Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.76 KB, 31 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội
và tư duy con người, đặc biệt trong hoạt động kinh tế,chẳn hạn như cung
cầu , tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của từng xí nghiệp, từng công
ty và tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng hoá….Mâu thuẫn tồn
tại khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi sự vật, mâu
thuẫn hình thành không phải chỉ là một mà là nhiều mâu thuẫn, và sự vật
trong cùng một lúc có nhiều mặt đối lập thì mâu thuẫn này mất đi thì mâu
thuẫn khác lại hình thành….
Nước ta trong 20 năm đổi mới đã phát sinh rất nhiều mâu thuẫn
trong phát triển kinh tế xã hội; việc giải quyết những mâu thuẫn ấy mang
tính chất quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế. Đề tài “Mâu thuẫn
biện chứng trong quá trình xây dựng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở
nước ta hiện nay” Là cái nhìn tổng quát về những mâu thuẫn cơ bản đang
tồn tại và chi phối nền kinh tế.
Tiểu luận gồm ba chương:
Chương I : Cơ sở của đề tài
Chương II: Thực trạng của vấn đê
Chương III: Các kiến nghị cơ bản


1
CHương I: CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI
I/ Cơ sở lý luận
1. Lý luận về mâu thuẫn
a-mặt đối lập-tính thống nhất và đấu tranh:
Trong phép biện chứng duy vật khái niệm mặt đối lập là sự khái quát
những thuộc tính, những khuynh hướng ngược chiều nhau tồn tại trong
cùng một sự vật hiện tượng, tạo nên sự vật hiện tượng đó. Do đó cũng cần
phân biệt rằng bất cứ mật đối lập nào cũng tạo nên mâu thuẫn . Bởi vì trong
các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan không phải chỉ tồn tại hai


mặt đối lập.
Mặt lập tồn tại phổ biến và khác quan trong tất cả các sự vật hiện tượng và
trong tư duy của con người.
*Sự thống nhất của các mặt đối lập
Mặt đối lập tồn tại trong tất cả các sự vật hiện tượng trong sinh vật có
đồng hoá- dị hoá, trong kinh tế có cung- cầu… các mặt đối lập tồn tại thống
nhất trong cùng một sự vật hiện tượng như một chỉnh thể thống nhất nhưng
luôn có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, bài trừ, phủ định và
chuyển hoá lẫn nhau khi có hai mặt đối lập như vậy mới gọi là hai mặt đối
lập. Sự "thống nhất" của hai mặt đối lập được hiểu với ý nghĩa không phải
chung đứng cạnh nhau mà nương tựa vào nhau, tạo ra sự phù hợp cân bằng
như liên hệ phụ thuộc, quy định và ràng buộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy
mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của mình và ngược lại. Nếu thiếu
một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định không có sự
tồn tại của sự vật. Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện
không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật nào.
Ví dụ:
Cung-cầu là hai mặt đối lập tạo nên sự tồn tại và phát triển của thị
trường, hai mặt đối lập này tồn tại phủ định lẫn nhau. Nhưng nếu thị trường

2
biến động làm cho cầu một loại hàng hoá giảm, hoặc bị triệt tiêu thì lúc ấy
cung của loại hàng hoá ấy cũng giảm theo hoặc không tồn tại nữa lúc này
thị trường hàng hoá đó cũng xẽ mất đi.
Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể
thiếu được của bất kỳ sự tồn tại nào. Sự thống nhất được thể hiện:
+ các mặt đối lập quy định lẫn nhau, sự phát triển của mặt này dẫn đến sự
phát triển của mặt kia, nếu một trong hai mặt đối lập biến mất thì mặt còn
lại cũng sẽ biến mất.
Ví dụ: Lực lượng sản xuất phát triển kéo theo sự phát triển của quan hệ

sản xuất; đồng hoá tăng thì dị hoá cũng tăng.
+ Các mặt đối lập có những điểm tương đồng trên một số phương diện bởi
vì chúng tồn tại không tách tời nhau. Với ý nghĩa đó “sự thống nhất của các
mặt đối lập bao gồm cả sự “đồng nhất” giữa chúng, và đây là lý do tại sao
các mặt đối lập có sự chuyển hoá lẫn nhau.
+ các mặt đối lập có tác động cân bằng: các mặt đối lập tồn tại và có tác
động cân bằng trong mỗi sự vật hiện tượng chính sự tác động này đã làm
cho sự vật hiện tượng giữ được sự ổn định trong một khoảng thời gian,
không gian xác định.
*Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Các mặt đối lập không chỉ thống nhất mà còn đấu tranh với
nhau.Đấu tranh giữa chúng là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và
phủ định lẫn nhau. Hình thức đấu tranh hết sức phong phú và đa dạng phụ
thuộc vào tính chất, mối quan hệ qua lại giưã các mật đối lập .
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập không tách rời khỏi sự chuyển hoá
giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật nhưng
không nằm yên mà điều chỉnh chuyển hoá lẫn nhau tạo động lực phát triển
cho bản thân sự vật.
b-Mâu thuẫn

3
Theo quan niệm đời thường mâu thuẫn là những gì đối lập nhau loại trừ
lẫn nhau.
Theo quan niệm của triết học duy vật biện chứng thì các mặt đối lập nằm
trong sự qua lại tác động lẫn nhau tạo ra mâu thuẫn biện chứng,trong thế
giới hiện thực bất kỳ mặt đối lập nào cũng chứa đựng trong bản thân nó
những mặt những thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau.
Sự đấu tranh giữa chuyển hoá giữa chúng tạo thành mâu thuẫn, nó là hiện
tượng khách quan và phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn được giải quyết sự
vật cũ mất đi sự vật mới hình thành. Sự vật mới lại nảy sinh ra các mâu

thuẫn thường xuyên biến đổi không ngừng. Vì vậy mâu thuẫn là nguồn gốc
động lực của sự phát triển.
2- Lý luận về cơ chế thị trường:
a- Định nghĩa về cơ chế thị trường:
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế- xã hội mà trong đó sản
phẩm sản xuất ra là để trao đổi và bán trên thị trường. Mục đích của sản
xuất trong kinh tế hàng hoá không để thoả mãn nhu cầu trực tiếp của người
sản suất mà để thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng.
Khi kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao mà toàn bộ các yếu tố
đầu vào và đầu ra của sản xuất đều thông qua thị trường thì lúc ấy kinh tế
thị trường xuất hiện. Dưới giác độ triết học kinh tế thị trường được tạo nên
giữa hai mặt đối lập là cung và cầu. Hai mặt đối này với nhau tạo ra sự phát
triển ngày càng cao của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường trong mỗi một
loại hình thái kinh tế xã hội khác nhau thì khác nhau. ở nước ta có khái
niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nó được định nghĩa là
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa có thể nói :
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là nội dung cơ bản tạo nên nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam. Còn vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là yếu tốhình thức chỉ các tồn tại và phát triển, những mối

4
liên hệ bền vững giữa kinh tế và chính trị trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.

5
b-Những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị trường:
+Các chủ thể có tính độc lập và quyền tự do kinh doanh:
- Giá cả của hàng hoá do thị trường quyết định và hệ thống thị trường được
phát triển đầy đủ.

--- Nền kinh tế vận động theo quy luật vốn có của thị trường.
- Nền kinh tế có sự điều tiết của nhà nước.
c- Tính khách quan:
Kinh tế thị trường tồn tại và phát triển là một tất yếu khách quan bởi
trong thời đại ngày nay lực lượng sản xuất xã hội đã phát triển đến đỉnh cao
hiện đại và năng động, sự phát triển ấy tất yếu sẽ kéo theo sự phát triển của
quan hệ sản xuất mới và chỉ có kinh tế thị trường mới là hình thái kinh tế
phù hợp với quan hệ sản xuất mới hiện đại đang dần hình thành.
3/ Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần:
- Định nghĩa thành phần kinh tế: Là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế
dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Các thành
phần kinh tế không tồn tại biệt lập, mà có liên hệ chặt chẽ với nhau, tác
động lẫn nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất bao gồm nhiều thành
phần kinh tế.
- Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
là tổng thể các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong môi trường hợp tác và
cạnh tranh.
Nền kinh tế Việt Nam có 5 thành phần kinh tế
a/kinh tế nhà nước:
Là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản
xuất. Kinh tế Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, các quỹ dự
trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm Nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu Nhà
nước có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế.

6
- Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Là lực
lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều
tiết vĩ mô nền kinh tế vì:
+ Nó nắm những ngành, những cơ sở kinh tế then chốt như: công nghiệp
năng lượng, khai khoáng, luyện kim, công nghiệp chế biến, công nghiệp

nhẹ, giao thông vận tải, ngân hàng, tài chính, bưu điện… để đảm bảo cân
đối chủ yếu của nền kinh tế là cơ sở để định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Được Nhà nước trực tiếp quản lý và giúp đỡ phát triển.
+ Xu hướng vận động của nó ngày càng được mở rộng và phát triển, tiến
tới thống trị trong nền kinh tế.
b/kinh tế tập thể
TPKTTT dựa trên sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất, do những người lao
động tự nguyện góp vốn vào để làm ăn tập thể dưới nhiều hình thức mà
điển hình là các hợp tác xã .
Hình thức quan trọng của kinh tế tập thể là hợp tác xã . Kinh tế hợp tác
xã là những hình thức liên kết kinh tế có pháp nhân, tuân thủ những nguyên
tắc, có tổ chức chặt chẽ và điều lệ hoạt động rõ ràng. Kinh tế HTX được
phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao, từ nhóm tổ đến
HTX theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi.
Trong những năm đổi mới kinh tế HTX có những biến đổi căn bản:
Hộ nông dân được coi là đơn vị kinh tế tự chủ , ruộng đất được giao sử
dụng lâu dài. Thực tế xuất hiện những hình thức hợp tác xã giản đơn, từng
khâu như hợp tác xã cổ phần, hợp tác xã dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ
cho kinh tế hộ và kinh tế trang trại phát triển.
c/kinh tế tư nhân
TPKTTBTN dựa trên sở hữu tư nhân tư bản về tư liệu sản xuất và bóc
lột lao động làm thuê, đầu tư vào những ngành vốn ít, lãi cao. Nó là những

7
đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số nhà tư bản trong và ngoài nước
đầu tư để sản xuất kinh doanh và dịch vụ.
Tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần.. .
d/kinh tế tư bản nhà nước:
Là sẢn phẨm cỦa sỰ can thiỆp cỦa nhà nước và hoẠt động cỦa các

TPKTTBNN TỔ chỨc, đơn vỊ kinh tẾ tư bẢn trong và ngoài nước. Trong
thành phần kinh tế này Nhà nước chiếm cổ phần chi phối ( trên 50%)
e/kinh tế vốn đầu tư nước ngoài
Nó bao gỒm phẦn vỐn cỦa nước ngoài vào các cơ sỞ sẢn xuẤt kinh
doanh cỦa nước ta.
Doanh nghiỆp 100% vỐn đầu tư nước ngoài , doanh nghiỆp liên doanh
giỮa VN vỚi nước ngoài.
II- Cở sở thực tế:
1/Trước đổi mới:
Việt Nam đã áp dụng cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp theo mô
hình của Liên Xô và các nước Đông Âu. Trong mô hình này sở hữu tư
nhân và cá nhân bị xem nhẹ, nặng về mục tiêu phát triển quan hệ sản xuất,
xác định nền kinh tế hầu như khép kín, không chú trọng phát triển quan hệ
hàng hoá- tiền tệ và các yếu tố thị trường trong nền kinh tế. Tuy mô hình
kinh tế này không phù hợp với điều kiền thực tiễn mới khi đã chuyển sang
kiến thiết đất nước trong thời bình nhưng duy trì quá lâu trong quá trình
phát triển điều đó khiến cho nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng
nghiêm trọng. Thực tế này đòi hỏi Đảng ta phải tìm ra một mô hình kinh tế
mới phù hợp với điều kiện đất nước.
2/Trong thời kỳ đổi mới:
Tư duy về kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường đã
trải qua một quá trình hình thành và phát triển. Nếu ở Đại hội VI, Đảng ta

8
mới khẳng định sự cần thiết phải sử dụng quan hệ hàng hoá- tiền tệ dưới
chủ nghĩa xã hội thì đến Đại hội VII và VIII Đảng khẳng định cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa…Đại
hội Đảng IX tiếp tục đánh dấu thêm một bước phát triển mới trong lý luận
của Đảng ta, đã xác định: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát” trong thời kỳ quá độ đi lên chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nghị quyết số 21- NQ/ TƯ về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa do hội nghị lần thứ 6
"Mục tiêu hàng đầu trong việc phát triển các thành phần kinh tế được
tóm tắt thành 3 điểm: Giải phóng sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế
xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân. Mục tiêu cũng chính đã thể hiện
nhất quán từ hội nghị Trung ương lần thứ VI khiến Đảng ta phải ban hành
những chính sách để khuyến khích sản xuất "bung ra" và cho đến nay,
trong chính sách phát triển 5 thành phần kinh tế chúng ta vẫn thấy cần
thiết thực sự lưu ý đến các thành phần mà trước đây gọi là phi XHCN, là
đối tượng phải cải tạo ngay khi bước vào thời kỳ xây dựng CNXH. Chẳng
hạn như chính sách khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân đầu tư vào sản
xuất, tạo điều kiện thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư
lâu dài, mọi thành phần kinh tế được bình đẳng, vay vốn sản xuất, bảo vệ
quyền sở hữu và hợp pháp của các nhà tư bản, áp dụng phổ biến và phát
triển đa dạng các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước"

9
Chương II: THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
I/ Các mâu thuẫn cơ bản trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở
Nước ta
Trong nền kinh tế nước ta hiện nay đang tồn tại rất nhiêu mâu thuẫn, song
do tính nhỏ hẹp của đề tài không thể nghiên cứu hết toàn bộ các mâu thuẫn
đang tồn tại trong nội bộ nền kinh tế vì vậy đề tài chỉ xin nghiên cứu một
số mâu thuẫn điển hình :
1,Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế
Các thành phần kinh tế tồn tại trong một thể thống nhất là nền kinh tế
quốc dân, song mỗi thành phần kinh tế lại có quan hệ riêng về sở hữu tư
liệu sản xuất. Chính vì vậy mỗi thành phần kinh tế ngoài các quy luật kinh
tế chung còn có các quy luật kinh tế đặc thù riêng chi phối sự hoạt động

phát triển. Mỗi thành phần kinh tế lại xẽ mang bản chất khác nhau có lợi
ích kinh tế khác nhau thậm chí đối lập nhau. Mâu thuẫn giữa các thành
phần kinh tề thực chất là mâu thuẫn về lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh
tế. VI.Lenin cho rằng: lợi ích của giai cấp này hay giai cấp kia được xác
định một cách khách quan theo vai trò của họ trong hệ thống quan hệ sản
xuất. Bởi vì lợi ích kinh tế là biểu hiện của quan hệ sản xuất và được quy
định một cách khách quan bởi phương thức sản xuất.
ở Nước ta hiện nay mâu thuẫn chủ yếu giữa các thành phần kinh tế là:
" Mâu thuẫn giữa lợi ích xã hội với lợi ích cá nhân"
2/Mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thì vấn
đề lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp.
xét trên phương diện triết học, thì lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan
hệ sản xuất là hình thức, lực lượng sản xuất là yếu tố động, luôn luôn thay
đổi, và là yếu tố quyết định quan hệ sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát

10
triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất lúc này tỏ ra không
còn phù hợp nữa và trở thành yếu tố kìm hãm. Để mở đường cho lực lượng
sản xuất phát triển thì cần thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản
xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng với
nhau, nó là thước đo để đánh giá sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. ở
Việt Nam, mặc dù nhà nước đã có rất nhiều chính sách để cân đối sao cho
LLSX – QHSX phát triển song song đồng bộ. Nhưng thực tế cho thấy, khi
bắt tay vào xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường thì LLSX luôn tỏ
ra mâu thuẫn với QHSX.
Tính cạnh tranh và năng động là một trong những đặc điểm cơ bản của
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, thì

ngược lại chúng ta lại chậm tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách
để tạo động lực và điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả
hoạt động, phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Việc thí
điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn làm chậm. Chưa quan tâm
tổng kết thực tiễn, kịp thời chỉ ra phương hướng, biện pháp đổi mới kinh tế
hợp tác, để hợp tác xã nhiều nơi tan rã hoặc chỉ còn là hình thức, cản trở
sản xuất phát triển, chưa kịp thời đúc kết kinh nghiêm, giúp đỡ các hình
thức kinh tế hợp tác mới phát triển. Chưa giải quyết tốt một số chính sách
để khuyến khích kinh tế tư nhân phát huy tiềm năng, đồng thời chưa quản
lý tốt thành phần kinh tế này. Quản lý kinh tế hợp tác liên doanh với nước
ngoài còn nhiều sơ hở. Kinh tế vĩ mô còn những yếu tố thiếu vững chắc.
Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hoá, qui hoạch xây dựng,
quản lý đất đai còn yếu kém, thủ tục đổi mới hành chính chậm. Thương
nghiệp nhà nước bỏ trống một số trận địa quan trọng, chưa phát huy tốt vai
trò chủ đạo trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, tiêu
cực, một số trường hợp gây ra tác động xấu với sản xuất. Chế độ phân phối

11
thu nhập còn bất hợp lý, bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn ... Đó là
một số hạn chế của QHSX kìm hãm LLSX phát triển và điều đó làm cho
quá trình xây dựng đất nước của ta gặp nhiều khó khăn.
Một trong những vấn đề bức xúc đối với chúng ta hiện nay đó là việc làm,
tình trạng thất nghiệp là một biểu hiện rõ ràng để chứng tỏ được rằng giữa
LLSX – QHSX có sự mất cân đối.
Khi QHSX phù hợp, nó không những giải phóng được sức sản xuất mà
còn tạo tiền đề để thúc đẩy bước phát triển của LLSX. Vì vậy vấn đề đặt ra
cần đặt ra là làm thế nào để giải quyết được mâu thuẫn này?
Cần đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế,
chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức
bật mới cho phát triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với

các hình thức sở hữu khác nhau. Mọi doanh nghiệp, mọi công dân được
đầu tư kinh doanh theo hình thức do luật định và được pháp luật bảo vệ.
Mọi tổ chức kinh doanh theo các hình thức sở hữu khác nhau hoặc đan xen
hỗn hợp đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình
đẳng và là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa,
từng bước hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh.
Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thức hiện tốt vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế. Phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những sản
xuất và dịch vụ quan trọng: Xây dựng các tổng công ty nhà nước đủ mạnh
để làm nòng cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh
trên thị trường trong nước và quốc tế.
Đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh
doanh của doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh
sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hưũ hạn hoặc công ty cổ
phần. Bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất,

12

×