Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

So sánh chuẩn mực kế toán Việt Nam và kế toán quốc tế potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (66.99 KB, 3 trang )

So sánh chuẩn mực kế toán Việt Nam và kế toán quốc tế
Tổng quan về chuẩn mực kế toán quốc tế và kế toán Việt Nam
Hệ thống kế toán và chuẩn mực quốc tế về kế toán (IASs/IFRSs) được soạn thảo bởi Hội đồng
chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB). Nó được soạn thảo và công bố theo những quy trình rất chặt
chẽ để đảm bảo chất lượng của các chuẩn mực và đảm bảo tính thực hành cao. IASs/IFRSs
được sử dụng rộng rãi ở khắp thế giới như châu Âu, Singapore, Hồng Kông, Úc và nhiều quốc
gia trên thế giới. Rất nhiều quốc gia khác của châu Á và trên thế giới đang điều chỉnh các chuẩn
mực của mình để phù hợp hơn với IFRS và giảm thiểu sự khác nhau nếu có.
Khác với hệ thống kế toán Việt Nam (VAS), hệ thống kế toán quốc tế (IAS) không có sự bắt
buộc mang tính hình thức (như biểu mẫu báo cáo thống nhất, hệ thống tài khoản kế toán thống
nhất, hình thức sổ kế toán, mẫu các chứng từ gốc thống nhất). IAS mặc dù đưa ra rất chi tiết các
định nghĩa, phương pháp làm, cách trình bày và những thông tin bắt buộc phải trình bày trong
các báo cáo tài chính nhưng IAS không bắt buộc phải sử dụng chung các biểu mẫu báo cáo tài
chính, hệ thống tài khoản, các hệ thống chứng từ, sổ kế toán. IAS có bộ khung khái niệm và
tính thống nhất cao giữa các chuẩn mực. VAS còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng, thiếu nhiều vấn đề
và đặc biệt là còn mâu thuẫn giữa các chuẩn mực hoặc sự không thống nhất giữa chuẩn mực và
hướng dẫn về chuẩn mực đó.
Hầu hết những người đã được học và/hoặc làm theo các hệ thống kế toán quốc tế hay mang tính
thông lệ quốc tế đều cho rằng, hệ thống tài khoản kế toán thống nhất của Việt Nam chỉ nên
mang tính hướng dẫn mà không nên mang tính bắt buộc. Thông lệ kế toán quốc tế cho phép ghi
nhiều Nợ đối ứng với nhiều Có trong cùng một định khoản, tuy nhiên không nên lạm dụng việc
ghi nhiều Nợ đối ứng với nhiều Có để mất đi tính rõ ràng của kế toán. Mặc dù không có văn bản
pháp quy nào quy định cấm ghi nhiều Nợ đối ứng với nhiều Có trong cùng một định khoản kế
toán, nhưng theo một thói quen từ xưa, rất nhiều DN Việt Nam vẫn tuân theo nguyên tắc này.
Tuy nhiên, nhiều DN nước ngoài tại Việt Nam lại không áp dụng.
Hệ thống tài khoản kế toán thống nhất của Việt Nam chỉ quan tâm chủ yếu đến thông tin của
báo cáo tài chính cho các nhà đầu tư chứ chưa quan tâm đến thông tin quản trị nội bộ. Theo
thông lệ quốc tế, tên gọi tài khoản chính là tên gọi ngắn gọn của số dư tài khoản hay chỉ tiêu cần
quản lý. Không ghép chung nhiều chỉ tiêu khác nhau vào chung một tài khoản. Các chỉ tiêu
khác nhau phải được ghi chép và báo cáo theo các tài khoản riêng biệt.
So sánh bảng cân đối kế toán


IAS khác VAS trong hầu hết khoản mục của bảng cân đối kế toán như kế toán tiền, DN ghi độc
lập với ngân hàng. Các khoản phải thu thương mại tách biệt với các khoản phải thu từ bán tài
sản cố định (TSCĐ). Giá thành phẩm được tính theo phương pháp giá thành thông thường hơn
là thực tế và nó không chấp nhận phương pháp LIFO. Các tài sản sinh vật và sản phẩm nông
nghiệp thu hoạch từ các tài sản sinh vật được ghi nhận theo giá trị hợp lý trừ đi chi phí điểm bán
hàng ước tính. Các khoản chứng khoán thương mại ngắn hạn được ghi nhận theo giá trị hợp lý
(giá thị trường) cuối mỗi kỳ, chênh lệch được ghi vào lãi lỗ chưa thực hiện trên báo cáo kết quả.
Các khoản chứng khoán sẵn sàng để bán cũng được điều chỉnh theo giá trị hợp lý cuối kỳ,
nhưng nó được ghi tăng giảm vốn chủ sở hữu trên bảng cân đối kế toán không ghi vào báo cáo
lãi lỗ. Việc nhận cổ tức bằng cổ phiếu không ghi tăng thu nhập mà chỉ thuần túy ghi bút toán ghi
nhớ làm tăng số lượng cổ phiếu lên, đồng thời giảm đơn giá vốn nhưng tổng giá vốn không đổi.
Các khoản đầu tư bằng trái phiếu được ghi nhận theo giá vốn đã trừ (cộng) khấu hao chiết khấu
(phụ trội). Đầu tư vào công ty liên doanh được hợp nhất theo phương pháp hợp nhất tương ứng,
giải pháp thay thế là theo phương pháp vốn chủ sở hữu. VAS chỉ đưa ra phương pháp vốn chủ
sở hữu. Phương pháp hợp nhất tương ứng khác với hợp nhất thông thường ở chỗ chỉ phần tài
sản, nợ phải trả, thu nhập và chi phí thuộc sở hữu tập đoàn là được đưa vào trong tài khoản báo
cáo. Nó không có lợi ích thiểu số (minority interests). Việc hợp nhất các báo cáo tài chính bắt
buộc thực hiện cho cả báo cáo năm và báo cáo giữa niên độ.
TSCĐ có thể lựa chọn mô hình giá phí hoặc áp dụng mô hình giá trị hợp lý nếu nó có thể đo
lường một cách đáng tin cậy. Chênh lệch giá trị hợp lý giữa các kỳ được ghi vào vốn chủ sở
hữu. Riêng đối với bất động sản đầu tư, chênh lệch này được phép ghi vào lãi lỗ trên báo cáo
kết quả. Tuy nhiên, khi dùng mô hình giá trị hợp lý, trong phần thuyết minh, DN vẫn phải
thuyết minh giá gốc của nó để nhà đầu tư có thể tự đánh giá và so sánh. TSCĐ được cho tặng
ghi vào thu nhập phần phù hợp với chi phí để nhận được tiền cho tặng đó (phần khấu hao của
kỳ đó chẳng hạn). Khi tài sản cố định hữu hình hoặc vô hình và tài chính bị giảm giá trị, IAS
yêu cầu ghi nhận ngay vào chi phí. Theo IAS, đất đai thuộc tài sản hữu hình. Các khoản phải trả
thương mại được tách biệt với các khoản phải trả do mua sắm TSCĐ hay mua tài sản tài chính.
Khoản phải trả bao gồm cả các khoản thưởng và chi phí phúc lợi cho nhân viên. Vốn chủ sở
hữu không bao gồm các quỹ khen thưởng, phúc lợi (Theo VAS trước ngày 31.12.2009 quỹ khen
thưởng phúc lợi nằm trong mục lớn Vốn chủ sở hữu, tuy nhiên theo thông tư 244/2009/TT-BTC

ngày 31.12.2009 quy định vấn đề này giống như IAS). Các khoản đánh giá lại tài sản được ghi
tăng giảm vốn chủ sở hữu.
So sánh báo cáo kết quả kinh doanh
Để việc so sánh và quản trị được tốt hơn, theo IFRSs, lãi hoạt động kinh doanh là các khoản lãi
lỗ từ các hoạt động kinh doanh thông thường của DN, nó không bao gồm các khoản thu nhập và
chi phí tài chính. Chi phí tài chính theo thông lệ quốc tế chỉ đơn giản là chi phí lãi vay và các
chi phí trực tiếp liên quan đến vay tiền bao gồm cả việc lãi lỗ do thay đổi tỷ giá ngoại tệ phát
sinh từ việc vay tiền như một khoản chi phí lãi vay. Các chi phí khác và thu nhập khác theo IAS
bao gồm như bất động sản đầu tư theo mô hình giá trị hợp lý, các khoản chênh lệch giá trị hợp
lý cuối kỳ so với đầu kỳ được ghi nhận là lãi lỗ trong báo cáo tài chính kỳ đó. Theo VAS, chỉ áp
dụng phương pháp giá gốc trừ đi khấu hao lũy kế. Do vậy, không có khoản lãi, lỗ này phát sinh.
Trường hợp tài sản cố định được chính phủ cho tặng, theo IAS, DN chỉ được ghi nhận như một
khoản thu nhập trong các kỳ liên quan để phù hợp với các chi phí liên quan (khấu hao) mà
chúng được nhận để bù đắp. Theo VAS, nó được ghi nhận toàn bộ thu nhập vào kỳ nhận được
tài sản.
Theo IAS, lãi dùng để tính EPS cơ bản là lãi thuần thuộc các cổ đông. Nó không bao gồm các
khoản lãi, nhưng được dùng để chia cho nhân viên hay đối tượng khác như quỹ khen thưởng,
phúc lợi. VAS không trừ các quỹ này nên rất nhiều tình huống EPS tính theo VAS cao hơn theo
IAS khá nhiều thông thường từ 5 - 15%, cá biệt có thể lên đến 30%. Theo IAS, EPS pha loãng
và EPS cơ bản phải được trình bày trên bề mặt và nổi bật như nhau trên báo cáo kết quả kinh
doanh. Tuy nhiên, hiện nay VAS chưa có thông tư hướng dẫn chi tiết, nên các DN vẫn không
báo cáo EPS pha loãng trên báo cáo kết quả kinh doanh. Trường hợp chia cổ tức bằng cổ phiếu,
khác với IAS, VAS chưa quy định việc điều chỉnh hồi tố EPS. Trong trường hợp đó, việc phân
tích xu hướng EPS qua các năm theo số liệu EPS gốc (không điều chỉnh) sẽ bị sai lệnh rất
nghiêm trọng.
Theo IAS 27, các báo cáo tài chính hợp nhất phải được lập cho các báo cáo tài chính năm và
các báo cáo tài chính tạm thời giữa niên độ. Tuy nhiên, theo VAS, việc lập báo cáo tài chính hợp
nhất chỉ bắt buộc đối với báo cáo năm, các báo cáo giữa niên độ chỉ mang tính khuyến khích.
Điều này có nghĩa là báo cáo tài chính giữa niên độ có thể không đầy đủ và thiếu chính xác.
Đây là một lỗ hổng lớn mà các nhà tạo lập chế độ kế toán phải nhanh chóng chỉnh sửa, tránh

những hậu quả lớn cho các nhà đầu tư mà hiện nay họ đang phải gánh chịu. Báo cáo hợp nhất
với các công ty liên doanh, theo IAS, các doanh nghiệp nên sử dụng phương pháp hợp nhất
tương ứng tuy nhiên có thể sử dụng phương pháp vốn chủ sở hữu. VAS chỉ quy định phương
pháp vốn chủ sở hữu.
So sánh báo cáo lưu chuyển tiền tệ
VAS và thông tư hướng dẫn cách lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ là lấy từ sổ quỹ tiền mặt và sổ
cái tiền gửi ngân hàng tương ứng với các tài khoản đối ứng. Theo thông lệ quốc tế, việc lập báo
cáo lưu chuyển tiền tệ (LCTT) chỉ căn cứ thuần túy các số liệu trên bảng cân đối kế toán số đầu
kỳ và cuối kỳ, báo cáo kết quả (và có thể có thêm một vài thông tin từ sổ cái) sau đó làm các
động tác điều chỉnh là ra các chỉ tiêu trên báo cáo LCTT.
VAS hướng dẫn cách lập báo cáo LCTT theo phương pháp gián tiếp bắt đầu từ lãi trước thuế
cộng trừ các khoản điều chỉnh trong đó có chênh lệch các khoản phải trả. Mặc dù trong quy
định về báo cáo đã yêu cầu các khoản phải trả này không bao gồm các khoản phải trả liên quan
đến hoạt động đầu tư và tài chính. Tuy nhiên, do Tài khoản 331 Phải trả cho người bán bao gồm
các khoản phải trả thương mại do mua hàng hóa, nguyên liệu cho sản xuất và phải trả cho việc
mua sắm tài sản cố định hay mua khác. Khi lập báo cáo LCTT, kế toán viên chỉ lấy số dư cuối
kỳ trừ số dư đầu kỳ của Tài khoản 331 này. Do vậy nó làm cho dòng tiền từ hoạt động kinh
doanh lẫn lộn với dòng tiền từ hoạt động đầu tư.
Theo webketoan

×