thực hiện một loạt các chính sách nhằm triệt tiêu
động cơ lợi nhuận nh thực hiện phơng pháp phân phối bình
quân chủ nghĩa,xoá bỏ các thành phần kinh tế phi quốc doanh
và phi tập thể đặc biệt là dựa trên lý luận của Mác cho rằng
khi chế độ t hữu tự nó tiêu vong thì tiền tệ trở thành thừa và
khi đó xã hội không cần thớc đo giá trị nữa mà dùng thớc đo
tự nhiên của nó tức là thời gian để biểu hiện những số lợng lao
động ấy , các nớc XHCN bấy giờ đã thực hiện xoá bỏ nền
kinh tế hàng hoá và thiết lập nền kinh tế kế hoạch,tập trung một
cách cao độ và do vậy đã triệt tiêu đi động lực lợi nhuận trong
nền kinh tế thị trờng.
Hoặc do,xuất phát từ bản chất tốt đẹp của CNXH, là một xã
hội tiến bộ mà trong xã hội đó, nền kinh tế thì phát triển, đời
sống nhân dân đợc ấm no, hạnh phúc , so với những ảnh
hởng tiêu cực mà động cơ lợi nhuận có thể mang lại, các nớc
XHCN đã cho rằng lợi nhuận mâu thuẫn với những bản chất tốt
đẹp của CNXH và cho rằng nó có thể phá bỏ sự tốt đẹp đó của
CNXH do đó trong CNXH không thể tồn tại lợi nhuận.
84

Ngoài ra,còn một số các nguyên nhân khác nh quan niệm
cho rằng lợi nhuận là biểu hiện của lợi ích cá nhân và do đó nó
sẽ mâu thuẫn với những lợi ích chung của cộng đồng và của xã
hội.Nói tóm lại,trong giai đoạn trớc đổi mới này,do những sai
lầm mang tính chủ quan,máy móc trong việc nhận thức về
CNXH đã dẫn tới việc xoá bỏ đi động lực lợi nhuận.Vì vậy,trong
giai đoạn này,mọi thành phần kinh tế trong xã hội đều hoạt động
một cách không có hiệu quả do không còn cái gì làm động
lực,làm mục tiêu cho các hoạt động của họ.Do đó,đã làm cho
tình trạng kinh tế cũng nh chính trị và xã hội của các nớc

XHCN bắt đầu có những biểu hiện khủng hoảng và suy
thoái.Tình trạng này tồn tại ở các nớc XHCN trong một thời
gian khá dài và nó là một trong những nguyên nhân cơ bản làm
nảy sinh nhu cầu phải nhận thức lại những lý luận trớc kia về
CNXH .
Nh trên đã nêu,giai đoạn đổi mới đợc đánh dấu bởi điểm
mốc đầu tiên chính là 'chính sách kinh tế mới' (NEP) của Lê-Nin
ra đời năm 1921.T tởng chủ yếu của chính sách này là sử
dụng công cụ kinh tế thị trờng(KTTT) và thông qua chủ nghĩa
t bản nhà nớc để đi lên CNXH.Nhng chính sách này không
đợc thử nghiệm rộng rãi và chỉ đợc tiến hành trong một thời
gian ngắn.Vì vậy,có thể nói rằng,chính sách kinh tế mới của Lê-
85

Nin chỉ có vai trò nh là một điểm mốc về lý luận của giai đoạn
đổi mới.Phải đến năm 1979 khi Trung Quốc tiến hành công
cuộc đổi mới của nớc mình thì giai đoạn đổi mới mới thực sự
bắt đầu trong thực tiễn.Đối với Việt Nam,quá trình đổi mới bắt
đầu từ năm 1986 khi Đại Hội Đảng Toàn Quốc lần thứ vi đã
đa ra yêu cầu phải đổi mới nhận thức về con đờng đi lên
CNXH ở nứoc ta.Nhìn chung,mặc dù mỗi nớc đều có những
đặc trng riêng trong công cuộc đổi mới của quốc gia mình
nhng,về cơ bản,đều dựa trên một số những nhận thức đúng đắn
hơn, phù hợp hơn với hoàn cảnh hiện tại về CNXH.Ta có thể kể
ra một số nhận thức cơ bản sau :
Trớc hết là sự nhận thức lại về lý luận của CN Mác về hoàn
cảnh xuất hiện của CNXH.Cần phải thấy rằng những dự đoán
của Mác về CNXH đợc xuất phát từ giả định cho rằng cách
mạng vô sản(CMVS) nổ ra và giành thắng lợi trên phạm vi toàn
thế giới hoặc ít ra là ở đại bộ phận những nớc t bản phát triển

nhất,ở đó tính chất xã hội hoá của LLSX phát triển đến mức
không còn sản xuất nhỏ.Tuy nhiên,trong thực tế thì CMVS đã
"nổ ra ở những mắt xích yếu nhất của CNTB " tức là ở những
nớc mà nền sản xuất còn kém phát triển,còn mang nặng tính
chất của nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu.Chính vì vậy,khi các
nớc này tiến hành xây dựng CNXH,không thể áp dụng những
86

lý luận của CN Mác một cách rập khuôn,máy móc nh những lý
luận về việc không tồn tại nền kinh tế thị trờng
(KTTT),không tồn tại các thành phần kinh tế phi XHCN
vv trong CNXH.Ngoài ra,cũng cần phải bác bỏ những lý luận
thiếu tính khoa học khi đem gắn CNTB với nền KTTT và gắn
CNXH với nền kinh tế kế hoạch(KTKH).Cần phải thấy
rằng,KTTT hay KTKH,xét cho cùng,đều chỉ là một công cụ để
phát triển kinh tế và chúng không liên quan tới bản chất TBCN
hay XHCN của xã hội.Nói tóm lại,các nớc XHCN đã nhận thức
đợc rằng để xây dựng thành công CNXH thì phải thiết lập một
nền KTTT có định hớng XHCN và trong KTTT,tất yếu luôn
coi lợi nhuận nh là một động lực cơ bản cho mọi hoạt động của
con ngời.
Một nhận thức quan trọng khác là về vị trí của các nớc trên
con đờng tiến lên CNXH. Nếu trớc đây,các nớc XHCN
thờng mắc phải căn bệnh nóng vội,muốn nhanh chóng tiến lên
CNXH,muốn "quá độ nghèo,quá độ nhanh"lên CNXH.Chính vì
vậy,các nớc này đã tiến hành thực thi các QHSX XHCN nh
chỉ duy trì hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể,thực
hiện chính sách phân phối bình quân chủ nghĩa vv mà không
quan tâm tới trình độ phát triển của LLSX.Tuy nhiên,nhờ sự đổi
87


mới trong lý luận nhận thức,các nớc này đã tự đánh giá lại vị
trí của mình,cho rằng họ mới chỉ đang ở giai đoạn đầu của thời
kỳ quá độ lên CNXH.Hơn nữa,họ đã nhận thức đợc quy luật
QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX do
đó,với LLSX còn kém phát triển thì cần phải điều chỉnh và vận
dụng QHSX XHCN một cách phù hợp.
Ngoài ra,còn rất nhiều những nhận thức khác nữa đợc hình
thành trong giai đoạn đổi mới t tởng này.Những nhận thức
này,có thể đợc phát triển từ lý luận hoặc đợc đúc kết từ thực
tiễn,đã làm thay đổi khá nhiều những lý luận trớc đó về
CNXH.Những thay đổi này thì nhiều nhng nếu chỉ xét riêng về
vấn đề ta đang xem xét thì có thể nói rằng nhờ sự nhận thức
đúng đắn hơn về CNXH,các nớc XHCN đã đánh giá đúng đợc
vai trò của lợi nhuận,đã thừa nhận vai trò động lực của lợi nhuận
đối với sự phát triển của từng cá nhân cũng nh của toàn xã hội.
b/Vai trò của lợi nhuận ở Việt Nam trớc và sau công cuộc
đổi mới :
Trên đây,chúng ta đã nghiên cứu sự chuyển đổi trong nhận
thức và lý luận về CNXH của các nớc XHCN nói chung.Chúng
ta đã thấy đợc sự đổi mới trong việc nhận thức về những đặc
88

trng của CNXH nói chung và sự đổi mới trong những lý luận
về lợi nhuận cũng nh vai trò của nó nói riêng.Tuy nhiên,để cụ
thể hơn,ta sẽ nghiên cứu sự đổi mới này ở Việt Nam nhằm qua
đó thấy đợc những biểu hiện khác nhau,thậm chí là trái ngợc
nhau,của vai trò mang tính động lực của lợi nhuận trong hai giai
đoạn trớc và sau đổi mới.
Trớc hết là trong giai đoạn trớc đổi mới,ở Việt Nam,giai

đoạn này đợc bắt đầu chính thức sau khi chúng ta hoàn toàn
giải phóng và thống nhất đợc đất nớc năm 1975.Nó kéo dài
đến năm 1986,khi Đại Hội Đảng Toàn Quốc lần thứ VI họp và
quyết định tiến hành công cuộc đổi mới t tởng mà nhiệm vụ
chính là đổi mới trong nhận thức về CNXH.Trong giai đoạn
này,Đảng ta chủ trơng quyết tâm nhanh chóng khôi phục lại
nền kinh tế sau chiến tranh và bớc đấu xây dựng những tiền đề
vật chất của CNXH.Tuy nhiên,do còn tồn tại những hạn chế và
sai lầm trong nhận thức về các đặc trng cơ bản của CNXH và
con đờng quá độ lên CNXH cho nên trong quá trình thực hiện
Đảng ta đã mắc một số sai lầm dẫn tới việc xoá bỏ đi vai trò
động lực của lợi nhuận.Đây là một trong các nguyên nhân dẫn
tới thực trạng là,vào cuối giai đoạn này,tình hình kinh tế,chính
trị và xã hội của đất nớc ta trở nên rối loạn,mất ổn định.Cả
nớc ta bị rơi vào một tình trạng khủng hoảng về mọi mặt. Sau

×