A. MỞ ĐẦU:
Chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong thể
chế chính trị. Nhưng mỗi nước nguyên thủ quốc gia có tên gọi (vua,
Hoàng đế, Tổng thống, Đoàn Chủ tịch hội đồng liên bang, Hội đồng Nhà
nước, Chủ tịch nước), vị trí, chức năng khác nhau tuỳ thuộc vào thể chế
chính trị và cách thức tổ chức nhà nước. Nhưng có một điểm chung là đều
là người đứng đầu Nhà nước, đại diện cho Nhà nước về đối nội và đối
ngoại. Ở nước ta, nguyên thủ quốc gia tồn tại dưới hình thức Chủ tịch
nước theo Hiến pháp 1946, 1959, 1992, riêng Hiến pháp năm 1980 Chủ
tịch nước tồn tại dưới hình thức là Hội đồng Nhà nước, là một chế định
nguyên thủ quốc gia tập thể. Vị trí, tính chất, chức năng quyền hạn và mối
quan hệ của thiết chế này đối với các cơ quan khác cũng khác nhau theo
từng giai đoạn phát triển của tổ chức nhà nước. Trong từng hiến pháp có
sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc căn bản của tổ chức bộ máy
nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia nói
riêng. Ở đây ta đi vào tìm hiểu, phân tích chế định Chủ tịch nước theo
pháp luật hiện hành.
B. NỘI DUNG:
Chế định Chủ tịch nước theo HP1992 và Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ
sung theo nghị quyết số 51/2001/QH10.
Chế định Hội đồng Nhà nước (nguyên thủ quốc gia tập thể) ngày
càng bộ lộ rõ những hạn chế trong quá trình hoạt động. Bên cạnh đó, trên
thế giới diễn ra rất nhiều biến động lớn, mà tiêu biểu là hệ thống Xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã. Đất nước ta bước vào thời kỉ
khủng hoảng trầm trọng bởi cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp
và phổ biến quan điểm giáo điều, giản đơn về CNXH. Một yêu cầu bức
thiết được đặt ra, đó là phải đổi mới, đổi mới trong bộ máy Nhà nước và
trong đời sống xã hội. Hiến pháp năm 1980 đã tỏ ra không còn phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh mới của đất nước. Ngày 15 tháng 4 năm 1992 tại
kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp mới thay thế
Hiến pháp 1980, đó là Hiến pháp năm 1992. Tổ chức bộ máy Nhà nước
có nhiều thay đổi căn bản so với bộ máy Nhà nước theo quy định của
Hiến pháp năm 1980, trong đó có chế định Chủ tịch nước.
Thiết chế nguyên thủ quốc gia được tổ chức khác nhau qua các Hiến
pháp. Ở Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 là Chủ tịch nước, đến Hiến
pháp năm 1980 là Hội đồng Nhà nước và tại Hiến pháp năm 1992, thiết
chế Chủ tịch nước được xây dựng lại. Mô hình lần này vừa tiếp thu những
ưu điểm của mô hình Chủ tịch nước của Hiến pháp năm 1946 và Hiến
pháp năm 1959, vừa giữ được sự gắn bó giữa Quốc hội, Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội và Chủ tịch nước trong việc thực hiện các chức năng nguyên
thủ quốc gia trong thể chế Hội đồng Nhà nước. Đồng thời cũng có thêm
những đặc điểm mới.
1. Vị trí, tính chất và trật tự hình thành
Về vị trí, tính chất, "Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà
nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội
và đối ngoại" (Điều 101 Hiến pháp năm 1992). Như vậy, cũng như các
Hiến pháp năm 1959 và năm 1980, Chủ tịch nước chỉ đóng vai trò
nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước ta về
đối nội và đối ngoại, chứ không đứng đầu Chính phủ như chế định
Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946.
Về trật tự hình thành, "Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại
biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước Quốc hội". Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc
hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ
cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu Chủ tịch nước mới" (Điều 102
Hiến pháp năm 1992). Trật tự hình thành của Chủ tịch nước nói lên
mối quan hệ chặt chẽ với cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất - Quốc
hội.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước
Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước được Hiến pháp quy
định ở Điều 103 (gồm 12 vấn đề), và ở một số điều khoản khác có liên
quan (Như Điều 135, Điều 139). Có thể phân chia các nhiệm vụ,
quyền hạn của Chủ tịch nước thành hai nhóm:
• Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại
diện, thay mặt nước về đối nội và đối ngoại.
Chủ tịch nước ở nước ta cũng như hầu hết các nguyên thủ quốc
gia đều được quy định quyền này. Cụ thể là:
+ Chủ tịch nước "Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của
Việt Nam; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; tiến
hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; quyết
định phê chuẩn hoặc tham gia điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình
Quốc hội quyết định" (Điểm 10 Điều 103 Hiến pháp năm 1992).
Chủ tịch nước quyết định việc kí kết điều ước với danh nghĩa Nhà nước
và những điều ước quốc tế có điều khoản trái với Luật hoặc Pháp lệnh.
Chủ tịch nước trực tiếp đàm phán, kí kết hoặc uỷ quyền trưởng đoàn đàm
phán kí kết. Chủ tịch nước phê chuẩn các điều ước thuộc quyền quyết
định của Chủ tịch nước về điều ước Quốc tế có điều khoản quy định việc
phê chuẩn. Việc xin phê chuẩn điều ước Quốc tế do cơ quan đề xuất việc
kí kết phối hợp với Bộ ngoại giao đề nghị Chính phủ trình Chủ tịch nước,
Chủ tịch nước xét và tiến hành phê chuẩn hoặc trình Quốc hội phê chuẩn.
Và ở Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, quy định này được
bổ sung thêm đó là: Chủ tịch nước trình Quốc hội phê chuẩn các điều ước
Quốc tế đã trực tiếp kí.
+ Chủ tịch nước "Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam,
cho thôi quốc tịch Việt Nam hoặc tước quốc tịch Việt Nam" (Điểm 11
Điều 103 Hiến pháp năm 1992).
+ Chủ tịch nước "Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân
dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh" (Điểm 2
Điều 103 Hiến pháp năm 1992). Ở đây có điểm khác Hiến pháp năm
1946. Điều 49 Hiến pháp năm 1946 quy định Chủ tịch nước "giữ quyền
tổng chỉ huy quân đội toàn quốc " ; từ "thống lĩnh" đã được dùng trong
các Hiến pháp năm 1959 và 1980; "thống lĩnh" khác "tổng chỉ huy" ở chỗ
"thống lĩnh" không phải là trực tiếp chỉ huy mà là phụ trách chung. Hội
đồng Quốc phòng giúp Chủ tịch nước trong việc thống lĩnh. Chủ tịch
nước thành lập Hội đồng Quốc phòng và trình Quốc hội phê chuẩn.
+ Chủ tịch nước "Quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp
cao trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những
hàm cấp Nhà nước khác; quyết định tặng thưởng huân chương, huy
chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước" (Điểm 9 Điều 103 Hiến pháp
năm 1992).
+ Chủ tịch nước "Căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường
vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình
trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương" (Điểm 6 Điều 103
Hiến pháp năm 1992). Trong Điều 91, Điểm 10 của Hiến pháp năm 1992
có quy định: Uỷ ban thường vụ Quốc hội "Quyết định tổng động viên
hoặc động viên cục bộ, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc
từng địa phương". Vậy hai điểm trên cần được hiểu là: Uỷ ban thường vụ
Quốc hội quyết định tổng động viên quyết định ban bố tình trạng khẩn
cấp Chủ tịch nước căn cứ vào Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội mà ra lệnh tổng động viên, ra lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp.
Trong Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001, điểm này được bổ
sung thêm: Trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp
được, Chủ tịch nước ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở
từng địa phương.
+ Chủ tịch nước "Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố quyết định tuyên bố tình trạng
chiến tranh, công bố quyết định đại xá" (Điểm 5 Điều 103 Hiến pháp năm
1992).
+ Chủ tịch nước "Quyết định đặc xá" (Điểm 12 Điều 102
Hiến pháp năm 1992). Ở đây cần làm rõ hai chế định "đặc xá" và "đại
xá". Đại xá là việc tha miễn truy tố đối với một số loại tội nhân một dịp
long trọng nào đó. Đại xá do Quốc hội quyết định, Chủ tịch nước công
bố. Còn đặc xá là việc Chủ tịch nước tha tù hoặc miễn hình phạt tù còn lại
đối với những phạm nhân có hoàn cảnh đặc biệt như: ốm đau nặng, già
cả, có công lao hoặc có hoàn cảnh gia đình quá khó khăn Việc đặc xá
này thường được thực hiện nhân dịp lễ tết và hay kết hợp với việc tha tù
trước thời hạn và giảm án.
• Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp
các thiết chế quyền lực Nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp,
hành pháp, tư pháp:
Trong lĩnh vực lập pháp, Chủ tịch nước có quyền:
+ Trình dự án luật ra trước Quốc hội, kiến nghị về luật thông qua
việc kiến nghị ban hành luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung luật hiện hành
(Điều 62 luật tổ chức Quốc hội).
+ "Công bố Hiến pháp, luật và pháp lệnh" (Điểm 1 Điều 103).
Việc công bố các văn bản này là một phần của quá trình lập pháp. Đối với
Hiến pháp, luật do Quốc hội thông qua thì Chủ tịch nước công bố để thực
hiện. Thời hạn công bố chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày thông qua (Điều
50 Luật ban hành văn bả quy phạm pháp luật, Điều 91 Luật tổ chức Quốc
hội sửa đổi năm 2001). Văn bản có hiệu lực kể từ khi công bố hoặc theo
quy định tại văn bản. Đối với pháp lệnh do Uỷ ban thường vụ Quốc hội
thông qua thì Chủ tịch nước công bố trong thời hạn mười lăm ngày kể từ
ngày được thông qua. "Chủ tịch nước có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ
Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn 10 ngày. Nếu pháp lệnh đó
vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch
nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì
họp gần nhất" (Điểm 7 Điều 103 Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi,
bổ sung năm 2001). Trong trường hợp này thời hạn công bố chậm nhất là
mười ngày kể từ ngày được Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại thông
qua hoặc từ khi Quốc hội quyết định (Điều 49 và Điều 52 Luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật).Việc quy định cho Chủ tịch nước quyền đề
nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại Pháp lệnh đã được thông
qua được nhiều người coi giống như quyền phủ quyết của nguyên thủ
quốc gia một số nước. Tuy nhiên, về bản chất không hẳn là như vậy.
Quyền phủ quyết thường nảy sinh trong cơ chế Nhà nước có sự kiềm chế
và đối trọng quyền lực (cơ chế phân quyền), còn ở nước ta giữa Quốc hội,
Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước là thống nhất không có sự
đối trọng nên không có vấn đề phủ quyết lẫn nhau ở đây. Thực chất vấn
đề là ở chỗ, do Hiến pháp quy định cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội được
ban hành pháp lệnh - một loại văn bản có tính chất luật - lẽ ra phải do
Quốc hội ban hành dưới hình thức luật nên cần phải thận trọng. Sự tham
gia của Chủ tịch nước nhằm phối hợp giải quyết các vấn đề quan trọng đó
một cách chính xác nhất. Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật thì Chủ tịch nước còn công bố Nghị quyết của Quốc hội
tương tự như đối với Luật, công bố hoặc đề nghị xem xét lại Nghị quyết
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội tương tự như đối với Pháp lệnh.
Ở đây có một điểm đáng chú ý nữa: Hiến pháp năm 1946 dùng từ "ban
bố", các Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992 dùng từ "công bố". "Ban bố"
thường được hiểu là điều kiện bắt buộc phải có để một văn bản đã được
thông qua có hiệu lực pháp lí. Còn "công bố" chỉ có ý nghĩa là để nhân
dân biết, còn văn bản đó có hiệu lực pháp luật từ ngày được thông qua
nếu văn bản không có quy định khác, như đã phân tích ở trên.
Trong lĩnh vực hành pháp, Chủ tịch nước tham gia thành lập Chính phủ,
giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng
và thành viên khác của Chính phủ, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ
tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ (căn cứ vào Nghị
quyết của Quốc hội) (Điểm 4 Điều 103 Hiến pháp năm 1992); Ban bố tình
trạng khẩn cấp khi Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được; trong
thời gian Quốc hội không họp, quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó
Thủ tưóng, Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ theo đề nghị của Thủ
tướng (Điều 20 Luật tổ chức Chính phủ năm 2001). Trước đây, Hiến pháp
quy định cho Chủ tịch nước thẩm quyền lớn đối với hai vấn đề (thuộc lĩnh
vực hành pháp) được Hiến pháp quy định cho Uỷ ban thường vụ Quốc
hội giải quyết trong thời gian Quốc hội không họp là: Phê chuẩn đề nghị
của Thủ tướng Chính phủ về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ
tướng, bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và quyết định tuyên
bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược thì Chủ tịch nước có
quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại các Nghị quyết về
vấn đề đó (trong thời hạn 10 ngày); nếu Nghị quyết đó vẫn được Uỷ ban
thường vụ Quôc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không
nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất
(Điểm 7 Điều 103 Hiến pháp 1992). Nay Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một
số điều của Hiến pháp năm 1992 (Quốc hội thông qua tháng 12/2001) đã
bỏ quyền của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về phê chuẩn đề nghị của Thủ
tướng Chính phủ về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng và
các thành viên khác của Chính phủ cũng như quyền quyết định tuyên bố
tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược (Uỷ ban thường vụ Quốc
hội chỉ thực hiện quyền này khi Quốc hội không thể họp được và sau đó
phải đưa ra Quốc hội xem xét, quyết định tại kì họp gần nhất), do đó Chủ
tịch nước không còn thực hiện các quyền này nữa.
Trong lĩnh vực tư pháp và giám sát, Chủ tịch nước giới thiệu để Quốc hội
bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điểm 3 Điều 103 Hiến pháp năm
1992); bổ nhiệm Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao,
Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương, Phó
viện trưởng và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trước đây,
theo quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân cũ, Chủ tịch nước còn bổ
nhiệm của Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án các cấp. Nay
Luật tổ chức Toà án nhân dân 2002 đã bãi bỏ điểm này, giao về cho
Chánh án Toà án nhân dân tối cao thực hiện. Chủ tịch nước xem xét và
quyết định việc ân xá (giảm án tử hình). Chánh án Toà án nhân dân tối
cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội
và Chủ tịch nước. Để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của
mình Hiến pháp quy định Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Khi xét thấy cần thiết có quyền tham dự
các phiên họp của Chính phủ (Điều 105 Hiến pháp 1992).
Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của mình (Điều 106 Hiến pháp năm 1992).
3. Quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan Nhà nước khác
Về tổ chức bộ máy Nhà nước trong Hiến pháp 1992, quan điểm cơ bản đã
được khẳng định là: toàn bộ quyền lực Nhà nước tập trung thống nhất vào
Quốc hội, và có sự phân công phân nhiệm giữa Quốc hội, Chính phủ, Toà
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao để mỗi cơ quan thi
hành có hiệu lực chức năng, quyền hạn của mình với sự phối hợp chặt chẽ
tạo nên sức mạnh tổng hợp của quyền lực Nhà nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Cùng với quy định "Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà
nước"(Điều 101 Hiến pháp năm 1992), các quy định khác về mối quan hệ
giữa Chủ tịch nước với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thể hiện rõ
quan điểm đó.
• Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội và Uỷ ban
thường vụ Quốc hội:
· Về mối quan hệ với Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 (có sửa đổi, bổ
sung) và Luật tổ chức Quốc hội hiện hành có những quy định cơ bản sau:
- Chủ tịch nước do Quốc hội bầu (trong số đại biểu Quốc hội), miễn
nhiệm và bãi nhiệm, với nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội.
- Quốc hội quy định tổ chức và hoạt động của Chủ tịch nước.
- Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
- Chủ tịch nước trình dự án luật ra trước Quốc hội, kiến nghị về luật thông
qua việc kiến nghị ban hành luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung luật hiện
hành.
- Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước trái với Hiến
pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội.
- Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch nước phải
trả lời trước Quốc hội tại kì họp, trong trường hợp cần điều tra thì Quốc
hội có thể quyết định cho trả lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc
tại kì họp sau của Quốc hội hoặc cho trả lời bằng văn bản.
· Trong mối quan hệ với Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hiến pháp đã quy
định:
- Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội. Quy định này nhằm mục đích tạo điều kiện để Chủ tịch nước theo
được sát ý kiến của tập thể Uỷ ban thường vụ Quốc hội khi thảo luận và
quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, đồng thời cũng để Chủ
tịch nước có thể đóng góp kịp thời ý kiến của mình.
- Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải được công
bố chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày được thông qua. Tuy nhiên, Chủ tịch
nước có quyền "Đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại Pháp
lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về các vấn đề quy định
tại điểm 8 và điểm 9 Điều 91 trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày Pháp lệnh
hoặc Nghị quyết được thông qua; nếu Pháp lệnh, Nghị quyết đó vẫn được
Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn
không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần
nhất" (Điểm 7 Điều 103 Hiến pháp năm 1992), về sau được sửa đổi, bổ
sung tại Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 thì Chủ tịch nước chỉ có
quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại Pháp lệnh vì thẩm
quyền của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về các vấn đề quy định tại Điểm 8
và Điềm 9 Điều 91 đã bị huỷ bỏ. Đây là một quyền hạn mới được bổ sung
mà Hội đồng Nhà nước không có. Quyền này khác quyền phủ quyết của
Tổng thống ở một số nước. Những quy định trên cho thấy tính phái sinh
và gắn bó giữa Chủ tịch nước với Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc
hội. Mặc dù Hiến pháp 1992 tách Chủ tịch nước thành thiết chế riêng
song vẫn nghiêng về phía Quốc hội, gắn bó chặt chẽ với Quốc hội chứ
không gắn với Chính phủ như ở Hiến pháp năm 1946 và 1959 hoặc thuộc
về hành pháp như nguyên thủ quốc gia ở các nước tư bản.
• Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Chính phủ:
Mối quan hệ này được Hiến pháp năm 1992 (có sửa đổi, bổ sung vào năm
2001) và Luật tổ chức Chính phủ hiện hành quy định như sau:
- Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng
Chính phủ.
- Chủ tịch nước căn cứ Nghị quyết của Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ
Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và
các thành viên khác của Chính phủ (Điểm 4 Điều 103 Hiến pháp năm
1992), quy định này được sửa lại tại Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung
năm 2001, theo đó thì Chủ tịch nước chỉ phải căn cứ vào Nghị quyết của
Quốc hội để thực hiện những vấn đề này vì thẩm quyền của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội trong lĩnh vực này đã bị huỷ bỏ.
- Trong thời gian Quốc hội không họp, Chủ tịch nước quyết định tạm đình
chỉ công tác của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
theo đề nghị của Thủ tướng.
- Chính phủ mời Chủ tịch nước tham dự phiên họp của Chính phủ, trình
Chủ tịch nước quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền Chủ tịch nước.
- Thủ tướng Chính phủ đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện những quyết định
của Chủ tịch nước. Các báo cáo công tác của Chính phủ truớc Chủ tịch
nước phải được Chính phủ thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số.
Việc xác định mối quan hệ như vậy thể hiện sự tăng cường vai trò của
Chủ tịch nước đối với bộ máy hành pháp và bảo đảm sự phối hợp gắn bó
giữa Quốc hội, Chủ tịch nước và Chính phủ.
• Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Toà án nhân dân tối
cao:
- Với Hiến pháp năm 1992, chế độ bầu cử Thẩm phán đã được thay bằng
chế độ Thẩm phán bổ nhiệm, chỉ trừ đối với chức vụ Chánh án Toà án
nhân dân tối cao do Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm. Các chức vụ khác từ Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao đến
Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện, từ Chánh án Toà án quân sự
Trung ương đến Thẩm phán Toà án quân sự khu vực đều do Chủ tịch
nước bổ nhiệm. Nhưng hiện nay, theo Luật tổ chức Toà án nhân dân năm
2002 thì việc bổ nhiệm Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án
các cấp được giao về cho Chánh án Toà án nhân dân tối cao thực hiện.
Chủ tịch nước chỉ còn bổ nhiệm Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án quân sự
Trung ương.
- Trong thời gian Quốc hội không họp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội
và Chủ tịch nước.
- Chánh án Toà án nhân dân tối cao trình xin Chủ tịch nước ý kiến của
mình về những trường hợp người bị kết án tử hình xin ân giảm.
• Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Viện kiểm sát nhân dân
tối cao:
Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân hiện hành
quy định về vấn đề này như sau:
- Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Viện trưởng, kiểm
sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Trong thời gian Quốc hội không họp, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ
Quốc hội và Chủ tịch nước.
- Báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải được Uỷ ban kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thảo luận tập thể và quyết định theo đa số.
Nếu Viện trưởng không nhất trí với ý kiến đa số thành viên Uỷ ban kiểm
sát thì phải thực hiện theo quy định của đa số, nhưng có quyền báo cáo
Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc Chủ tịch nước.
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trình xin Chủ tịch nước ý
kiến của mình về những trường hợp người bị kết án tử hình xin ân giảm.
4. Đánh giá.
Hiến pháp 1992 ra đời đã kế thừa được những ưu điểm của Hiến
pháp 1946 và 1959 vừa kế thừa được những mặt tích cực mà hiến pháp
1980 có được, đó là sự gắn bó giữa Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc
hội với chủ tịch nước trong thực hiện chức năng nguyên thủ Quốc gia.
Hiến pháp 1992 còn là sự phát triển, thể hiện sự đổi mới mang tính tiến
bộ. Cụ thể: Hiến pháp 1992 đã tách chủ tịch nước thành một thiết chế
riêng chứ không phải là một cơ cấu nằm trong Quốc hội như hiến pháp
1980 hoặc gắn với hành pháp như như hiến pháp 1946, 1959 và một số
nguyên thủ quốc gia của đa số các nước tư bản. Ngoài ra chủ tịch nước
còn bổ sung thêm một số quyền hạn mới như: quyền đề nghị xem xét lại
một số pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về các vấn
đề quy định tại các điểm 8, 9 của điều 91 Hiến pháp 1992…Sự đổi mới đó
quán triệt nguyên tắc: Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công
và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
hành pháp, tư pháp, lập pháp. Như vậy chủ tịch nước theo Hiến pháp hiện
hành - Hiến pháp năm 1992 là một thiết chế riêng song vẫn nghiêng về
phía Quốc hội, gắn bó chặt chẽ với Quốc hội chứ không gắn với Chính
phủ như ở Hiến pháp 1946 và 1959 hoặc thuộc về hành pháp như nguyên
thủ quốc gia ở đa số các nước tư bản cũng không chỉ mang tính hình thức
như ở các nước theo chính thể quân chủ.
5. Một số suy nghĩ, kiến nghị đối với chế định chủ tịch nước trong giai
đoạn hiện nay.
Trải qua các bản Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992 và 1992 sửa
đổi), chế định Chủ tịch nước ngày càng được hoàn thiện với vị trí, vai trò
và các chức năng phù hơp với hoàn cảnh của đấy nước. Cho đến nay, vị
trí, vai trò và thẩm quyền của Chủ tịch nước trong bộ máy Nhà nước của
nước ta theo Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001)
về cơ bản là phù hợp. Để hoàn thiện vị trí của Chủ tịch nước trong cơ chế
quyền lực Nhà nước đang tiếp tục đổi mới hiện nay, cần tiếp tục nghiên
cứu, làm rõ hơn thêm một số điểm:
+ Chủ tịch nước được xác định là người đứng đầu Nhà nước, song
về chức năng, nhiệm vụ không hoàn toàn giống như nguyên thủ quốc gia
ở các nước khác. Do đó, cần nghiên cứu tăng cường vị trí của Chủ tịch
nước như: giao cho Chủ tịch nước quyền đề nghị Quốc hội xem xét lại
luật (nhằm bảo đảm sự cẩn trọng khi thông qua luật); quyền quyết định
việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược; quyết định
tổng động viên (những quyền này hiện đang thuộc về Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, nếu chuyển cho Chủ tịch nước sẽ phù hợp hơn với vị trí của
nguyên thủ quốc gia). Đặc biệt, cần mở rộng phạm vi tiến hành đàm phán,
kí kết điều ước Quốc tế và các thoả thuận quốc tế nhân danh Nhà nước
Việt Nam không chỉ "với người đứng đầu Nhà nước khác" như Hiến pháp
hiện hành quy định để tạo thuận lợi cho việc thực hiện chính sách đối
ngoại mềm dẻo của Nhà nước theo hướng đổi mới, mở cửa và hội nhập
với thế giới; tăng cường quyền của Chủ tịch nước trong việc phê chuẩn
các điều ước Quốc tế. Chỉ những điều ước Quốc tế có quan hệ trực tiếp
tới chủ quyền, an ninh quốc gia, lãnh thổ, vị thế, chính sách của Nhà nước
khi tham gia các tổ chức Quốc tế quan trọng mới cần phải để Quốc hội
phê chuẩn.
+ Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật,
Chủ tịch nước công bố Nghị quyết của Quốc hội tương tự như đối với
Luật, công bố hoặc đề nghị xem xét lại Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội tương tự như đối với Pháp lệnh. Tuy nhiên, quyền này của Chủ
tịch nước phải được quy định ở tầm Hiến pháp.
+Với việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (năm 2001), Uỷ
ban thường vụ Quốc hội không còn thẩm quyền đối với các điểm 8 và 9
Điều 91 Hiến pháp 1992, nên Chủ tịch nước không còn tham dự vào vấn
đề này. Đồng thời Hiến pháp quy định cho Chủ tịch nước có thêm một
thẩm quyền mới: quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng, Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ theo đề nghị của Thủ tướng. Việc
bỏ quyền thay đổi các thành viên khác của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
đối với Chính phủ trong thời gian giữa 2 kì họp (Điểm 8 Điều 91 Hiến
pháp 1992) đã cản trở điều đó. Tương tự việc không quy định thẩm quyền
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội (có sự liên quan đến Chủ tịch nước)
quyết định tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược (Điểm 9 Điều
91 Hiến pháp 1992) cũng như Chủ tịch nước chỉ được ban bố tình trạng
khẩn cấp khi Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp là chưa hợp lí,
khó đảm bảo tính kịp thời của việc giải quyết vấn đề có tầm quan trọng
quốc gia. Những thẩm quyền này nên giao cho Chủ tịch nước sẽ vừa đảm
bảo kịp thời, vừa có tính long trọng là hợp lí hơn cả.
+Điều 105 Hiến pháp quy định cho Chủ tịch nước quyền tham
dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và khi xét thấy cần
thiết thì có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ. Đối với phiên
họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì Chủ tịch nước tham dự để nắm
bắt và có ý kiến về các vấn đề có liên quan (nhấtlà khi Uỷ ban thường vụ
Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng được Quốc hội trao hay khi
thông qua các Nghị quyết, Pháp lệnh). Điều này là phù hợp và cần thiết,
thể hiện sự gắn bó giữa Chủ tịch nước với Quốc hội và Uỷ ban thường vụ
Quốc hội. Riêng đối với phiên họp của Chính phủ mà Chủ tịch nước chỉ
"tham dự", thiết nghĩ chưa thích hợp lắm. Trong cơ cấu quyền lực Nhà
nước nói chung, nguyên thủ quốc gia thực tế cũng như hình thức, đều
được coi là người đứng đầu hành pháp. Điều đó thể hiện ở quyền của
nguyên thủ quốc gia bổ nhiệm Thủ tướng, quyết định chấp nhận hoặc giải
tán Chính phủ. Bình thường, mọi việc của Chính phủ đều do Thủ tướng
điều hành, nhưng khi có vấn đề phát sinh cần có sự hiện diện của nguyên
thủ quốc gia thì nguyên thủ quốc gia sẽ nắm quyền điều hành đối với
Chính phủ. Đối với Chính phủ nước ta, mặc dù có những nét đặc thù,
nhưng cơ bản vẫn mang những đặc điểm chung đó thể hiện qua việc Chủ
tịch nước giới thiệu Thủ tướng để Quốc hội bầu, căn cứ vào Nghị quyết
của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ Vậy, cần thể hiện nội dung này
theo hướng nguyên thủ quốc gia chỉ tham dự phiên họp của Chính phủ
trong các trường hợp thật cần thiết và khi đó Chủ tịch nước sẽ là người
chủ toạ phiên họp.
C. LỜI KẾT:
Lịch sử lập hiến Việt Nam đã để lại nhiều bài học quý báu trong
việc tổ chức bộ máy Nhà nước, trong đó có chế định Chủ tịch nước.
Trong Hiến pháp 1992 nói riêng và pháp luật hiện hành nói chung, chúng
ta đã thiết lập lại thể chế Chủ tịch nước (nguyên thủ cá nhân như trong
Hiến pháp năm 1946 và 1959) trong bối cảnh đất nước đang thực hiện
những đổi mới sâu sắc, toàn diện, trong tình hình thế giới có nhiều mặt
khác trước và đang biến động từng ngày. Hiến pháp 1992 nói riêng và
pháp luật hiện hành nói chung cũng chỉ mới quy định rất khái quát nhiệm
vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước và mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với
các cơ quan Nhà nước khác. Vấn đề đặt ra là sự nghiên cứu toàn diện đi
từng bước vững chắc, vừa làm vừa rút kinh nghiệm để cụ thể hoá dần dần
các quy định của Hiến pháp và pháp luật, làm cho thể chế Chủ tịch nước
ngày càng phát huy được vai trò, vị trí, chức năng quan trọng của mình
trong bộ máy Nhà nước và trong đời sống xã hội.