Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Phân tích giải pháp tài trợ thâm hụt ngân sách của việt nam trong những năm gần đây doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.87 KB, 32 trang )

Phân tích giải pháp tài trợ thâm hụt ngân sách
của việt nam trong những năm gần đây
Chương I: Tổng quan Ngân sách nhà nước (NSNN)
I, khái niệm
Ngân sách nhà nước, hay ngân sách chính phủ, là một phạm trù kinh tế và là
phạm trù lịch sử, ra đời và gắn liền với quá trình hình thành nhà nước và tồn tại
trong nền kinh tế hàng hoá. Quốc hội thực hiên quyền lập pháp về NSNN còn
quyền hành pháp giao cho Chính phủ thực hiện.
Luật Ngân sách Nhà nước của Việt Nam đã được Quốc hội Việt Nam thông qua
ngày 16/12/2002 định nghĩa: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi
của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực
hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà
nước.
NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập ,
phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước khi Nhà nước tham
gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của
nhà nước trên cơ sở luật định
II, Thu ngân sách nhà nước
Là việc nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một phần nguồn tài
chính quốc gia hình thành quỹ NSNN nhằm thoả mãn các nhu cầu của nhà
nước. Các nhân tố về thu nhập GDP bình quân đầu người; Tỉ suất doanh lợi
trong nền kinh tế; Tiềm năng đất nước về tài nguyên thiên nhiên; Mức độ trang
trải các khoản chi phí của nhà nước; Tổ chức bộ máy thu nộp là các nhân tố
ảnh hưởng đến việc thu NSNN. Trong vấn đề thu NSNN thì đặc biệt quan
trọng phải kể đến thuế. Đây là nguồn thu chủ yếu của NSNN. Khi NSNN bị
thâm hụt thì tăng thu thuế góp phần quan trọng để bù đắp NSNN.
III, Chi ngân sách nhà nước
Là việc phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhăm đảm bảo thực hiện các chức
năng của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định. Việc chi NSNN hợp lý
chính là việc NSNN đang thực hiện được vai trò điều tiết vĩ mô của mình. Việc
chi NSNN nếu không đảm bảo được cân đối thu chi, nhà nước nếu không có sự


cân nhắc, nghiên cứu thận trọng khi chi ngân sách sẽ gây nên tình trạng bội chi
dẫn đến thâm hụt NSNN chính là vấn đề bàn đến trong đề tài này. Để hiểu rõ
hơn về thâm hụt NSNN, nguyên nhân và ảnh hưởng của thâm hụt NSNN,
chúng ta cùng xem xét ở chương II
CHƯƠNG II. THÂM HỤT NGÂN SÁCH
I. Khái niệm thâm hụt nhân sách nhà nước:
Chi tiêu của Chính phủ về hàng hóa và dịch vụ là bộ phận chủ yếu của Chi
ngân sách Nhà nước, cũng như thuế là nguồn thuế chủ yếu của thu ngân sách.
Chính phủ sử dụng ngân sách để lập kế hoạch và kiểm soát các hoạt động tài
khóa của mình.
1. Khái niệm thâm hụt ngân sách:
* Thâm hụt ngân sách là trạng thái của cán cân ngân sách; là khi chi tiêu vượt
quá nguồn thu từ thuế.
Ta ký hiệu: T: Thu ngân sách Nhà nước.
G: Chi tiêu của Chính phủ.
B: Hiệu số giữa thu và chi ngân sách Nhà nước.
B = G – T
Ta sẽ có các trường hợp như sau:
B > 0: Thặng dư ngân sách Nhà nước.
B = 0: Ngân sách Nhà nước cân bằng.
B < 0: Thâm hụt ngân sách Nhà nước.
Tùy vào tình hình kinh tế và các sự kiện khác nhau, thu và chi thực tế có thể
lớn hoặc nhỏ hơn so với dụ kiến. Khi lâm vào tình trạng thâm hụt ngân sách thì
Chính phủ phải đi vay công chúng để trả cho những khoản nợ của mình. Chính
phủ vay nợ thông qua phát hành trái phiếu (đó là hình thức ghi nợ IOU) và cam
kết trả lại tiền tại một thời điểm trong tương lai.

b) Các loại thâm hụt ngân sách:
Các lý thuyết kinh tế học hiện đại cho rằng: Ngân sách Nhà nước không
nhất thiết lúc nào cũng phải thăng bằng. Vấn đề là quản lý thu chi sao cho ngân

sách không bị thâm hụt quá lớn và kéo dài.
Khi nền kinh tế vận động theo chu kỳ thì chính chu kỳ kinh doanh tác động
không nhỏ đến thâm hụt ngân sách Nhà nước. Thường thì thu ngân sách Nhà
nước tăng lên trong thời kỳ nề kinh tế phồn thịnh (giai đoạn mở rộng), và giảm
đi trong thời kỳ suy thoái. Ngược lại, chi ngân sách Nhà nước thì tăng trong
thời kỳ suy thoái và giảm trong thời kỳ phồn thịnh. Chính vì vậy mà thâm hụt
ngân sách Nhà nước càng trầm trọng thời kỳ suy thoái, bất chấp mọi cô gắng
của Chính phủ.
Để hiểu sâu hơn về vấn đề thâm hụt, chúng ta cần phân biệt 3 khái niệm
sau:
• Thâm hụt ngân sách thực tế: là thâm hụt khi số chi thực tế vượt số thu
thực tế trong một thời kỳ nhất định.
• Thâm hụt ngân sách cơ cấu: là thâm hụt tính toán trong trường hợp nếu
nền kinh tế đang hoạt động ở mức sản lượng tiềm năng.
• Thâm hụt ngân sách chu kỳ: là thâm hụt ngân sách bị động do tình trạng
của chu kỳ kinh doanh. Thâm hụt chu kỳ bằng hiệu số của thâm hụt
thực tế và thâm hụt cơ cấu.
Trong 3 loại thâm hụt trên, thâm hụt cơ cấu phản ánh kết quả hoạt động chủ
quan của chính sách tài khóa như: định ra thuế suất, các chương trình thanh
toán chuyển nhượng. Vì vậy để đánh giá kết quả của chính sách tài khóa người
ta sử dụng thâm hụt này.
2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước:
- Nhóm nguyên nhân thứ nhất là tác động của chu kỳ kinh doanh. Khủng
hoảng làm cho thu nhập của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên, để
giải quyết những khó khăn mới về kinh tế và xã hội. Điều đó làm cho mức bội
chi NSNN tăng lên. ở giai đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của Nhà nước sẽ tăng
lên, trong khi chi không phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức bội chi
NSNN. Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội
chi chu kỳ.
- Nhóm nguyên nhân thứ hai là tác động của chính sách cơ cấu thu chi của Nhà

nước. Khi Nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu
dùng sẽ làm tăng mức bội chi NSNN. Ngược lại, thực hiện chính sách giảm
đầu tư và tiêu dùng của Nhà nước thì mức bội chi NSNN sẽ giảm bớt. Mức bội
chi do tác động của chính sách cơ cấu thu chi gây ra được gọi là bội chi cơ cấu.
Trong điều kiện bình thường (không có chiến tranh, không có thiên tai lớn,…),
tổng hợp của bội chi chu kỳ và bội chi cơ cấu sẽ là bội chi NSNN.

3. Ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách nhà nước đối với nền kinh tế:
a) Thâm hụt ngân sách và vấn đề thoái lui đầu tư.
Các biện pháp của chính sách tài khoá chủ động gây nên thâm hụt cơ cấu và
kéo theo hiện tượng tháo lui đầu tư.
* Thoái lui đầu tư và thị trường tiền tệ
Cơ chế thoái giảm là: Khi Chính phủ tăng chi tiêu cho các dự án của mình
trong ngắn hạn, theo mô hình số nhân, nếu không có thay đổi nào trong thị
trường tài chính thì GDP sẽ tăng lên ΔG x Số nhân của nền kinh tế.
Nhưng khi GDP tăng lên, nhu cầu về tiền giao dịch cũng tăng lên. Mức GDP
cao hơn có chiều hướng đi đến thắt chặt tiền tệ (đặc biệt là trong trường hợp
NHTW quan tâm đến lạm phát). Lãi suất tăng và thắt chặt tín dụng sẽ có chiều
hướng bóp nghẹt hay “thoái lui” đầu tư và những chi tiêu có nhạy cảm với lãi
suất. Kết quả là dẫn đến tổng cầu giảm, sản lượng và công ăn việc làm giảm
xuống.
Tuy nhiên, cơ chế thoái giảm này chỉ áp dụng cho thâm hụt cơ cấu. Không áp
dụng cho thâm hụt chu kỳ (thâm hụt tăng do suy thoái) vì suy thoái gây ra giảm
cầu tiền và dẫn đến lãi suất giảm. Thoái lui không được áp dụng trong các cuộc
đại suy thoái là một nhắc nhở: không có liên hệ nghiễm nhiên nào giữa thâm hụt
và đầu tư.
* Tác động của thâm hụt cơ cấu
Hầu hết các nhà kinh tế học vĩ mô đều đồng ý rằng: Thoái lui thực sự chỉ là
một hiệu ứng phụ của chi tiêu Chính phủ. Tuy nhiên, vẫn có tranh luận trong vấn
đề đầu tư bị giảm đi bao nhiêu và những khu vực nào chịu tác động nhiều nhất.

Thoái lui hoàn toàn, đây là trường hợp cực đoan nhất của thoái lui khi mà
phản ứng tiền tệ là quá mạnh.
Giả sử rằng, khi mà NHTW xác định bất kỳ sự tăng lên nào trong sản lượng
cũng đều có nguy cơ gây ra lạm phát. Bởi vậy, NHTW sẽ tăng lãi suất lên đủ để
bù lại mọi tác động mở rộng của các chương trình Chính phủ.
Tuy nhiên, do có phản ứng tiền tệ, nên lãi suất tăng lên, làm giảm đầu tư và
xuất khẩu ròng. Vậy, trong trường hợp cực đoan thoái lui 100%, phản ứng này
mạnh đến nỗi đường chi tiêu (tổng cầu) mới dịch chuyển xuống quay trở lại vị trí
của đường tổng cầu ban đầu. Nói cách khác là thắt chặt tiền tệ đã làm triệt tiêu
toàn bộ sự mở rộng tài khóa.
Chi tiêu Chính phủ làm tăng tổng cầu, nhưng lãi suất cao hơn dẫn đến sự giảm
sút của đầu tư và xuất khẩu ròng (do việc tăng tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ).
Cuối cùng lãi suất phải tăng đủ mạnh để giảm đầu tư và xuất khẩu ròng đúng
bằng lượng G đã tăng lên.
Tóm lại, trong trường hợp cực đoan của phản ứng tiền tệ mạnh, đầu tư bị thoái
lui 100% do sự tăng lên trong chi tiêu của Chính phủ. Thoái lui có thể xảy ra khi
NHTW có hành động nhằm triệt tiêu tác động mở rộng tài khóa thông qua thắt
chặt tiền tệ. Từ đồ thị trên ta có thể thấy 2 bước:
Bước 1: Tăng chi tiêu bằng tiền cho hàng hóa và dịch vụ làm dịc chuyể đường
tổng cầu (C+I+G+NX) lên đến đường tổng mới (C+I+G’+NX).
Bước 2: Phản ứng của tiền tệ làm tăng lãi suất và làm giảm những bộ phận
nhạy cảm với lãi suất, dẫn đến tổng cầu giảm xuống đường (C+I”+G’+NX”) và
điểm cân bằng mới là điểm E”, đúng với điểm cân bằng lúc ban đầu tại điểm E.
Trong trường hợp này đầu tư và xuất khẩu ròng bị chi tieeucuar Chính phủ làm
thoái lui hoàn toàn.
Phản ứng tiền tệ có thể dẫn đến thoái giảm đầu tư hoàn toàn
Mục đích của việc nghiên cứu cơ chế này là giúp ta có giải pháp để phối hợp
giữa các chính sách kinh tế trong việc ổn định hóa nền kinh tế.
Nghịch lý của khuyến khích đầu tư: Một trường hợp ực đoan lien quan đến
nghịch lý của tiết kiệm, xảy ra khi đầu tư trên thực tế được khuyến khích bằng

những thâm hụt lớn. Lập luận này có cơ sỏ như sau: Lãi suất cao không khuyến
khích đầu tư. Mặt khác sản lượng cao hơn kích thích đầu tư (theo nguyên tắc gia
tốc) do các doanh nghiệp mua nhiều vốn hơn và nhà xưởng hiện tại được tận
dụng nhiều hơn. Từ đó đầu tư có thể được chính sách tài khóa kích thích khi
năng lực sản xuất còn chua được sử dụng hết.

Đầu tư có thể được khuyến khích bằng thâm hụt cao hơn khi còn các nguồn
lực chưa được sử dụng hết và khi đầu tư phản ứng lại với mức sản lượng tăng
cao hơn.
Khi thực hiện chính sách tài khóa mở rộng (tăng mua sắm hàng hóa và dịch
vụ), chi tiêu của Chính phủ tăng từ G lên G’ thì tổng cầu dịch chuyển lên trên tới
đường tổng cầu mới là AD’= C+I+G’+NX, sản lượng cân bằng tăng lên. Mức
sản lượng cao hơn lại kích đầu tư cao hơn, đầu tư tăng từ I lên I’. Điểm cân bằng
Có thể khuyến khích đầu tư khi nguồn lực chưa được sử dụng hết
cuối cùng được kết thúc ở E’, chính là giao điểm của đường tổng cầu
AD”=C+I’+G’+NX với đường 45
0
.
Nghịch lý này có thể xuất hiện khi nguồn lực chưa được sử dụng hết và sản
lượng được quyết định bởi tổng cầu chứ không phải bởi phía cung.
b) Thâm hụt ngân sách-Một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát:
Giả định rằng, chia chi tiêu Chính phủ làm hai phần:
- Chi tiêu hàng hóa và dịch vụ của Chính phủ (G)
- Chi trả lãi (i.B)
Trong đó:
i: lãi suất danh nghĩa về trái phiếu của Chính phủ.
B: giá trị danh nghĩa của các trái phiếu mà chính phủ chưa thanh toán.
Những nguồn thu nhập chính của Chính phủ gồm:
- Thuế thu nhập (T) chưa khấu trừ các khoản thanh toán chuyển nhượng.
- ΔB là lượng trái phiếu phát hành thêm.

- Phát hành thêm công nợ bằng tiền của Chính phủ (ΔH)-bộ phận này gọi là cơ
sở; ký hiệu là H gồm:
+ Tiền mặt do Chính phủ nắm giữ.
+ Tiền dự trữ trong các ngân hàng.
Như vậy cả B và H đều là công nợ của Chính phủ. nhưng khác biệt duy nhất
giữa B và H là các trái phiếu (B) thì được trả lãi, còn lượng tiền cơ sở (H) thì
không. Từ đây ta có thiết lập một phương trình như sau:
(G – T) + (i*B)/P = ΔB/P + ΔH/P
Trong phương trình trên, (G – T) được gọi là số thâm hụt cơ bản tức là thâm
hụt mà Chính phủ phải trang trải, không kể những khoản lãi phải trả cho những
trái phiếu chưa đến hạn thanh toán. Do G và T được biểu hiện bằng số tiền thực
tế vì vậy để đảm bảo tính thống nhất thì ta chia các số hạng còn lại cho mức giá
chung (P).
Qua đây, ta cũng có thể thấy 2 phương pháp có thể dùng để tài trợ thâm hụt
ngân sách của Chính phủ đó là: Phát hành thêm trái phiếu của Chính phủ, được
biểu thị bằng ΔB và phát hành thêm khối lượng tiền cơ sở, được biểu thị bằng
ΔH. Vì vậy, phương trình trên còn được gọi là phương trình biểu thị tài trợ
thâm hụt ngân sách của Chính phủ.
Ta sẽ xem xét tác động của lạm phát đến thâm hụt ngân sách Nhà nước.
Lạm phát làm tăng lãi suất danh nghĩa (i), như vậy các nhân tố trong
phương trình trên sẽ có sự biến động. Tuy nhiên, với tác động phân phối lại của
cải một cách ngẫu nhiên, thì lạm phát cũng làm dễ dàng hơn cho Chính phủ. Để
làm rõ vấn đề này ta sẽ đi từ phương trình biểu thị tài trợ thâm hụt ngân sách ở
trên:
(G – T) + (i*B)/P = ΔB/P + ΔH/P
 (G – T) + (i*B)/P = (ΔB/P)*(B/B) + (ΔH/P)*(H/H)
 (G – T) + (i*B)/P = (ΔB/B)*(B/P) + (ΔH/H)*(H/P)
Ở đây, trong phương trình này ta có:
• (ΔB/B)*(B/P): là tích số giữa tỷ lệ % thay đổi trong trái phiếu (ΔB/B)
với giá trị thực tế của những trái phiếu chưa đến hạn thanh toán (B/P).

• (ΔH/H)*(H/P): là tích số giữa tỷ lệ % thay đổi trong lượng tiền cơ sở
(ΔH/H) với giá trị thực tế của lượng tiền cơ sở (H/P).
Nếu ta giả định (B/P) và (H/P) là ổn định và tuân theo quy luật về trạng thái
đều đều của mô hình cơ bản Solow về tăng trưởng, thì mức % tăng của trái
phiếu (B) giả sử biểu thị bằng chữ (b) và mức % tăng của H biểu thị bằng chữ
(h) sẽ phải bằng mức tỉ lệ lạm phát (gp). Nói cách khác, ta sẽ biểu thị các ký
hiệu như sau:
ΔB/B = b
ΔH/H = h
ΔP/P = gp
Trong đó thì: b = h = gp
Thay (gp) vào phương trình và chuyển (i*B)/P sang vế phải ta được:
G – T = (gp) * (H/P) – (i – gp) * (B/P)
(gp) * (H/P) biểu thị tích số của mức lạm phát với lượng tiền cơ sở thực tế. Số
thu nhập mà Chính phủ thu được từ lạm phát gọi là thuế lạm phát. Nhưng lạm
phát không thể xóa bỏ trách nhiệm mà Chính phủ là phải trả lãi cho những trái
phiếu chưa đến hạn thanh toán còn đang nằm trong tay công chúng.
Trong phương trình vừa biến đổi trên thì Chính phủ chỉ phải lo chi trả tiền
lãi thực tế của dịch vụ trái phiếu. Biểu thức (i*B/P – gp*B/P) cho biết khi
Chính phủ chi trả cho những người có trái phiếu với lãi danh nghĩa (i) – đồng
thời người có trái phiếu lại giao lại cho Chính phủ một phần của (i) để mua
những trái phiếu bổ xung đủ để giữ cho những tài sản trái phiếu thực tế (B/P)
của họ không thay đổi (vì chúng ta đã giả định ở trên là B/P ổn định).
Kết luận:
Khi nền kinh tế có lạm phát, Chính phủ được hai cái lợi:
Một là: Chính phủ có thêm một nguồn thu nhập đó là thuế lạm phát.
Hai là: Chính Phủ có thể được lợi nếu lạm phát làm cho lãi suất danh nghĩa
tăng ít hơn bản than mức tăng của lạm phát.
c. Tác động của ngân sách nhà nước tới cán cân thương mại. (chưa làm)
CHƯƠNG III. ĐỊNH HƯỚNG BÙ ĐẮP THÂM HỤT NGÂN SÁCH

Vì mục đích của tài trợ thâm hụt ngân sách là làm cán cân NS cân bằng B=0.
Đầu tiên ta sẽ xem xét các lý thuyết về cân đối ngân sách.
1,Các lý thuyết về cân đối ngân sách.
Bao gồm 4 học thuyết: Từ cổ điển đến hiện đại
+ Học thuyết cổ điển về thăng bằng cân sách
+ Học thuyết ngân sách chu kỳ
+ Học thuyết đường vòng
+ Học thuyết về ngân sách cố ý thiếu hụt
a, Học thuyết cổ điển về thăng bằng cân sách
Theo học thuyết này cân bằng ngân sách rất đơn giản: ‘Mỗi năm số thu phải
bằng cố chi”
Nội dung cụ thể của học thuyết này là:
Thứ nhất: Sự thăng bằng giữa thu và chi phải có thực, nghĩa là khi thực ngân
sách : tổng số các khoản thực thu vào sẽ bằng tổng số các khoản thực chi ra.
Thứ hai: Một ngân sách thăng bằng không được dung đến công trái, trừ khi phải
xuất tiền ra để thực hiện những nhiệm vụ to lớn của đất nước hay phải tài trợ
những khoản chi tiêu bất thường
2. Các biện pháp cụ thể để tài trợ thâm hụt ngân sách
a, Các biện pháp
Có nhiều cách để chính phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách như tăng thu từ thuế, phí,
lệ phí; giảm chi ngân sách; vay nợ trong nước, vay nợ nước ngoài; phát hành tiền
để bù đắp chi tiêu; Sử dụng phương cách nào, nguồn nào tùy thuộc vào điều
kiện kinh tế và chính sách kinh tế tài chính trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia.
Về cơ bản, các quốc gia trên thế giới thường sử dụng các giải pháp chủ yếu nhằm
xử lý bội chi NSNN như sau:
Thứ nhất: Vay ngân hàng (in tiền)
Chính phủ khi bị thâm hụt ngân sách sẽ đi vay Ngân hàng Trung ương để bù đắp.
Để đáp ứng nhu cầu này, tất nhiên, Ngân hàng trung ương sẽ tăng việc in tiền.
Điều này sẽ tạo ra thêm cơ sở tiền tệ. Chính vì vậy, nó được gọi là tiền tệ hoá
thâm hụt.

Thứ hai: Vay nợ cả trong và ngoài nước.
Để bù đắp thâm hụt NSNN, nhà nước có thể vay nợ nước ngoài và trong nước.
Vay nợ trong nước được Chính phủ thực hiện dưới hình thức phát hành
công trái, trái phiếu. Công trái, trái phiếu là những chứng chỉ ghi nhận nợ của
nhà nước, là một loại chứng khoán hay trái khoán do nhà nước phát hành để
vay các dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội và các ngân hang. Vay nợ nước
ngoài là việc Chính phủ nhận viện trước nước ngoài hoặc vay nợ nước ngoài từ
các chính phủ nước ngoài, các định chế tài chính thế giới như Ngân hàng Thế
giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB),
các tổ chức liên chính phủ, tổ chức quốc tế
Viện trợ nước ngoài là nguồn vốn phát triển của các chính phủ, các tổ
chức liên chính phủ, các tổ chức quốc tế cung cấp cho chính phủ của một nứoc
nhằm thực hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội và hiện nay
chủ yếu là nguồn vốn phát triển chính thức ODA.
Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình thức: phát hành trái
phiếu bằng ngoaị tệ mạnh ra nước ngoài, vay bằng hình thức tín dụng
Thứ ba: Tăng thu giảm chi
Đây là biện pháp mà Chính phủ bằng những quyền hạn và nhiệm vụ
được giao, tính toán hợp lý để tăng các khoản thu như thu từ Thuế và cắt
giảm chi tiêu. Tuy vậy, vấn đề đặt ra là phải tính toán số tăng thu và giảm chi
thế nào để gây ảnh hưởng ít nhất đến tăng trưởng kinh tế à hệ quả từ mô hính
số nhân
m=1/(1-MPC) ; mt= -MPC/(1-MPC) ; m+mt = 1 (số nhân ngân sách cân
bằng)
Ý nghĩa : khi chính phủ tăng chi tiêu (G) và tăng thuế (T) một lượng
như nhau thì ngân sách không đổi và sản lượng cân bằng sẽ tăng một lượng
tương ứng ∆Y = ∆G = ∆T
Đối với việc tăng thuế, Nhà kinh tế học Mỹ-Laffer (thập kỷ 70 ) đã đồ
thị hoá hai tác động trái ngược nhau của việc tăng thuế thu nhập tuỳ theo mức
thuế suất áp dụng.

Có một mức thuế suất tối ưu (t*) cho phép nhà nước đạt được số thu
ngân sách từ thuế lớn nhất. Khi thuế suất nằm dưới mức tối ưu này, thì nâng
thuế suất cho phép tăng thu ngân sách. Nhưng nếu thuế suất đã cao hơn mức tối
ưu này mà lại tiếp tục nâng thuế suất thì số thu ngân sách chỉ giảm đi. Hàm ý
của đường cong Laffer là khi thuế suất đang ở mức cao, thì giảm thuế suất sẽ
có lợi vì thu ngân sách tăng đồng thời lại khuyến khích khu vực tư nhân hăng
hái đầu tư.
Đối với cắt giảm chi tiêu công: .Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công
có nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo
ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt những dự án chưa
hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Mặt khác, bên
cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công, những khoản chi thường
xuyên của các cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này
không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết.
Thứ tư: Sử dụng dự trữ ngoại tệ
Quỹ dự trữ ngọai tệ là lượng ngoại tệ mà ngân hàng trung ương hoặc cơ quan
hữu trách tiền tệ của một quốc gia hoặc một lãnh thổ nắm giữ dưới dạng ngoại
tệ nhằm thanh toán quốc tế hoặc hỗ trợ đồng tiền quốc gia. Chính phủ có thể sử
dụng nguồn dự trữ ngoại tệ của quốc gia (bao gồm ngoại tệ mạnh và vàng) để
bù đắp thâm hụt NSNN.
b, Nhận xét chung các giải pháp
Các giải pháp trên đây được hầu hết các quốc gia lựa chọn để bù đắp thâm hụt
ngân sách nhà nước. Mỗi giải pháp nói chung đều có những mặt ưu điểm riêng
góp phần tạo hiệu quả giảm thâm hụt NSNN, tuy vậy những mặt ưu điểm là
không giống nhau và ưu điểm của biện pháp này nhưng biện pháp khác lại
không thể có được. Và những mặt hạn chế còn tồn tại rất nhiều có thể tiềm ẩn
những nguy cơ to lớn đối với nền kinh tế nếu áp dụng không phù hợp hoặc quá
lạm dụng như: lạm phát sẽ tăng nếu Chính phủ in tiền để tài trợ thâm hụt ngân
sách mặc dù biện pháp này nhanh chóng, không phải trả lãi, không phải gánh
nợ nần và bị kìm hãm kinh tế như với biện pháp vay nợ trong và ngoài nước

của Chính phủ. Xử lý bội chi NSNN bằng giải pháp nào cũng phải có sự trả
giá, vấn đề là phải lự chọn sao cho sự trả giá ít nhất và có lợi cho đất nước.
Trên đây chúng ta đã xem xét những lý thuyết về NSNN và vấn đề cũng như
các biện pháp giảm thâm hụt NSNN. Sau đây chúng tôi sẽ trình bày đến nội
dung chính của đề tài này.
CHƯƠNG IV. THỰC TRẠNG VÀ CÁC BIỆN PHÁP TÀI TRỢ
THÂM HỤT NGÂN SÁCH THỰC TẾ Ở VIỆT NAM
I. Thực trạng thâm hụt ngân sách của Việt Nam những năm
gần đây
Nếu so sánh với thực trạng thâm hụt NSNN vào giai đoạn những năm 80 thi
trong những năm gần đây, tình trạng thâm hụt NS của nước ta đã giảm đi đáng
kể.
BẢNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TỪ 2001 – 2010
Đơn vị tính: Tỷ Đồng
Năm Số Bội chi Bội chi so với
GDP
200
1
25.885 4,67%
200
2
25.597 4,96%
200
3
29.936 4,9%
200
4
34.703 4,85%
200
5

40.746 4,86%
200
6
48.500 5%
200 56.500 5%
7
200
8
66.200 4,95%
200
9
142.355 6,9%
201
0
119.700 6,2%
Giảm thâm hụt ngân sách đạt được là do kết quả của những biện pháp cứng rắn
như cắt giảm chi tiêu chính phủ, xóa bỏ dần các loại trợ cấp qua giá, lương, trợ
cấp cho xí nghiệp quốc doanh… Tốc độ tăng thu hàng năm bình quân là 18,8%.
Tốc độ tăng chi bình quân hàng năm đạt 18,5%. Nhiều năm thâm hụt giảm
xuống dưới 5% so với GDP. Đây cũng được coi là thành tựu trong nền kinh tế
của nước ta.
Chúng tôi đưa ra bảng dưới đây để làm kết quả so sánh:
BẢNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM TỪ 1987
ĐẾN 1994
Đơn vị tính: Tỷ đồng
1987 198
8
1989 1990 1991 1992 1993 1994
- Thâm hụt ngân
sách

130,4 107
2
1081 303
3
1728 3847 7930 7714
- So với GDP (%) 4,9 8,1 8,1 7,9 2,5 3,8 6,3 5,9
Tất nhiên để đạt được thành tựu như vậy, Chính phủ đã có những đổi mới trong
quản lý NSNN về hệ thống thuế và chi tiêu NSNN. Tuy nhiên trong tình hình
kinh tế hiện nay, tình trạng thâm hụt của NSNN ta vẫn bị đánh giá là cao. Vấn
đề thâm hụt NS mới chỉ được thảo luận gần đây, đặc biệt là từ đầu năm 2009, khi
nhiều người lo sợ chính sách kích cầu để chông đỡ khủng hoảng kinh tế đi liền
với sự suy giảm các nguồn thu cũng do kho khăn kinh tế sẽ đẩy thâm hụt lên
mức rất cao (7% =>10%). Quan sát bảng số liệu thâm hụt NSNN từ năm 2001-
2010 ta có những nhận định sau:
Từ năm 2005-2009, thâm hụt NSNN có xu hướng tăng, năm 2009 đã giữ trên
5%. Năm 2009,Tổng bội chi ngân sách ước khoảng 115,9 nghìn tỷ đồng, bằng
6,9% GDP, cao hơn nhiều so với mức 4,95% của năm 2008 và kế hoạch đề ra
(4,82%).
Thực tế thâm hụt còn cao hơn nhiều. Năm 2007, THNS của nước ta là 5% đã
được coi là đáng báo động. Vậy mà theo ứơc tính của ngân hàng phát triển Châu
Á (ADB) thì thâm hụt ngân sách của Việt Nam theo cách tính quốc tế, không bao
gồm tiền trả nợ gốc nhưng bao gồm các khoản chi ngoài dự toán- lên tới 7%
GDP. Các chuyên gia tư vấn chính sách quốc tế của Ngân hàng Thế giới (WB),
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cũng đã nhiều lần cảnh báo Chính phủ về tỷ lệ thâm
hụt ngân sách quá cao và không bền vững.Con số thâm hụt thực cũng được đánh
giá cao hơn nhiều so với con số do Chính phủ công bố. IMF cho rằng thâm hụt
ngân sách của Việt Nam năm 2009 lên đến 9%, Ngân hàng Phát triển châu Á
(ADB) cho là 9,8%, khác với con số 6,9% mà Việt Nam đưa ra. Đến năm 2010,
thâm hụt NSNN đã giảm từ 6.9% xuống 6.2% nhưng thâm hụt NSNN của nước
ta vẫn ở mức cao

Hình 4: Bội chi ngân sách 2005-2009
Hậu quả:
Thâm hụt ngân sách trên quy mô lớn, tốc độ cao được coi là nguyên nhân trực
tiếp và quyết định gây ra lạm phát và giá cả tăng cao, tác hại đến sự phát triển
kinh tế và đời sống dân cư. Lạm phát cao kỉ luc đã diễn ra vào cuối năm 2007-
2008. Nhưng nếu như năm 2008 là năm chứng kiến một tốc độ lạm phát cao kỉ
lục trong vòng hơn một thập kỉ qua thì năm 2009 lại chứng kiến một mức lạm
phát ở mức hai con số. Điều ấy cũng cho thấy sự cố gắng của Chính phủ trong
việc bù đắp thâm hụt NSNN cũng như kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên lạm phát
của Việt Nam vẫn luôn ở mức cao trong khu vực và trên thế giới. Ngay cả
trong năm 2010, kì vọng chung về mức lạm phát đã là khoảng 10%.
Việc gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ có thể dẫn đến giảm tiết kiệm nội địa,
giảm đầu tư tư nhân, hay gia tăng thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Ở Việt
Nam, mặc dù thâm hụt ngân sách tăng đột biến trong năm 2007chưa làm suy
giảm tiết kiệm nội địa và đầu tư tư nhân nhưng nó đã làm tăng mức thâm hụt
tài khoản vãng lai, từ -0,5% năm 2006 lên tới -8% năm 2007.
Thâm hụt ngân sách cao và kéo dài còn làm xói mòn niềm tin đối với năng lực
điều hành vĩ mô của chính phủ. Nó cũng làm tăng mức lạm phát kỳ vọng của
người dân và của các nhà đầu tư vì họ cho rằng Chính phủ trước sau gì cũng sẽ
phải in thêm tiền để tài trợ thâm hụt. Tóm lại, thâm hụt ngân sách cao kéo dài
sẽ đe dọa sự ổn định vĩ mô, và do vậy, khả năng duy trì tốc độ tăng trưởng
nhanh và bền vững của nền. Vì vậy cần thiết phải xem xét các biện pháp tài trợ
để giảm THNS.
II. Các chính sách cụ thể của Chính phủ Việt Nam trong việc bù
đắp thâm hụt Ngân sách Nhà nước và tình hình thực hiện
năm 20xx
1, Nội dung các chính sách:
Để giảm thâm hụt ngân sách chỉnh phủ cần thục hiện các chính sách để giảm
thâm hụt ngân sách
Trước tiên ta xét tác động của chính sách tài khóa với vấn đề thâm hụt ngân

sách .
a, chính sách tài khóa cùng chiều
trong trường hợp này chính phủ sẽ giảm chi tiêu để giảm thâm hụt .
nhưng như ta đã biết tổng cầu AD tỉ lệ thuận với chi tiêu của chính phủ (G) .Như
vậy khi G giảm → AD giảm→ sản lượng (Y) giảm, thu nhập giảm →thuế tiếp tục
giảm.
mà theo như thống kê trên ta có thể thấy thuế chiếm tới 25% tổng thu ngân sách
năm 2008 .
Như vậy khi thuế giảm thì thì ngân sách lại thâm hụt trở lại .
Xét một ví dụ : khi thâm hụt ngân sách , chính phủ quyết định giảm chi tiêu 70
nghìn tỉ đồng → AD giảm 70 nghìn tỉ đồng → tổng thu nhập quốc dân giảm 70
nghìn tỉ đồng
Giả sử thuế thu nhập cá nhân là 10%
Như vậy theo như tổng thu năm 2008 thì ngân sách sẽ mất 141700 tỉ từ thuế thu
nhập cá nhân. Mà trên thực tế , 10% thu nhập là mức thấp nhất trong thang tính
thuế thu nhập của Việt Nam hiện nay ( mức cao nhất là 35% với người có thu nhập
trên 80 triệu đồng /tháng )
Như vậy khoản thu mất đi từ thuế lớn hơn rất nhiều khoản chi tiêu giảm của chính
phủ . Nếu
Nền kinh tế đang trong thời kỳ suy thoái thì việc áp dụng chính sách này sẽ làm
cho suy thoái trầm trọng hơn .
Vậy cách giảm G để giảm thâm hụt chỉ là biện pháp tạm thời .Nó chỉ được áp dụng
khi cần giảm thâm hụt bằng mọi giá .
b, Chính sách tài khóa ngược chiều .
Đây là cách tăng G để giảm thâm hụt .
G tăng → AD tăng → sản lượng tăng → thu nhập tăng→thu từ thuế tăng → ngân
sách được cải thiện
Ví dụ :trong trường hợp trên nếu chỉnh phủ không giảm mà tăng G lên thêm 70000
tỉ .
Khi đó tổng thu nhập quốc dân tăng thêm 70000 tỉ . như vậy lượng tiền thu thêm

từ thuế là
155700 tỉ . Như vậy ngân sách đã được cải thiện .
Tuy nhiên có một vấn đề đặt ra ở đây là ngân sách đang thâm hụt thì tiền ở đâu ra
để tăng chi tiêu của chính phủ , và nếu có tiền thì đầu tư vào đâu .
Khi đó chính phủ sẽ có các biện pháp sau để tài trợ cho ngân sách .
1. vay nợ gồm vay nợ trong nước và viện trợ nước ngoài
2. tăng thu giảm chi
3. sử dụng dự trữ ngoại tệ
4. vay ngân hàng (in tiền) :tuy nhiên hiện nay biện pháp này không còn được sử
dụng nên ta sẽ không phân tích biện pháp này
Mỗi chính sách trên đều có những hạn chế riêng .Ta sẽ phân tích từng biện pháp để
làm rõ.
2) Các biện pháp để áp dụng chính sách:
a, Vay nợ
Biện pháp vay nợ là một trong số các biện pháp được nhà nước dung trong việc
tài trợ thâm hụt NS, gồm vay nợ trong nước và viện trợ nước ngoài. Thực trạng
vay nợ của nước ta được thể hiên trong bảng:
Đơn vị: tỷ đồng
Năm Số tiền vay trong
nước để bù đắp bội
chi ngân sách nhà
nước
Số tiền vay nước
ngoài để bù đắp bội
chi ngân sách nhà
nước
Số bội chi
2010 98.700 21.000 119.700
2009 88.520 27.380 115.900
2008 51.200 15.000 66.200

2007 43.000 13.500 56.500
2006 36.000 12.500 48.500
2005 32.420 8.326 40.746
2004 27.450 7.253 34.703
2003 22.895 7.041 29.936
2002 18.382 7.125 25.597
Tình trạng nợ của Việt Nam bị lo ngại là quá lớn, sợ sẽ làm mất cân đối vĩ mô.
Theo IMF, Việt Nam nên thực hiện một kế hoạch củng cố ngân sách nhằm
giảm tỷ lệ nợ công trên GDP để tạo không gian tài khóa, đồng thời nên cắt
giảm thâm hụt ngân sách xuống mức 5% GDP trong năm 2011 và khoảng 3%
vào năm 2015. Tuy nhiên, Chính phủ vẫn tiếp tục tăng ngân sách bằng cách
vay nợ trong nước và nước ngoài.Điều đáng lo là mặt bằng lãi suất hiện nay rất
cao, vào khoảng 18%. Điều này không những không hỗ trợ doanh nghiệp phục
hồi sản xuất, kinh doanh mà còn khiến họ lao đao. Nhất là trong những tháng
cuối năm 2010, nhu cầu vốn của doanh nghiệp lớn, để tồn tại, nhiều doanh
nghịêp phải chấp nhận vay vốn với lãi suất cao, vì thế rủi ro sẽ càng lớn.
Việc vay nợ của nhà nước để giảm thâm hụt NS có tác động tiêu cực đến tăng
trưởng kinh tế.
Đối với vay nợ trong nước:
Chính phủ nước ta thường uỷ nhiệm cho Kho bạc nhà nước phát hành
trái phiếu dưới các hình thức: tín phiếu kho bạc; trái phiếu kho bạc; trái phiếu
công trình nhằm thu được một khoản tiền để bù đắp các khoản chi. Việc vay nợ
trong nước có nhiều mặt hạn chế.
Thứ nhất: chứa đựng nguy cơ kìm hãm sự phát triển của các hoạt động
sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế.
Để vay được tiền chính phủ phải đa dạng hoá các hình thức vay như phát
hành trái phiếu, tín phiếu, công trái Đồng thời phải thực hiện nhiều biện pháp
để tăng mức độ hấp dẫn người cho vay như tăng lãi suất, mở rộng ưu đãi về
thuế thu nhập ngoài ra còn phải triển khai các biện pháp khác, kể cả tuyên
truyền, vận động để huy động tối đa nguồn tiền trong dân cư nhằm hoàn

thành kế hoạch vay đã định.
Tuy nhiên, tổng lượng tiền mà nhân dân và các đơn vị có thể có để cho
chính phủ vay bị giới hạn trong tổng lượng tiết kiệm của xã hội. Nếu chính phủ
huy động được nhiều thì đương nhiên phần tiền còn lại dành cho đầu tư phát
triển sản xuất kinh doanh ở khu vực ngoài quốc doanh sẽ giảm đi.
Như vậy, chưa biết chính phủ sẽ làm gì, làm như thế nào đối với lượng
tiền huy động được, nhưng xã hội hay trực tiếp hơn là khu vực các doanh
nghiệp và dân cư đó sẽ mất đi một nguồn vốn tương ứng có khả năng dành cho
đầu tư phát triển kinh tế. Nếu các biện pháp thu hút tiền vay của chính phủ và
của ngân hàng càng có lãi suất cao thì càng tạo ra luồng tiền vốn dịch chuyển
từ các khu vực doanh nghiệp và dân cư sang hệ thống tài chính ngân hàng mà
không chảy vào sản xuất kinh doanh.
Do vậy, vay trong nước để bù đắp thâm hụt ngân sách luôn luôn chứa
đựng nguy cơ kìm hãm các hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế.
Mục tiêu chấn hưng kinh tế của chính phủ thông qua con đường phát hành trái
phiếu, tín phiếu bị chính bản thân giải pháp này cản trở ngay từ nguồn gốc.
Chính vì thế, trong thời kỳ kinh tế đình đốn, hầu như các nước đều tránh
các biện pháp có nguy cơ làm giảm khẳ năng tự đầu tư của các thành phần kinh
tế, kể cả doanh nghiệp quốc doanh, ngoài quốc doanh và các tầng lớp dân cư.
Biện pháp tài trợ thâm hụt ngân sách này chỉ nên thực hiện trong trường hợp
nền kinh tế là cường thịnh. Nếu ta tài trợ thâm hụt ngân sách bằng cách phát
hành trái phiếu, thì trái phiếu sẽ tạo ra cho công dân trách nhiệm nộp thêm thuế
trong tương lai để trang trải lãi về các trái phiếu.
Thứ hai: Nước ta hiện nay đang trải qua các giai đoạn lạm phát cao, giá trị
thực của trái phiếu chính phủ giảm nhanh chóng, làm chúng trở nên ít hấp dẫn.
Nếu tăng lãi suất huy động thì lai mâu thuẫn với chính sách nới lỏng tiền tệ
đang được dự thi. Ngoài ra việc vay nợ quá nhiều sẽ khiến cho gánh nặng trả
nợ trong các năm sau nếu thu ngân sách không tăng được. Lúc đó Chính phủ
buộc phải in tiền để trả nợ và điều này sẽ gây nguy cơ lam phát cao.
Đối với vay nợ nước ngoài:

Thực trạng nợ nước ngoài của nước ta cũng rất đáng quan tâm. Tính đến
cuối năm 2000, mức độ nợ nước ngoài của Việt Nam khoảng 12,8 tỷ USD,
chiếm 40-45% so với GDP và vẫn còn nằm trong “giới hạn an toàn”. ( ngưỡng
an toàn là 50% GDP).
Năm 2008, nợ Chính phủ chiếm khoảng 36,5% GDP, năm 2009 ước lên
đến 40% GDP và năm 2010 khoảng 44% GDP.
Vay nợ nước ngoài sẽ khiến cho gánh nặng nợ nần, nghĩa vụ trả nợ tăng
lên, giảm khả năng chi tiêu của chính phủ. Đồng thời, nó cũng dễ khiến cho
nền kinh tế trở nên bị phụ thuộc vào nước ngoài. Thậm chí, nhiều khoản vay,
khoản viện trợ còn đòi hỏi kèm theo đó là nhiều các điều khoản về chính trị,
quân sự, kinh tế khiến cho các nước đi vay bị phụ thuộc nhiều.
Những năm 2005-2009, nước ta thực hiện chính sách phá giá tiền tệ thì những
giao động của tỷ giá lại có ảnh hưởng nhất định đến giá trị các khoản nợ khi
đổi ra tiền tệ.
Tổng số dư nợ nước ngoài so với GDP (%)
2005 2006 2007 2008 2009
31.2 31.4 32.5 29.8 39.0
Nguồn: Bộ Tài chính
Xem xét tình trạng nợ nước ngoài của Việt Nam, nợ nước ngoài của quốc gia
so với GDP bằng 39%, thuộc diện quốc gia có nợ nước ngoài vừa phải, nếu xét
theo khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới. Hiện nay, nợ nước ngoài của Chính
phủ Việt Nam tập trung chủ yếu vào các loại tiền JPY, USD, EUR, SDR. Cụ
thể, lớn nhất là các khoản vay bằng đồng Yên, chiếm 41,96%; SDR chiếm
27,39%; vay theo đồng USD chiếm 16,61%; vay bằng đồng Euro chiếm
10,68%; còn lại là các đồng tiền khác chiếm 3,37% tổng dư nợ nước ngoài
Chính phủ. Mặc dù cơ cấu đồng tiền vay trong tổng dư nợ nước ngoài Chính
phủ cũng khá đa dạng, được cho là có thể hạn chế rủi ro về tỷ giá, giảm áp lực
lên nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ nhưng không thể phủ nhận thực
tế những dao động của tỷ giá sẽ có ảnh hưởng nhất định đến giá trị của các
khoản nợ khi quy đổi ra nội tệ.

Việc vay nợ nước ngoài đã diễn ra nhiều năm nay và có xu hướng ngày càng
tăng, tuy về ngắn hạn có thể tài trợ cho thâm hụt cán cân thanh toán. Tuy nhiên,
việc vay nợ nước ngoài thường xuyên và quy mô ngày càng tăng có thể dẫn tới
những rủi ro rất cao như từng thấy ở các nước Mỹ Latinh những năm 1980-
1990
Tuy vậy nhưng không thể nói việc bù đắp NSNN chỉ toàn hạn chế chứ
không đạt được gì. Sở dĩ nhà nước vẫn sử dụng biện pháp này vì nó bù đắp
nhanh chóng các khoản bội chi và không gây sức ép lạm phát cho nền kinh tế,
thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vay nợ trong nước còn tập trung được các
khoản tiền nhàn rỗi tạm thời trong dân, tránh được nguy cơ khủng hoảng nợ
nước ngoài và dễ triển khai. Dưới đây là một số thành tựu khi Chính phủ áp
dụng biện pháp này:
Đối với vay nước ngoài, thực hiện chính sách chỉ vay ưu đãi nước ngoài,
không vay thương mại nước ngoài cho đầu tư phát triển. Đối với những khoản vay
thương mại nước ngoài và nợ quá hạn trước đây đã được xử lý qua Câu lạc bộ Pari
và Câu lạc bộ Luân Đôn. Thực hiện xử lý nợ với Nga, Angiêry, Nhờ thực hiện tốt
quá trình cơ cấu lại nợ, cũng như chính sách vay mới mà dư nợ Chính phủ hiện nay
ở mức 35% GDP vào năm 2005, mức an toàn, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.
Đối với vay nợ trong nước: hàng năm Ngân sách phải huy động một
khoản tiền nhàn rỗi trong nước tương đối lớn để bù đắp bội chi Ngân sách. Để
việc huy động vốn không ảnh hướng lớn đến thị trường tiền tệ, đến lãi suất, Bộ
Tài chính thực hiện chính sách trước hết thực hiện vay vốn nhàn rỗi từ các quỹ
tài chính Nhà nước như: Quỹ Bảo hiểm xã hội, Quỹ Tích lũy trả nợ, phần còn
thiếu sẽ thực hiện phát hành trái phiếu và tín phiếu Chính phủ. Đối với tín
phiếu (loại thời hạn dưới 1 năm), thực hiện phối hợp với Ngân hàng Nhà nước
đấu thầu (đấu thầu về lãi suất) qua Ngân hàng Nhà nước, đây là biện pháp vừa
để đảm bảo nguồn bù đắp bội chi cho Ngân sách Nhà nước, đồng thời cũng tạo
điệu kiện cho các tổ chức tín dụng có nguồn vốn nhàn rỗi, chưa cho vay được

×