Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

ĐẶC ĐIỂM CỦA GÂY MÊ HỒI SỨC TRONG PHẪU THUẬT VIÊM PHÚC MẠC potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.28 KB, 23 trang )

ĐẶC ĐIỂM CỦA GÂY MÊ HỒI SỨC TRONG PHẪU THUẬT
VIÊM PHÚC MẠC

TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm của Gây mê hồi sức trong phẫu thuật
viêm phúc mạc.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu, mô tả 263 trường
hợp viêm phúc mạc được phẫu thuật cấp cứu tại Bệnh viện Bình Dân
TP.HCM từ 02/2005 đến 02/2006.
Kết quả: Nam giới chiếm 54%, lứa tuổi thường gặp là 30 - 49 tuổi.
57,4 % trường hợp đến bệnh viện trong tình trạng viêm phúc mạc đã lan
rộng khắp bụng gây nên viêm phúc mạc toàn thể, viêm phúc mạc có kèm
theo sốc chiếm 2,28%. Phương pháp vô cảm an toàn và ưu tiên sử dụng là
gây mê toàn diện qua nội khí quản phối hợp nhiều loại thuốc với tỷ lệ cân
bằng, chiếm 91,6% các trường hợp phẫu thuật. Huyết động của bệnh nhân
được duy trì ổn định trong suốt quá trình phẫu thuật khi khởi mê bằng thuốc
mê tĩnh mạch Propofol (85,5%), và thuốc dãn cơ được ưu tiên sử dụng là
Rocuronium (83,8%). Tất cả bệnh nhân được giảm đau bằng Fentanyl và
duy trì gây mê bằng Isoflurane. Biến chứng sau mổ chiếm 14,45% trong đó
nhiễm trùng vết mổ gặp nhiều nhất 47,36%, tử vong 10,52%.
Kết luận: Gây mê toàn diện qua nội khí quản phối hợp thuốc khởi mê
Propofol, thuốc dãn cơ Rocuronium, giảm đau bằng Fentanyl và duy trì gây
mê với Isoflurane là phương thức vô cảm an toàn và hiệu quả nhất trong
phẫu thuật viêm phúc mạc.
ABSTRACT
Objectives: To study the efficacy and safety of Anesthesia-
Reanimation in surgery of Peritonitis.
Methods: Two hundred sixty three patients of peritonitis at Binh Dan
hospital from February 2005 to February 2006 have been studied
prospectively and descriptively.
Results: Our study has shown that peritonitis is a common surgical


emergency. Man accounted for 54%. Most of the patients were in range of
30 - 49 years old. The patients who came to the hospital with general
peritonitis were 57.4% with or without shock. General anesthesia method is
a technique of safe and the first effective choice in these cases. The results
showed that 91.6% of the patients were intubated with endotracheal tube.
Hemodynamics was keeped stably during anesthesia with the intravenous
agent Propofol and muscle relaxant agent Rocuronium. The prevalent usage
of Propofol was 85.5% and Rocuronium was 83.8%. We also realized that
Fentanyl and Isoflurane were used in all patients. Postoperartive
complications were 14.45% with no anesthetic complications. Infection of
incision was the most popular one with 47.36%, and postoperative mortality
was 10.52%.
Conclusions: General anesthesia method with intubation is a
technique of safety and efficacy in these cases. Combining between
Propofol, Rocuronium, Fentanyl and Isoflurane is evaluated as the best co-
ordination that bring to the stableness for the patients of Peritonitis during
the operation.
MỞ ĐẦU
Viêm phúc mạc (VPM) là một hội chứng ngoại khoa thường gặp, nếu
không được chẩn đoán sớm, hồi sức và điều trị kịp thời bệnh nhân (BN) có
nguy cơ tử vong
(6)
. Hiện nay, biến chứng và tỷ lệ tử vong do VPM khoảng
10 - 40% các trường hợp
(4)
. Người thầy thuốc luôn hướng tới việc phát hiện
sớm và chẩn đoán chính xác tình trạng VPM, từ đó có thể xử trí và can thiệp
kịp thời bằng các biện pháp thích hợp. Phẫu thuật trong VPM cần được tiến
hành càng sớm càng tốt ngay khi có chẩn đoán xác định và kết hợp hồi sức
tích cực cho BN trước mổ.

Ngày nay với khá nhiều kỹ thuật vô cảm mang lại sự an toàn và giảm
thiểu tối đa các tai biến cho BN. Tuy nhiên, BN VPM thường có rối loạn toàn
thân, đặc biệt những BN lớn tuổi, BN mắc bệnh nội khoa nặng hoặc BN nhập
viện trễ thì việc lựa chọn phương pháp vô cảm (PPVC) phù hợp, an toàn và
hiệu quả sẽ gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, PPVC tối ưu trong phẫu thuật VPM
vẫn là gây mê toàn diện (GMTD) qua ống nội khí quản (NKQ) và sử dụng phối
hợp các loại thuốc với tỷ lệ cân bằng
(11)
.
Với chuyên ngành Gây mê hồi sức (GMHS) trong phẫu thuật cấp cứu
về bụng nói chung và phẫu thuật VPM nói riêng, hiện chưa có nhiều các
nghiên cứu sâu về vấn đề này. Chính vì vậy, nghiên cứu đề tài trên nhằm
góp phần nâng cao chất lượng trong điều trị VPM, hạ thấp tỷ lệ biến chứng
(BC) và tử vong sau mổ, hy vọng mang lại lợi ích và sức khỏe cho người
bệnh.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục Tiêu tổng quát
Khảo sát đặc điểm của Gây mê hồi sức trong phẫu thuật viêm phúc
mạc.
Mục Tiêu cụ thể
- Xác định phương pháp vô cảm tối ưu trong phẫu thuật viêm phúc
mạc.
- Khảo sát sự thay đổi huyết động học khi gây mê hồi sức trên bệnh
nhân viêm phúc mạc.
- Xác định tỷ lệ tai biến, biến chứng của gây mê và phẫu thuật viêm
phúc mạc.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu, mô tả.
Đối tượng nghiên cứu

Bao gồm tất cả các BN được chẩn đoán VPM thứ phát, cấp tính, được
tiến hành GMHS và phẫu thuật cấp cứu tại Bệnh viện Bình Dân TP.HCM.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Từ tháng 02/2005 đến 02/2006 tại Bệnh viện Bình Dân TP.HCM.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Tất cả những BN được chẩn đoán VPM cấp tính, thứ phát và nhập
viện điều trị.
Tiêu chuẩn loại trừ
- VPM nguyên phát.
- VPM tử vong trước khi được gây mê và phẫu thuật.
Phương pháp tiến hành
Chuẩn bị phương tiện
- Phòng mổ có trang bị bàn mổ, đèn mổ, máy gây mê, nguồn dưỡng
khí, đèn soi thanh quản, ống NKQ các cỡ, mặt nạ các cỡ, ống nghe tim phổi,
máy hút.
- Monitoring theo dõi huyết áp (HA), nhịp tim, độ bão hòa oxy mao
mạch (SpO
2
).
- Các thuốc thường dùng: Thiopental, Propofol, Ketamin, Etomidate,
Hypnovel, Fentanyl, Suxamethonium, Rocuronium, Vecuronium,
Atracurium, Atropin, Ephedrin.
- Các loại dịch truyền: Natri Clorua 0.9% (SSI), Lactate Ringer (LR),
Glucose 5% (SGI) và 20%, Heasteril 6%, Gelofusine
- Ống tiêm và kim luồn các cỡ, gòn gạc, găng tay, băng keo.
Kỹ thuật gây mê hồi sức:
- Khi vào phòng mổ BN được giải thích về PPVC và trấn an tâm lý.
- Thiết lập đường truyền tĩnh mạch với kim số 18G, 20G.
- Thiết lập monitoring theo dõi ECG, nhịp tim, HA, SpO
2

, tần số thở.
- Tiền mê: Midazolam 1-2 mg (TM), Fentanyl 1-2 mcg/kg (TM).
- Tiến hành gây mê: cho BN thở dưỡng khí khoảng 3 phút trước khi
khởi mê, người phụ sẽ làm nghiệm pháp sellick. Bơm liều thuốc mê tĩnh
mạch và thuốc dãn cơ có tác dụng nhanh, tiến hành đặt ống NKQ. Kiểm tra
nghe phổi để chắc chắn ống NKQ nằm đúng trong khí quản, cố định ống
NKQ bằng băng keo.
- Liều lượng các loại thuốc thường dùng để khởi mê, đặt NKQ:
Thiopental: 5-7 mg/kg (TM); Propofol: 2-2,5 mg/kg (TM); Ketamin: 1-2
mg/kg (TM); Etomidate: 0,3-0,4 mg/kg (TM); Midazolam: 0,05-0,1 mg/kg
(TM); Fentanyl: 2-5 mcg/kg (TM), Suxamethonium: 1-2 mg/kg (TM),
Atracurium: 0,4-0,5 mg/kg (TM); Rocuronium: 0,6-0,8 mg/kg (TM);
Vecuronium: 0,08-0,1 mg/kg (TM).
- Duy trì mê bằng Isoflurane và Fentanyl.
- Ghi nhận tần số tim và HA: trước khi gây mê, sau khi dẫn đầu, khi
rạch da, sau rạch da 10 phút, 20 phút, 30 phút và khi kết thúc gây mê.
- Rút ống NKQ tại phòng hồi tỉnh khi BN tỉnh táo, hô hấp ổn định,
kích thích chuỗi bốn (TOF) của cơ khép ngón cái T4/T1 ³ 90%.
KẾT QUẢ
Tổng số bệnh nhân được nghiên cứu là 263 trường hợp, nam nhiều
hơn nữ, nam 54% (142 BN), nữ 46% (121 BN).
Bảng 1: Nhóm tuổi
Nhóm
Nam

Nữ

T
ần
T

ỷ lệ
tuổi số %
< 30 37 28 65 24,72
30
-
49
53 45 98 37,26
50
-
69
29 27 56 21,29
# 70 23 21 44 16,73
Tổng 142 121

263

100
Nhận xét: Nhóm tuổi gặp VPM nhiều nhất là từ 30 - 49 tuổi, chiếm
37,26%.
Bảng 2: Phân loại viêm phúc mạc
Phân lo
ại
Tần Tỷ
VPM số lệ %
VPM toàn
thể
151 57,4

VPM khu
trú

112 43,6

Tổng 263 100

Nhận xét: VPM toàn thể gặp nhiều hơn VPM khu trú.
Biểu đồ 2: Bệnh cảnh viêm
phúc mạc
Nhận xét: Trong 263 trường hợp VPM nhập viện điều trị, có 6 trường
hợp VPM nặng diễn tiến đến sốc, chiếm tỷ lệ 2,28%.
Bảng 3: Phương pháp vô cảm
Phương
pháp vô cảm
T
ần
số
Tỷ
lệ %
Gây mê qua
NKQ

241

91,6
Gây tê t
ủy
sống
22 8,4
Tổng 263

100


Nhận xét: Có 241 trường hợp được gây mê toàn diện qua ống NKQ,
chiếm 91,6% và 22 trường hợp tê tủy sống (TTS), chiếm 8,4%. Trong đó, tỷ
lệ TTS thất bại phải chuyển sang gây mê toàn diện qua ống NKQ là 2/22
trường hợp, chiếm 9,1%.
Bảng 4: Thuốc mê tĩnh mạch
Thuốc m
ê
T
ần
T
ỷ lệ
tĩnh mạch số %
Propofol 206

85,48
Etomidate

21 8,71
Thiopental

10 4,15
Ketamin 4 1,66
Tổng 241

100
Nhận xét: Tỷ lệ BN được khởi mê bằng Propofol chiếm cao nhất
85,5%. Liều Propofol trung bình là 100,24 ± 16,27 mg, liều thấp nhất là 50
mg, cao nhất là 150 mg.
Bảng 5: Thuốc dãn cơ

Thuốc dãn cơ T
ần
số
T
ỷ lệ
%
Rocuronium 202

83,82
Atracurium 28 11,62
Vecuronium 9 3,73
Suxamethonium

2 0,83
Tổng 241

100
Nhận xét: BN sử dụng Rocuronium khi khởi mê chiếm tỷ lệ cao nhất
84%. Liều Rocuronium trung bình 28,03 ± 7,42 mg, thấp nhất là 15 mg, cao
nhất là 60 mg.
Thuốc giảm đau: Nhóm thuốc á phiện được sử dụng để giảm đau ở tất
cả BN trong suốt quá trình phẫu thuật là Fentanyl với liều trung bình là 167,6 ±
46,09 mcg, thấp nhất là 50 mcg, cao nhất là 350 mcg.
Thuốc mê bốc hơi: Tất cả BN GMTD qua ống NKQ duy trì gây mê
bằng Isoflurane.
Bảng 6: Thay đổi huyết động học
Thời
điểm
Mạch


(nhịp/phút)

Huy
ết
áp tâm thu
(mmHg)
Huy
ết
áp tâm
trương
(mmHg)
Trư
ớc
gây mê
103,9
± 17,4
127,5
± 20,7
76,6 ±
12,8
Khi
dẫn đầu
98,2
± 15,6*
110,3
± 16*
67,3 ±
8,3*
Khi
rạch da

102,8
± 15,5
125,2
± 18,4
73,1 ±
9,1*
Sau
10 phút
100 ±
14,9*
117,8
± 15,9*
70,2 ±
8,5*
Sau
20 phút
98,7
± 14,9*
115,9
± 15,6*
69,7 ±
7,7*
Sau
30 phút
97,9
± 14,4*
115,3
± 14,5*
69,2 ±
7,5*

Khi
kết thúc
102,2
± 16,1
122 ±
19,2*
72,1 ±
9,3*

p <
0,05
p <
0,001
p <
0,001
*: sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so với thời điểm trước khi gây mê
Bảng 7: Biến chứng sau mổ
Biến
chứng
T
ần
số
T
ỷ lệ
%
Không 225

85,55
Có 38 14,45
Tổng 263


100
Nhận xét: Có 38 trường hợp xảy ra BC sau mổ chiếm 14,45%. Không
có trường hợp xảy ra tai biến do gây mê.
Bảng 8: Tỷ lệ các biến chứng
Biến
chứng
T
ần
số
T
ỷ lệ
%
Nhiễm
trùng vết mổ
18 47,36
T
ụt huyết
áp
3 7,90
Viêm phổi

2 5,26
Suy hô hấp

2 5,26
Ch
ảy máu
ổ bụng
2 5,26

VPM tái
phát sau mổ
1 2,63
Hơn 1 bi
ến
chứng
6 15,80
Tử vong 4 10,52
Tổng 38 100
Nhận xét: Nhiễm trùng vết mổ (NTVM) chiếm tỷ lệ cao nhất 47,36%.
Có 4 trường hợp tử vong, chiếm 10,52%.
BÀN LUẬN
- Trong 263 trường hợp VPM được gây mê phẫu thuật chúng tôi đã
thực hiện, tỷ lệ nam chiếm 54% (142 BN), nữ chiếm 46% (121 BN). Tuổi
trung bình của mẫu nghiên cứu là 45,74 ± 19,92 tuổi, BN nhỏ tuổi nhất là 15
tuổi, cao nhất là 90 tuổi. Lứa tuổi VPM thường gặp nhất là 30 - 49 tuổi,
chiếm 37,3%, Tỷ lệ mắc bệnh giảm dần khi tuổi càng tăng, 50 - 69 tuổi
chiếm 21,3%, trên 70 tuổi là 16,7%.
- Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa số BN đến nhập viện trong tình
trạng VPM đã lan rộng khắp xoang bụng gây VPM toàn thể chiếm 57,4% so
với 42,6% trường hợp VPM khu trú. Điều này phù hợp với tỷ lệ BN đến
nhập viện trễ sau 24 giờ, khi tình trạng viêm nhiễm trong ổ bụng đã diễn tiến
nặng hơn kéo theo rối loạn chức năng của nhiều cơ quan khác trong cơ
thể
(10)
.
-Theo Hồ Khánh Đức và cộng sự: tỷ lệ VPM toàn thể chiếm 80,8%
(4)
.
-Lê Ngọc Quỳnh: tỷ lệ trên là 60,1%

(5)
.
- Về bệnh cảnh viêm phúc mạc: có 6 trường hợp VPM toàn thể diễn
tiến đến sốc, chiếm 2,3%. Đây là những BN rất nặng, tuổi cao, thời gian đến
bệnh viện trễ nên khi nhập viện đã có dấu hiệu nhiễm trùng nhiễm độc nặng,
đe dọa tử vong. Chỉ có hai trường hợp diễn tiến tốt sau khi hồi sức tích cực
và phẫu thuật kịp thời. Tuy nhiên, những BN này phải thở máy kéo dài, mở
khí quản, sử dụng thuốc vận mạch và thời gian nằm viện khá lâu
(9)
.
- Tuy có nhiều PPVC có thể áp dụng cho phẫu thuật VPM, dựa vào
nhiều yếu tố mà ưu tiên là phải đảm bảo được sự an toàn cho BN và tạo thuận
lợi cho công tác điều trị của người thầy thuốc
(8,13)
. Chúng tôi nhận thấy rằng,
VPM là tình trạng nhiễm khuẩn trong ổ bụng, khi phẫu thuật cần mở rộng
thành bụng và làm sạch toàn bộ ổ bụng nên cần lựa chọn một PPVC toàn thể,
hiệu quả và an toàn cho BN. GMTD qua ống NKQ có rất nhiều lợi điểm: giúp
điều khiển và kiểm soát hô hấp của BN môt cách hữu hiệu; hút rửa những chất
xuất tiết trong khí, phế quản dễ dàng; giảm khoảng chết cơ thể; không trở ngại
cho hô hấp dù BN nằm ở bất kỳ tư thế nào; người gây mê có thể cách xa mà
vẫn kiểm soát được hô hấp BN
(11)
. Trong điều kiện sức khỏe BN cho phép,
GMTD qua ống NKQ là tốt nhất vì có thể áp dụng cho tất cả các trường hợp
VPM, thuốc dãn cơ làm cho thành bụng mềm, thuận lợi cho thao tác của phẫu
thuật viên (PTV) và việc làm sạch xoang bụng. Trong nghiên cứu của chúng
tôi, có 241 BN được GMTD qua ống NKQ để phẫu thuật, chiếm 91,6%. Chỉ có
22 BN (8,4%) được chỉ định gây TTS, đây là những BN tuổi cao, chẩn đoán
xác định là VPM khu trú và đến bệnh viện sớm. Tuy nhiên, có 2 trường hợp

không đạt hiệu quả gây tê nên bắt buộc chuyển sang GMTD.
- Về thuốc mê tĩnh mạch: với nhiều ưu điểm như có thời gian khởi phát
và thời gian tác dụng nhanh, giảm được áp lực nội sọ, giảm chuyển hóa và nhu
cầu dưỡng khí cho não, ít gây ức chế cơ tim, ít gây co thắt khí phế quản, ít ảnh
hưởng lên chức năng gan thận, hồi tỉnh sớm và chất lượng tỉnh mê tốt, thích
hợp cho nhiều BN nên Propofol là thuốc được chọn sử dụng rộng rãi vào thời
điểm hiện nay
(3)
. Trong nghiên cứu này, Propofol được sử dụng để khởi mê
nhiều nhất (85,5%) với tổng liều trung bình là 100,24 ± 16,27 mg, cao nhất là
150 mg, với kỹ thuật chích tĩnh mạch chậm từng liều nhỏ. BN cũng được bù
thể tích tuần hoàn trước khi dẫn đầu gây mê nhằm hạn chế tác dụng hạ HA của
Propofol. Etomidate là thuốc có tính ổn định về huyết động, có tác dụng kích
thích hệ tim mạch, thích hợp cho những BN có khối lượng tuần hoàn thấp nên
được lựa chọn cho những BN có vấn đề về tim mạch, chiếm 8,7%. Có 4 trường
hợp (1,7%) được khởi mê bằng Ketamin vì Ketamin được lựa chọn để khởi mê
cho những BN VPM toàn thể nặng hoặc có sốc kèm theo.
- Về thuốc dãn cơ: trong phẫu thuật cấp cứu, ưu tiên lựa chọn thuốc dãn
cơ có tác dụng liệt cơ nhanh và không gây ra các tác dụng ngoại ý. Rocuronium
là thuốc chẹn thần kinh - cơ không khử cực mới tổng hợp, được chứng minh là
có khởi phát tác dụng nhanh hơn bất kỳ thuốc chẹn dãn cơ không khử cực nào
khác. Rocuronium đã được đánh giá trong phòng mổ như là một thuốc thay thế
cho Suxamethonium để đặt NKQ nhanh trong những trường hợp cấp cứu và
trên những BN có nguy cơ có tác dụng phụ tiềm ẩn do Suxamethonium.
Rocuronium hầu như không có tác dụng tim mạch có ý nghĩa lâm sàng và
không gây tăng K
+
máu
(2,3)
. Trong nghiên cứu, chúng tôi sử dụng thuốc dãn cơ

Rocuronium khi khởi mê để đặt ống NKQ, chiếm tỷ lệ 84% các trường hợp gây
mê. Tổng liều Rocuronium trung bình là 28,03 ± 7,42 mg, cao nhất là 60 mg
trong suốt thời gian mổ.
- Duy trì gây mê: Isoflurane có tác dụng ổn định huyết động, ít ức chế
co bóp cơ tim, ít gây loạn nhịp, giảm nhu cầu oxy của tế bào cơ tim, thời
gian tác dụng và thời gian hồi tỉnh ngắn, chỉ có 0,2% lượng thuốc được
chuyển hóa
(12)
. Trong nghiên cứu của chúng tôi, những BN GMTD qua ống
NKQ thì được duy trì gây mê bằng Isoflurane, kết hợp với thuốc giảm đau
mạnh là Fentanyl. Liều Fentanyl trung bình trong suốt cuộc mổ là 167,6 ±
46,09 mcg, cao nhất là 350 mcg.
- Việc theo dõi toàn diện BN trong suốt quá trình gây mê phẫu thuật
được chúng tôi thực hiện chặt chẽ. Khi vào phòng mổ, tất cả BN được theo
dõi liên tục nhịp tim, HA, SpO
2
bằng monitoring. Chúng tôi nhận thấy sau
khi khởi mê, nhịp tim và HA của BN giảm một cách có ý nghĩa so với thời
điểm BN mới vào phòng mổ (p < 0,05). Khi rạch da, huyết động có thay đổi
theo khuynh hướng tăng lên. Điều này là do phản xạ giao cảm khi BN đau
và có thể BN chưa đạt đến độ mê thích hợp
(12)
. Trong hoàn cảnh này, chúng
tôi phòng ngừa sự thay đổi huyết động bằng cách tiêm thêm liều Fentanyl 50
- 100 mcg và tăng nồng độ thuốc mê bốc hơi trước khi PTV tiến hành rạch
da. Trong suốt quá trình phẫu thuật, chúng tôi cố gắng duy trì nhịp tim và
HA của BN ở mức tốt nhất, các chỉ số này đều thấp hơn có ý nghĩa so với
thời điểm trước khi khởi mê (p < 0,05), nhằm đảm bảo cho cuộc gây mê
phẫu thuật được thuận lợi và an toàn. Ngoài ra, trước những trường hợp dự
đoán sẽ mất nhiều máu trong lúc mổ thì cần theo dõi sát tình trạng huyết

động để có những xử trí và bù đắp hợp lý. Đối với những BN VPM nặng
hoặc có sốc chúng tôi còn theo dõi áp lực tĩnh mạch trung tâm (CVP) để có
phương thức hồi sức kịp thời
(2,9)
.
- Trong 263 BN VPM, có 85,6% trường hợp sau mổ diễn tiến thuận
lợi, trong khi có 14,4% xảy ra các BC sau mổ. Trong đó, NTVM chiếm tỷ lệ
cao nhất 47,36%, BN có từ 2 BC trở lên chiếm 15,8%, tỷ lệ tử vong sau mổ
là 10,52%. Không có trương hợp nào xảy ra tai biến do gây mê.
- Theo Hồ Khánh Đức và cộng sự: tỷ lệ BC chung sau mổ VPM là
26,6%, trong đó NTVM chiếm cao nhất 30%, tỷ lệ tử vong là 13,83%
(4)
.
- Lê Ngọc Quỳnh: tỷ lệ NTVM là 42,37%
(5)
.
- Cicciarella G.: BC sau mổ VPM do thủng đường tiêu hoá là 4%, tỷ
lệ tử vong là 7%
(1)
.
- Lochan R.: BC sau mổ VPM mật là 10%, tỷ lệ tử vong là 30-50%
(7)
.
KẾT LUẬN
VPM là một bệnh cảnh ngoại khoa đặc biệt, diễn tiến phức tạp, gây ra
nhiều rối loạn trong cơ thể. BN có thể đến bệnh viện muộn, trong tình trạng
nặng nề. Điều đó gây ra không ít những khó khăn cho thầy thuốc trong việc
điều trị cũng như tiên lượng bệnh.
- Với điều kiện hiện nay, phòng mổ được trang bị phương tiện khá tốt
nên 91,6% các trường hợp VPM được GMTD qua ống NKQ, phối hợp nhiều

loại thuốc khác nhau với tỷ lệ cân bằng. Đây là PPVC thích hợp, hiệu quả và an
toàn nhất để mổ VPM.
- Huyết động của BN được duy trì ổn định trong suốt quá trình gây mê
phẫu thuật, dưới sự khởi mê bằng Propofol và Rocuronium, duy trì gây mê
với Isoflurane và Fentanyl.
- NTVM là BC chiếm tỷ lệ cao nhất 47,36% sau phẫu thuật VPM, tử
vong chiếm 10,52%. Những trường hợp tử vong trong nghiên cứu đều xảy ra
trên các BN VPM đến bệnh viện trễ, đã rơi vào sốc.

×