Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

220374

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.53 KB, 19 trang )

Lời mở đầu
Trong lịch sử kinh tế thế giới KTTT đợc coi nh một tất yếu gắn liền với sự
phát triển của mỗi một quốc gia, là con đơng dẫn tới sự văn minh giàu có. Nớc ta
cũng đi theo xu hớng tất yếu đó của thế giới. Nhng nền kinh tế của chúng ta
không phảit là nền kinh tế thị trờng thuần tuý mà là nền kinh tế có sự quản lí của
nhà nứoc, có sự kết hợp một cách chặt chẽ giữa bàn tay vô hình và bàn tay hữu
hình. Theo đúng nh đại hội IX của đảng cộng sản Việt Nam chỉ ra: KTTT định h-
ớng XHCN ở Việt Nam là kiểu tổ chức kinh tế vủa dựa trên cơ sở và sự dẫn dắt bởi
các nguyên tắc và bản của CNXH, thể hiện trên cả ba mặt:
+Sở hữu
+Tổ chức quản lí
+Phân phối
Nhằm mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Việc nghiên cứu về vai trò của nhà nơc đói với nền KTTT sẽ đặt ra nhiều
câu hỏi cần đợc giải quyêt nh: liệu sự quản lí đó là cần thiêt? càn thiết nh thế nào?
sự can thiệp của nhà nớc nên dừng lại ở đâu? đòi hỏi cần phải có sự nghiên cứu
và kiểm tra thực nghiệm, đây là vấn đề cần phải giải đáp trong tình hình hiện
nay, nhất là đối với nên kinh tế nớc ta.
Do vậy em chon đề tài: "Vai trò quản lí của nhà nớc trong nền kinh tế thị
trờng" .Nhằm hiểu rõ hơn về con đờng mà nhân dân ta đã lựa chọn.
1
I. Tính tất yếu khách quan về vai trò kinh tế của nhà nớc trong nền kinh tế
thị trờng ở Việt Nam hiện nay
1 1. Kinh tế thị trờng nớc ta
2 a. Khái niệm kinh tế thị trờng
- Kinh tế thị trờng là mô hình kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều đợc
thực hiện trên thị trờng thông qua quá trình trao đổi mua bán hàng hoá. Quan hệ
hàng hoá - tiền tệ phát triển đến một trình độ nhất định sẽ đạt đến kinh tế thị trờng.
- Kinh tế thị trờng là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trờng, ở đó sản xuất
cái gì, cho ai đợc quyết định thông qua thị trờng. Trong nền kinh tế thị trờng các
quan hệ kinh tế của cá nhân , doanh nghiệp đều đợc biểu hiện qua việc mua bán


hàng hoá dịch vụ trên thị trờng. Mục đích của từng thành viên tham gia vào thị tr-
ờng là tìm kiếm lợi nhuận cho bản thân họ theo sự dẫn dắt của giá cả thị trờng hay
bàn tay vô hình (theo Adam Smith).
b. Khái niệm kinh tế thị trờng ở nớc ta
- Kinh tế thị trờng ở nớc ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế thị trờng có sự quản lí của nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
Gọi là nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa.
- Mặc dù từ Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) đã chủ tr-
ơng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,nhng phải đến tận đại
hội Đảng lần IX (tháng 4-2001) mới đa ra khái niệm kinh tế thị trờng định h-
ớng xã hội chủ nghĩa. Nh vậy nhà nớc ta đã chủ trơng chuyển từ nền hành
chính quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trờng từ rất sớm , nhng để có đợc
quan điểm thống nhất, vững chắc về điều này là cả một quá trình tìm tòi,
nghiên cứu , tổng kết thực tiễn của Đảng ta.
- Nền kinh tế thị trờng ở nớc ta không phải là nền KTTT thị trờng bất kì mà là nền
KTTT định hớng xã hội chủ nghĩa, với mục tiêu vừa kế thừa những thành tựu tiến
bộ của nhân loại trong lịch sử phát triển mà đỉnh cao là của chủ nghĩa t bản, vừa
khắc phục những nhợc điểm của nó, để cho nền kinh tế nớc ta phát triển với tốc
độ ngày càng cao, đồng thời kết hợp với tăng trởng kinh tế và công bằng xã hội.
Điều này với nền KTTT thuần tuý không thể có đợc. Để làm đợc điều nàynhà nớc
phải sử dụng một hệ thống công cụ, chính sách để điều tiết nền kinh tế.
- Từ những điều trên ta có thể nhận thấy rằng cả CNTB và CNXH đều sử dụng
KTTT để phát triển lực lợng sản xuất, nâng cao năng xuất lao động xã hội. Nhng
điểm khác biệt rõ ràng giữa hai chế độ xã hội này thể hiện ở mối quan hệ giữa
tăng trởng kinh tế và phát triển xã hội.Cũng là cạnh tranh trong KTTT, nhng cạnh
2
tranh dới CNTB có thể tóm gọn trong một câu là cá lớn nuốt cá bé còn dới
CNXH, chúng ta coi cạnh tranh là động lực để thúc đẩy tăng trởng kinh tế, khuyến
khích làm giàu gắn với xoá đói, giảm nghèo. Chúng ta luôn chú trọng ,giải quyết
vấn đề: Sự gia tăng về mức sống phải luôn gắn liền với giữ gìn đạo đức và những

giá trị văn hoá truyền thống. Đồng thời dới CNXH, qui luật cạnh tranh, qui luật lợi
nhuận vẫn đợc coi là động lực phát triển KTTT, nhng không phải là động lực: chủ
yếu duy nhất nữa.
b.Cơ chế thị trờng
k/n: Cơ chế thị trờng là cơ chế điều tiết của nền KTTT, do sự tác động của các qui
luật vốn có của nó. Nói Một cách cụ thể, cơ chế thị trờng là hệ thống hữu cơ của
sự thích ứng lẫn nhau, sự điều tiết lẫn nhau, tự điều tiết lẫn nhau của các yếu tố giá
cả cung cầu, cạnh tranh, tr c tiếp phát huy tác dụng trên thị trờng để điều tiết nền
KTTT.
Về bản chất cơ chế thị trờng là cơ chế giá cả tự do. Một cơ chế thị trờng có những
đặc điểm cơ bản sau :
+Các vấn đề có liên quan về việc phân bố sử dụng tài nguyên thiên nhiên, lao
động ,vốn về cơ bảnđ ơc quyết định một cách khách quan thông qua sự hoạt
động của cac qui luật kinh tế, đặc biệt là qui luật cung cầu.
+ Các mối quan hệ trong cơ chế thị trờng đều đợc tiền tệ hoá, do vậy động lực phát
triển sản xuất, tăng trởng kinh tế đều đợc phản ánh qua lợi nhuận
+ Nhà sản xuất đơc tự do lựa chọn việc sản xuất cái gì? cho ai? bao nhiêu? ngời
tiêu dùng có quyền tự do lựa chọn sản phẩm họ muốn theo khả năng kinh tế của
họ.
+ Hầu nh luôn đảm bảo đợc sự cân bằng giã sức cung và sức cầu.Hiếm khi gây ra
tình trạng khan hiếm và thiếu thốn lơng thực.
+cạnh tranh là môi trờng và động lực phát triển của các chủ thể kinh tế
- Cơ chế thị tr ờng mang lại nhiều u điểm :
+Thứ 1: cơ chế thị trờng kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế , tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ , do đó làm cho nền kinh tế tăng năng
động hiệu quả.
+Thứ 2: Cơ chế thị trờng có khả năng tự động điều tiết nền sản xuất xã hội, tự
động phân bổ các nguồn tài nguyên sản xuất, vào các ngành kinh tế mà không
cần có bất cứ sự điều khiển từ một trung tâm nào, một cách tối u nhất. Nó sẽ tự
3

động chuyên môn hoá các vùng các miền trong nơc ta thành các trung tâm sản
xuất mang lại hiệu quả kinh tế cao.
+Thứ 3: Sự điều tiết của cơ chế thị trờng thực ra mềm dẻo hơn rất nhiều so với sự
điều chỉnh của nhà nớc. Và sẽ mang lại kết quả cao hơn và nhanh chóng hơn,
không gây ra tình trạng bất thuận trong các chủ thể kinh tế. Có khả năng thích
nghi cao, linh hoạt trớc những điều kiện kinh tế biến đổi ,tạo ra sự thích ứng kịp
thời giữa sản xuất xã hội với nhu cầu xã hội.
+Thứ 4: Dới sức ép của cạnh tranh KTTT kích thích sự đổi mới phát triển. Những
nhà sản xuất phải tự chịu trách nhiệm vế hàng hoá của mình, họ phải quan tâm
đến sự tiêu thụ trên thị trờng, muốn sản phẩm của mình đợc thị trờng tiếp nhận,
họ buộc phải giảm chi phí cá biệt xuống thấp nhất có thể bằng cách phải đổi
mới kĩ thuật và công nghệ, do vậy chất lợng mẫu mã của những sản phẩm đợc
cải biến liên tục.Quá trình cao nhờ tận dụng đợc tối đa nguồn vốn, tránh đợc sự
lãng phí cho xã hội.
+Thứ 5: Cơ chế thị trờng đảm bảo cho sự cân bằng tơng đối giữa tổng cung và
tổng cầu. Nhờ đó ngời dân có thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của
mình theo khả năng cho phép của họ.Cơ chế thị trờng mang lại sự phù hợp với sự
phát triển của lực lợng sản xuất, có nghĩa là sản phẩm xã hội sẽ ngày càng phong
phú.
+Thứ 6: Cơ chế thị trờng tự động kích thích sự phát triển sản xuất theo cả chiều
rộng và chiều sâu. Trong giai đoạn đầu của sự phát triển KTTT đã tự động phân
hoá ngời sản xuất ra làm ngời giàu ngời nghèo và chyên môn hoá họ thành những
ngời sản xuất và những ngời quản lí, chuyên môn hoá họ vào những lĩnh vực mà
họ có u thế nhất. Tuy nhiên sau này đây cũng sẽ chính là khuyết tật cơ bản của
KTTT
+Thứ 7: Việc cạnh tranh đòi hỏi phải đào tạo ngày càng nhiều cán bộ quản lí và
ngời lao động có trình độ cao. Đồng thời muốn thu đợc nhiều lợi nhuận ngời sản
xuất phải vận dụnh nhiều biện pháp quản lí kinh tế, làm cho sản xuất phải phù
hợp với nhu cầu của thị trờng, nâng cao hiệu quả quản lí kinh tế. Qua đó ngời tài
trong quản lí kinh tế sẽ đợc trọng dụng và xuất hiện càng nhiều. Nhu cầu học hỏi

và nâng cao trí thức của toàn xã hội sẽ đợc cải thiện đáng kể .
+Thứ 8 : Thông qua nền kinh tế thị trờng sẽ liên kết đợc các nhà sản xuất riêng lẻ
vào hoạt động của quốc gia.
4
-Những khuyết tật của cơ chế thị tr ờng :
Mặc dù có nhiều u điểm song cơ chế thị trờng thuần tuý không phải là chìa khoá
vạn năng, bên cạnh mặt tích cực nó còn có nhiều khuyết tật xuất phát từ bản chất
bên trong của nó do sự chi phối của của chế độ sở hữu t nhân. Cùng với sự phát
triển của lực lợng sản xuất, càng ngày những mặt trái của nó bộc càng lộ sâu sắc,
có thể tóm gọn lại những khuyết điểm chính của cơ chế thị trờng nh sau:
+Thứ 1: Cơ chế thị trờng có thể gây ra tình trạng bất ổn chính trị và thờng xuyên
phá vỡ sự cân đối của nền sản xuất xã hội. Hậu quả tiêu cực của sự vận động và
phát triển của nó thờng đi liền với những vấn đề nan giải . Nó khó có thể tránh
khỏi những thăng trầm , khủng hoảng kinh tế có tính chu kì và thất nghiệp. Thực
tế phát triển kinh tế thị trờng trong mấy thập kỉ qua chỉ rõ rằng: Không một nớc
nào trong một thời gian dài mà giải quyết đợc căn bệnh kinh niên là lạm phát và
việc làm. Điều này thực ra mới đợc mọi ngời thừa nhận cách đây 60 năm , từ khi
xuất hiện cuộc đaị suy thoái 1929-1933. Còn trớc năm 1930 ngời ta tin rằng :
không thể có thất nghiệp lớn và lâu dài xảy ra trong nền KTTT, họ cho rằng
KTTT có thể tự điều khiển mà không cần có sự can thiệp của chính phủ. Cuộc đại
suy thoái 1929-1933 bắt đầu từ Anh vào năm 1921 và nhanh chóng lan ra tất cả
các nớc TBCN khác gây nên hậu quả trầm trọng. Đứng trớc vấn đề đó các nhà
kinh tế lúc này mới thừa nhận nhợc điểm của KTTT và thừa nhận rằng nếu không
có sự can thiệp của nhà nớc thì nền KTTT không thể phát triển bền vững đợc.
+Thứ 2: Do mục đích hoạt động của các doanh nghiệp trong nền KTTT là tối đa
hoá lợi nhuận, nên họ thờng không quan tâm đến vấn đề tài nguyên môi trờng
của cả cộng đồng xã hội. Nên nếu chúng ta chỉ nhìn vào những chỉ tiêu kinh tế
đạt đợc, những vấn đề nan giải nh việc làm ,lạm phát trong một thời gian ngắn thì
hẳn chúng ta sẽ không khỏi ngạc nhiên trớc những thành tựu đạt đợc. Nhng cái mà
chúng ta sẽ nhận đợc sau đó sẽ là gì? Đó chắc chắn sẽ là sự ô nhiễm môi trờng

trầm trọng, sức khoẻ con ngòi đi xuống, tình trạng kinh tế bất ổn Mà tự bản thân
cơ chế thị trờng sẽ không thể khắc phục đợc.
+Thứ 3: Cơ chế thị trờng gây sự phân phối không công bằng, hầu hết các tài sản
của xã hội tập trung trong tay một số ngời, còn đại đa số nhân dân lao động lại
sống khổ cực. Đào sâu hố ngăn cách giàu nghèo, sự phân cực về của cải tác động
xấu đến đạo đức và tình ngời. Sự phân hoá này xảy ra với không chỉ với những
ngời sản xuất trong một nớc, mà còn giữa các quốc gia với nhau cũng xuất hiện
tình trạng cá lớn nuốt cá bé, sự phụ thuộc của các quốc gia kém phát triển với
những quốc gia phát triển hơn.
+Thứ 4: Cơ chế thị trờng chỉ thể hiện đầy đủ trong cạnh tranh hoàn hảo, hki xuất
hiện cạnh tranh không hoàn hảo thì hiệu lực kinh tế của cơ chế thị trờng sẽ giảm
5
xuống. Ví dụ khi xuất hiện độc quyền, các nhà độc do không phải cạnh tranh nên
có thể giảm sản lợng của họ xuống ,tăng giá để thu đợc lợi nhuận cao hơn, và
đồng thời họ sẽ không có động lực để đổi mới kĩ thuật, chất lợng, mẫu mã sản
phẩm nữa.
+Thứ 5: trong cơ chế thị trờng luôn tồn tại những nghành kinh tế kém sức cạnh
tranh.Đó là những nghành liên quan đến các vấn đề công cộng mang lại nhiều lợi
ích thiết thực cho cả cộng đồng, nhng đòi hỏi vốn đầu t cao mà vốn thu hồi lại
chậm hoặc thu hồi không hết đợc.Do vậy sẽ không có nhiều doanh nghiệp muốn
đầu t dẫn đến sự thiếu hụt của các dịch vụ công cộng. Ngòai ra dới cơ chế thị tr-
ờng công bằng xã hội, phúc lơị xã hội cũng khômg đợc giải quyết thoả đáng.
2.Tất yếu vai trò kinh tế của nhà nớc
- Chúng ta cần phải nhấn mạnh một điều là : sự lãnh đạo cuả Đảng cộng sản và
vai trò quản lí của nhà nớc đối với nền KTTT ở nớc ta hiện nay là tất yếu vì:
+Theo Đại hội lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định chủ trơng
phát triển nền KTTT định hớng XHCN ở Việt Nam,đây là mô hình tổng quát
trong thời kì quá độ đi lên CNXH của nớc ta .Chúng ta phải vận dụng những
thành tựu mà nhân loại đã đạt đợc trong nền KTTT, chúng ta thừa nhận những gì
mà CNTB đạt đợc trong KTTT, nhng KTTT không phải là phát minh của CNTB.

Nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trờng mang lại cho nhân loại
nhiều điều kì diệu, nhng đồng thời cũng chứa đựng quá nhiều khuyết tật xuất
phát từ chế độ t hữu về sản xuất, và do bản chất của CNTB mang lại nh: thúc đẩy
sự phân hoá giàu nghèo, khuyến khích lối sống thực dụngvị kỉ, chạy theo đồng
tiền làm băng hoại những giá trị đạo đức. Những khuyết tật này đi ngợc lại với
bản chất của nhà nớc XHCN Việt Nam. Có thể nói KTTT nh một con dao hai lỡi
trong tiến trình xây dựng XHCN vừa là con đờng dẫn giàu có văn minh là bạn
đồng hành của CNXH. Nhng đồng thời nó lại có thể dẫn đến chệch hớng
XHCN, tự phát đi theo con đờng phát triển TBCN trái với nguyện vọng của đông
đảo quần chúng nhân dân Việt Nam. Với mục tiêu tốt đẹp mà Đảng và nhà nớc ta
đã lựa chọn. Vì vậy việc định hớng phát triển cho nền KTTT ở Việt Nam theo cơ
chế thị trờng có sự quản lí của nhà nớc là một tất yếu khách quan, đáp ứng xu thế
của thời cuộc , và phù hợp với qui luật đã đợc hình thành trong thực tiễn. Và
nhiệm vụ này chỉ có thể đợc thực hiện khi có sự lãnh đạo đúng đắn, phù hợp của
nhà nớc và Đảng cộng sản bằng: các chính sách, pháp luật, công cụ quản lí vĩ
mô(tài chính, kế hoạch, qui hoạch ) mới có thể hạn chế tính tự phát của CNTB,
đảm bảo đợc tính định hớng XHCN cho sự phát triển kinh tế đất nớc, thực hiện đ-
ợc sự kết hợp thông nhất giữa tăng trởng kinh tế với công bằng-tiến bộ xã hội
ngay trong mỗi bớc phát triển của nền kinh tế.
6
-Hơn thế nữa Việt Nam là một nứơc ngheò, trình độ xã hội thấp, xuất phát điểm
đi lên CNXH thấp, sau chiến tranh là tình trạng đói kém và lạm phát kéo dài ,
hơn nữa Viêt Nam laị chậm chuyển đổi cơ chế. Cơ chế kế hoạch tập trung bao cấp
trong một thời gian tơng đối dài , từ khi hoà bình lập lại ở miền Bắc(1954) cho
đến tận cuối những năm 80 và đầu những năm 90 của thế kỉ 20, nhân đây cũng
phải khẳng định rằng cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp đã từng phát huy tác
dụng tích cực trong kháng chiến. Tuy nhiên sai lầm của chúng ta là ở chỗ sau khi
đất nớc thống nhất (1975) trong một thời gian dài chúng ta đã phủ nhận nền
KTTT, thực hiên kế hoạch hoá tập trung dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế-
xã hội những năm sau đó. Đúng nh lời V.I Lênin đã nói những u điểm của ngày

hôm qua kéo dài quá mức sẽ dẫn đến những nhợc điểm của ngày hôm nay. Điều
này dẫn đến cơ chế quản lí của chúng ta không tránh khỏi sức ỳ rất cao, hệ thống
ngân hàng, tín dụng với t cách là công cụ quản lí của nhà nớc còn mang tác
phong kinh tế cha cao,điều này còn thể hiện cả trong các cán bộ quản lí và ngời
dân khô. Tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu các doanh nghiệp xảy ra nhiều.
Chính vì hoàn cảnh đặc biệt này của nền kinht tế Việt Nam đòi hỏi nhà nớc ta
phải nỗ lực quản lí chặt chẽ nhằm xoá những tồn tại không tốt nh trên của cơ chế
cũ, có nh vậy mới tạo điều kiện cho nền KTTT phát triển đợc một cách mạnh mẽ
ở Việt Nam.
- Nh đã nói nền kinh tế nớc ta đang trong thời kì phát triển, KTTT sẽ không thể
đảm cho một nền kinh tế phat triển ổn định và và vững chắc , đồng thời cũng
không thể duy trì sự bảo hộ hoàn toàn của nhà nớc, trong những trờng hợp nói
trên có thể ví nh sự mâu thuẫn, lệch lạc nh ngời ta định vỗ tay bằng một bàn
tay vậy, và nó sẽ không thể giúp chúng ta cải tạo đợc cơ cấu kinh tế lạc hậu
của mình. Nh vậy cần phải có sự can thiệp của nhà nớc vào nền kinh tế ở một
chừng mực nào đó mới có thể chuyển đổi nền kinh tế từ nông nghiệp lạc hậu
sang nền công nghiệp, tăng đợc mức tích luỹ t bản, đầu t và cải tạo cơ cấu đầu
t theo hớng chuyển đổi cơ cấu để thực hiện công nghiệp, hiện đại hoá đất nớc.
-Ngoài ra trong cơ sở hạ tầng của nớc ta hiện nay còn tồn tại nhiều loại hình kinh
tế đan xen với nhau, hoà nhập lại với nhau nh: kinh tế tự cung tự cấp, kinh tế quản
lí tập trung, kinh tế hàng hoá nhỏ. Theo qui luật của lịch sử kinh tế tự nhiên và
kinh tế tự cung tự cấp sẽ vơn tới kinh tế hàng hóa mà đỉnh cao sẽ là KTTT. Còn
nền kinh tế quản lí tập trung ở nớc ta cha hình thành đầy đủ, chính vì vậy mà nhất
thiết phải có sự quản lí của nhà nớc trong nền KTTT.
-Nền kinh tế nớc ta hiện nay, các nguồn lực sản cha đợc khai thác một cách có
hiệu quả , thị trờng vừa yếu, vừa vô tổ chức, khi chúng ta chuyển đổi nền KT sang
cơ chế thị tròng có sự quản lí của nhà nớc vừa cho phép chúng ta sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực khan hiếm, vừa khắc phục tinh vô tổ chức và những
7

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×