Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Gía trị thặng dư pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.15 KB, 23 trang )

MỤC LỤC(ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT)
1. L I M U. Ờ Ở ĐẦ 2
2. N I DUNG.Ộ 3
2.1.C s lý lu n c a giá tr th ng d , ph ng pháp s n xu t giá tr ơ ở ậ ủ ị ặ ư ươ ả ấ ị
th ng d tuy t i v giá tr th ng d t ng i, m i quan h gi a hai ặ ư ệ đố à ị ặ ư ươ đố ố ệ ữ
ph ng pháp n y.ươ à 3
2.2. Ý ngh a c a vi c nghiên c u các ph ng pháp s n xu t giá tr th ng ĩ ủ ệ ứ ươ ả ấ ị ặ
d : ư 11
2.3. Ph ng pháp s n xu t giá tr th ng d tuy t i v t ng i ươ ả ấ ị ặ ư ệ đố à ươ đố
c v n d ng v o trong công cu c công nghi p hoá hi n i hoá c a đượ ậ ụ à ộ ệ ệ đạ ủ
n c ta hi n nay.ướ ệ 12
3. K T LU N.Ế Ậ 22
1
1. LỜI MỞ ĐẦU.
Lấy cơ sở nghiên cứu là trường phái kinh tế chính trị cổ điển, mà đại
biểu chính là David Ricardo, Karx Marx và Engels đã xây dựng nên trường
phái kinh tế chính trị Macxít và sau này được lênin củng cố thành kinh tế
chính trị Mac - Lênin. Kinh tế chính trị Mac - Lênin đã đưa ra những luận
chứng có tính chất quá độ lịch sử của chủ nghĩa tư bản và tất yếu của cách
mạng xã hội chủ nghĩa và hướng tới chủ nghĩa cộng sản. Quyển I của bộ tư
bản có tựa đề là “Về tư bản” được K.Marx cho xuất bản năm 1867, trong tác
phẩm này K.Marx đã trình bày một cách khoa học hệ thống các phạm trù kinh
tế chính trị tư bản mà trước đó, chưa ai có thể làm được, nó được đánh giá
như “tiếng sét nổ giữa bầu trời quang đãng của chủ nghĩa tư bản”, một trong
số các học thuyết được nêu ra là thuyết giá trị thặng dư, nhờ có học thuyết này
mà toàn bộ bí mật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa được vạch trần, phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được nêu ra một cách chính xác, mà trong đó
hai phương pháp sản xuất chính là phương pháp giá trị thặng dư tương đối và
phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối được áp dụng rộng rãi nhất, nhằm tạo
ra tư bản để tích luỹ và tái mở rộng sản xuất, đưa xã hội tư bản ngày càng
phát triển. Hai phương pháp này đã được đưa vào ứng dụng ở nhiều quốc gia


trên thế giới trong đó có Việt Nam. Sau ngày đất nước dành được độc lập,
đảng và nhà nước ta đã nhận định rằng để đưa đất nước phát triển thì con
đường duy nhất để đưa nước ta phát triển là đưa nước ta trở thành một nước
có nền kinh tế hiện đại, để làm được điều đó trước hết chúng ta phải tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì mới từng bước đưa nước ta trở thành một
nước công nghiệp hiện đại. Do vận dụng không hợp lý những nguyên tắc
trong từng thời kì khác nhau của đất nước nên chúng ta đã gặp rất nhiều khó
khăn trong quá trình xây dựng đất nước, đạt được ít thành quả trong quá trình
xây đựng đất nước. Nhưng từ khi bước vào thời kì đổi mới năm 1986, từ
2
những kinh nghiệm thu được sau nhiều năm và kinh nghiệm của thế giới,
đảng ta đã có quan điểm hết sức rõ ràng (tại đại hộigiữa nhiệm khoá VII):
“Những tiến bộ về kinh tế, xã hội cùng với sự mở rộng và tăng cường hợp tác
phát triển với các nước, các tổ chức quốc tế cho phép chúng ta đẩy tới một
bước công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm tạo thêm công
ăn việc làm cho người lao động, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, từng
bước cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Đây là nhiệm vụ
trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới. Công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là con đường thoát khỏi tụt hậu xa hơn so với các nước xung
quanh, giữ được ổn định chính trị và xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ quyền
và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa”.
2. NỘI DUNG.
2.1.Cơ sở lý luận của giá trị thặng dư, phương pháp sản xuất giá trị thặng
dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối, mối quan hệ giữa hai
phương pháp này.
Đã có nhiều người đưa ra các phạm trù giá trị thặng dư, nhưng họ không
chỉ ra được sự đúng đắn của phạm trù này, K.Marx là người đầu tiên xây
dựng hoàn chỉnh học thuyết giá trị thặng dư.Và theo K.Marx thì “giá trị thặng
dư là giá trị do sức lao động của công nhân tạo ra ngoài giá trị sức lao động và
bị nhà tư bản chiếm đoạt”, nó là kêt quả lao động không công của người công

nhân làm thuê. Khi nói đến tư bản người ta thường liên tưởng đến tiền, đến tư
liệu sản xuất, nhưng không phải như vậy, mà tư bản là quan hệ sản xuất hàng
hoá, là mối quan hệ sản xuất giữa giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân
làm thuê, tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động
không công của công nhân làm thuê. Bởi vậy, cũng dễ hiểu khi mục đích của
giai cấp tư sản là giá trị thặng dư. Nhưng để sản xuất giá trị thặng dư, trước
3
hết nhà tư bản phải sản xuất ra hàng hoá có giá trị sử dụng, vì giá trị sử dụng
là nội dung vật chất của hàng hoá, là vật mang giá trị và giá trị thặng dư. Đây
cũng là quá trình nhà tư bản tiêu dùng hàng hoá sức lao động và tư liệu sản
xuất để sản xuất giá trị thặng dư. Bởi thế mỗi sản phẩm được làm ra đều được
kiểm soát bởi nhà tư bản và thuộc sở hữu của nhà tư bản. Trong quá trình sản
xuất tư bản chủ nghĩa, bằng lao động cụ thể của mình công nhân lao động làm
thuê sử dụng tư liệu sản xuất và chuyển giá trị của chúng vào hàng hoá, bằng
lao động trừu tượng công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động,
phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư. Ví dụ sau sẽ minh hoạ rõ về giá trị thặng
dư:
Giả sử để chế tạo 1kg sợi, nhà tư bản phải ứng ra số tiền là 20.000 đơn vị tiền
tệ mua 1kg bông, 3.000 đơn vị cho hao phí máy móc và 5.000 đơn vị mua sức
lao động của công nhân điều khiển máy móc trong 10 giờ. Tổng cộng số tiền
ứng ra là 28.000 đơn vị tiền tệ. Trong quá trình sản xuất, bằng lao động cụ thể
công nhân sử dụng máy móc để chuyển 1kg bông thành 1kg sợi, Theo đó giá
trị của bông và hao mòn của máy móc được chuyển vào sợi, bằng lao động
trừu tượng công nhân tạo ra giá trị mới nhập vào sợi. Trong 5 giờ công nhân
đã chuyển được 1kg bông thành 1kg sợi thì giá trị của 1kg sợi là:
+ Giá trị 1kg bông chuyển vào: 20.000 đơn vị
+ Hao mòn máy móc: 3.000 đơn vị
+ Giá trị mới tạo ra (bằng giá trị sức lao động): 5.000 đơn vị
Tổng cộng: 28.000 đơn vị
Nếu quá trình lao động dừng ở đây thì nhà tư bản không thu được ít giá trị

thặng dư nào. Nhưng nhà tư bản đã mua sức lao động trong 10 giờ nên 5 giờ
tiếp theo nhà tư bản không phải trả công nữa mà chỉ cần phải chi thêm 2.000
đơn vị tiền tệ để mua 1kg bông và 3.000 đơn vị hao mòn máy móc nhưng sẽ
có thêm 1kg sợi.
4
Tổng số tiền nhà tư bản bỏ ra để có 2kg sợi:
+ Tiền mua bông: 20.000 x 20 = 40.000 đơn vị
+ Hao mòn máy móc trong 10 tiếng 3.000 x 2 = 6.000 đơn vị
+ Tiền lương cả ngày 10 tiếng: = 5.000 đơn vị
Tổng cộng: = 51.000 đơn vị
Giá trị sợi nhà tư bản thu được 28.000*2 = 56.000 đơn vị
Như vậy nhà tư bản thu được giá trị thặng dư = 56.000 - 51.000 = 5.000 đơn
vị
Từ ví dụ trên đây có thể thấy đích xác được giá trị thặng dư từ đâu mà có, cái
mà nhà tư bản thu được là cái gì, nguồn gốc sâu xa của nó. Đó là cơ sở của sự
giàu có của giai cấp tư sản, cho nên K.Marx đã viết “Bí quyết của sự tăng
thêm giá trị của tư bản quy lại là ở chỗ tư bản chi phối được một số lượng lao
động không công nhất định của người khác”. Nhà tư bản làm được điều đó vì
họ có trong tay tư liệu sản xuất, còn người lao động không có tư liệu sản xuất
chỉ có sức khoẻ, điều duy nhất người công nhân có thể làm là bán sức lao
động của mình để lấy tiền luôi sống bản thân và gia đình của họ. Khi đó sức
lao động trở thành hàng hoá, giá trị sức lao động là điều kiện quan trọng để
sản xuất ra giá trị thặng dư. Như vậy, theo K.Marx giá trị sản phẩm được khái
quát theo công thức sau:
c + v + m
Trong đó:
c: giá trị tư liệu sản xuất
v: giá trị của sức lao động
m: giá trị thặng dư
Khi thu được giá trị thặng dư nhà tư bản sẽ chia nó làm nhiều phần, sử

dụng vào những mục đich khác nhau, trong đó một phần rất lớn dùng mua tư
liệu sản xuất, để tái mở rộng sản xuất nhằm đem lại nhiều giá trị thặng dư
hơn.
5
Đã có nhiều phương pháp được dùng để tạo ra giá trị thặng dư, nhưng
hai phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp giá trị thặng dư tuyệt
đối và phương pháp giá trị thặng dư tương đối. Mỗi phương pháp đại diện cho
một trình độ khác nhau của giai cấp tư sản, cũng như những giai đoạn lịch sử
khác nhau của xã hội.
Phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối được áp dụng ở giai đoạn đầu
của chủ nghĩa tư bản, thời kì này nền kinh tế sản xuất chủ yếu là sử dụng lao
động thủ công, hoặc lao động với những máy móc giản đơn ở các công trường
thủ công. Đó là sự gia tăng về mặt lượng của quá trình sản xuất ra giá trị
thặng dư. Bởi phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu
được do kéo dài ngày lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi
năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu là không
thay đổi. Có nghĩa là khi nhà tư bản muốn tăng giá trị thặng dư, thì nhà tư bản
sẽ mua thêm máy móc mua, thêm tư liệu sản xuât, thuê thêm công nhân để
sản xuất ra hàng hóa; nhưng móc, chỉ mua thêm nguyên liệu sản xuất, và bắt
công nhân hiện có phải cung cấp thêm một lượng lao động, đồng thời tận
dụng triệt để công suất của máy móc hiện có. Cái lợi ở đây là nhà tư bản
không cần ứng thêm tư bản, thuê thêm công nhân, mua thêm máy móc thiết
bị, đồng thời máy móc sẽ được khấu hao nhanh hơn, hao mòn và chi phí bảo
quản giảm đi rất nhiều, thời gian thu lợi nhuận sẽ dài hơn. VD: Một ngày
người công nhân lao động 8 giờ, trong đó thời gian lao động tất yếu là 4 giờ,
thời gian lao động thặng dư là 4 giờ, mỗi giờ công nhân tạo ra một giá trị mới
là 10.000 đơn vị tiền tệ, thì trong một ngày người công nhân tạo ra một lượng
giá trị mới là 80.000, bao gồm 40.000 là chi phí sản phẩm và 40.000 là giá trị
thặng dư tuyệt đối, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%. Nhưng khi kéo dài thời
gian lao động ra thêm 2 giờ với điều kiện các yếu tố khác không đổi thì giá trị

thặng dư tuyệt đối tăng lên là 60.000, nhà tư bản được lợi thêm 20.000 đơn vị
6
so với trước đó, tỷ suất thặng dư là 150%.(Tỷ suất giá trị thặng dư biểu hiện
của trình độ bóc lột giá trị thặng dư).
Nhà tư bản nào cũng muốn kéo dài ngày công lao động của người công
nhân làm thuê, nhưng thực tế thì không cho phép họ làm như vậy trong một
thời gian quá dài. Vì những việc làm đó là vượt quá giớ hạn sinh lí của người
công nhân, một người có thể duy trì mãi một cường độ lao động với năng suất
cao trong một thời gian dài là điều không thể có được, họ cần phải có thời
gian ăn ngủ, nghỉ ngơi giải trí nhằm hồi phục sức khoẻ. Thật dễ hiểu khi giai
cấp tư bản gặp phải sự kháng cự của giai cấp công nhân. Giai cấp tư sản muốn
kéo dài thời gian lao động trong ngày, còn giai cấp công nhân muốn rút ngắn
thời gian lao động, do đó độ dài ngày lao động có thể co giãn và việc xác định
độ dài ngắn ấy phụ thuộc vào so sánh lực lượng trong cuộc đấu tranh giữa hai
giai cấp đó. Điểm dừng của độ dài ngày lao động là điểm mà ở đó lợi ích kinh
tế của nhà tư bản và lợi ích kinh tế của người lao động được thực hiện theo
một thoả hiệp tạm thời.
Khi độ dài ngày lao động đã được xác định, nhà tư bản sẽ tìm mọi cách
để tăng cường độ lao động của người công nhân. Tăng cường độ lao động có
nghĩa là chi phí nhiều sức lao động trong một khoảng thời gian nhất định, nên
về thực chất cũng giống như kéo dài thời gian lao động trong ngày. Nhà tư
bản có thể tăng thêm tư liệu lao động, yêu cầu hay thoả thuận người lao động
lao động với cường độ cao mức bình thường, yêu cầu khi người lao động là
họ phải tập trung làm việc hơn, các thao tác làm việc phải nhanh hơn… những
việc đó sẽ tốn nhiều sức lao động hơn so với bình thường, và cũng tạo ra
nhiều sản phẩm hơn. Nhưng việc tăng cường độ lao động khó hơn việc tăng
thời gian lao động của người công nhân. vì việc này muốn thực hiện đựoc thì
nhà tư bản phải thay đổi máy móc.
7
Việc áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối ngoài việc

gặp khó khăn như ở trên đã đề cập, theo D.Ricardo “với sự tăng thêm của một
nhân tố sản xuất nào đó, trong điều kiện các nhân tố sản xuất khác là không
thay đổi, năng suất của của nhân tố tăng thêm sẽ giảm đi”. Bởi vậy, việc gia
tăng các nguyên liệu sản xuất trong khi các điều kiện sản xuất khác không
đổi, là việc làm không hiệu quả khi mà nhà tư bản muốn tăng thu thêm giá trị
thặng dư.
Để khắc phục những vấn đề mà phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối
gặp phải thì nhà tư bản đã áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
tương đối vào sản xuất. Phương pháp này có tiến bộ vượt bậc so với phương
pháp giá trị thặng dư tuyệt đối, thể hiện trình độ sản xuất cũng như trình độ xã
hội đã được nâng lên một tầm cao hơn. Phương pháp giá trị thặng dư tương
đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng
cách hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên
ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động vẫn như cũ. Vì giá trị sức lao động
được quyết định bởi các tư liệu tiêu dùng và dịch vụ để sản xuất, tái sản xuất
sức lao động, nên muốn hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các
tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người lao động. Điều đó chỉ được
thực hiện bằng cách tăng năng suất lao động xã hội cho các ngành sản xuất tư
liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất ra các tư liệu
sinh hoạt và dịch vụ. VD: Giả sử ngày lao động là 8 giờ, nó được chia ra 4 giờ
là thời gian lao động tất yếu, 4 giờ là thời gian lao động thặng dư, khi này tỷ
suất thăng dư là 100%.Nhưng khi máy móc được thay đổi, ngày lao động
không thay đổi, thời gian lao động tất yếu của người công nhân chỉ còn lại là
3 giờ, thời gian lao động thặng dư đã tăng lên là 5 giờ, vì vậy tỷ suất thặng dư
đã tăng lên là 166%. (Đồng nghĩa với trình độ bóc lột tăng lên).
8
Sự ra đời và phát triển và sử dụng rộng rãi máy móc đã làm cho năng
suất lao động tăng lên nhanh chóng. Máy móc có ưu thế tuyệt đối so với các
công cụ thủ công, vì công cụ thủ công là công cụ lao động do con người trực
tiếp sử dụng bằng sức lao động nên bị hạn chế bởi khả năng sinh lý của con

người, nhưng khi lao động bằng máy móc sẽ không gặp phải những hạn chế
đó. Vì thế, việc sử dụng máy móc làm năng suất lao động tăng lên rất cao,
làm giảm giá trị tư liệu sinh hoạt, làm hạ thấp giá trị hàng hoá sức lao động,
rút ngắn thời gian lao động tất yếu kéo dài thời gian lao động thặng dư, giúp
nhà tư bản thu được nhiều giá trị thặng dư hơn. Phương pháp giá trị thặng dư
tương đối ngày càng được nâng cao do các cuộc cách mạng khoa học, đặc biệt
cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển với tốc độ vũ bão, đem lại sự
phát triển chưa từng có trong lịch sử loài người, nó khác với cuộc cách mạng
khoa học là dẫn đến sự hình thành các nguyên lý công nghệ sản xuất mới, chứ
không đơn thuần về công cụ sản xuất như cách mạng khoa học, do đó dẫn đến
sự tăng trưởng cao, đưa xã hội loài người bước sang một nền văn minh mới -
nền văn minh trí tuệ.
Phương pháp giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất theo
chiều sâu, lao động phức tạp tăng lên và thay thế cho lao động giản đơn. Để
có lợi cho mình có lợi cho mình các nhà tư bản buộc phải chú trọng đến nhân
cách sáng tạo của lao động làm thuê. Điều đó đã chứng minh rằng lao động trí
óc, lao động có trình độ kĩ thuật cao ngày càng có vai trò quyết định tới việc
sản xuất giá trị thặng dư và tầng lớp công nhân này có mức sống tương đối
cao. Chính những điều đó dã làm cho một số người lao động nhầm tưởng rằng
họ không bị bóc lột sức lao động, sức lao động của họ được trả một cách thoả
đáng, họ an tâm làm việc mà không không biết rằng một khối lượng lớn giá
trị mới do sức lao động của mình tạo ra đã bị nhà tư bản chiếm đoạt. Hơn nữa,
với tốc độ phát triển chóng mặt của máy móc công nghệ, tác hại của sóng điện
9
từ từ những thiết bị tin học hiện đại làm cho người lao động bị hao phí rất
nhiều sức lực, phát sinh nhiều bệnh nghề nghiệp, các bệnh này có thể phát
sinh ngay trong quá trình còn đang lao động của người công nhân nhưng cũng
có thể để lại di chứng sau một thời gian dài mới biều hiện bệnh.
Một dạng của giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư siêu ngạch,
đây là cái đích hướng tới của các nhà tư bản. Giá trị thặng dư siêu ngạch là

giá trị thặng dư thu được do áp dụng công nghệ mới làm cho giá trị cá biệt
của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội của nó. Xét trong từng trường hợp giá trị
thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, nó sẽ bị mất đi khi công nghệ đó
đã được phổ biến rrộng dãi, nhưng xét theo phạm vi toàn xã hội thì đây một
hiện tượng thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là kì vọng
của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kĩ
thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất xã hội
tăng lên nhanh chóng. Bởi vậy K.Marx gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là biến
tướng của giá trị thặng dư tương đối.
Thực ra, hai phương pháp giá trị thặng dư đó không hề bị tách dời nhau,
mà chỉ trong mỗi thời kì khác nhau sự vận dụng hai phương pháp là nhiều hay
ít mà thôi, trong thời kì đầu của chủ nghĩa tư bản thì phương pháp giá trị
thặng dư tuyệt đối được sử dụng nhiều hơn so với phương pháp giá trị thặng
dư tương đối, còn trong thời kì sau của chủ nghĩa tư bản thì ngược lại. Trong
xã hội hiện đại ngày nay, việc nhà tư bản kết hợp tốt hai phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư đã tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản,
bằng cách tăng cường các phương tiện kỹ thuật và quản lý để bóc lột ngày
càng nhiều sức lao động làm thuê. Máy móc hiện đại được áp dụng, các lao
động chân tay bị cắt giảm nhưng điều đó không đi đôi với giảm nhẹ cường độ
lao động của người công nhân, mà trái lại do việc áp dụng máy móc không
đồng bộ nên khi máy móc chạy với tốc độ cao, có thể chạy với tốc độ liên tục
10
buộc người công nhân phải chạy theo tốc độ vận hành máy làm cho cường độ
lao động tăng lên, năng suất lao động tăng, ngoài ra nền sản xuất hiện đại áp
dụng tự động hoá cao cường độ lao động người công nhân tăng lên với hình
thức mới đó là cường độ lao động thần kinh thay thế cho cường độ lao động
cơ bắp, tạo ra sản phẩm chứa nhiều chất xám có giá trị lớn. Nên sản xuất tư
bản chủ nghĩa trong diều kiện hiện đại là sự kết hợp tinh vi của hai phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối.
2.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu các phương pháp sản xuất giá trị thặng

dư:
Việc nghiên cứu 2 phương pháp nói trên, khi gạt bỏ mục đích và tính
chất của chủ nghĩa tư bản thì các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, nhất
là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu
ngạch có thể vận dụng trong các danh nghệp ở nước ta nhằm kích thích sản
xuất, tăng năng suất lao động xã hội, sử dụng kỹ thuật mới, cải tiến tổ chức
quản lý, tiết kiệm chi phí sản xuất.
Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc
nghiên cứu sản xuất giá trị thặng dư gợi mở cho các nhà hoạch định chính
sách phương thức làm tăng của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong điều
kiện điểm xuất phát của nước ta còn thấp, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần
tận dụng triệt để các nguồn lực, nhất là lao động và sản xuất kinh doanh. Về
cơ bản lâu dài, cần phải coi trọng việc tăng năng suất lao động xã hội, coi đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân là là giải pháp cơ
bản để tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
11
2.3. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối được vận
dụng vào trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá của nước ta
hiện nay.
Giá trị thặng dư là do lao động không công của công nhân lao động làm
thuê tạo ra, là mục đích, kết quả hoạt động của tư bản, của giai cấp tư sản.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, việc bóc lột sức lao động không công của
người công nhân không còn nữa, nhưng không có nghĩa là giá trị thặng dư
không tồn tại, mà giá trị thặng dư được sử dụng vào mục đích khác không
giống như giai cấp tư sản, đó là giá trị thặng dư thu được là cơ sở, tiền đề để
xây dựng đất nước, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, vì mục đích
phát triển xã hội chủ nghĩa, vì con người. Không tác ra khỏi xu hướng của xã
hội, Việt Nam vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư vào trong
công cuộc xây dựng đất nước, trong đó tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là một nhiệm vụ hàng đầu, đây cũng là một quy luật đặc biệt của quá trình

phát triển kinh tế mỗi quốc gia.
Khi tách riêng hai thuật ngữ công nghiệp hoá và hiện đại hoá ra làm hai,
thấy công nghiệp hoá là quá trình biến đổi nền kinh tế quốc dân một nước từ
trình độ phát triển thấp sang một trình độ phát triển cao hơn nhiều dựa trên cơ
sở các ngành kinh tế có trình độ khoa học công nghệ hiện đại, với năng suất
chất lượng hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn, còn hiện đại hoá là việc xây dựng và
phát triển đất nước đạt trình độ của những nước phát triển nhất của thời đại
mà mấu chốt là đạt trình độ hiện đại hoá của nền sản xuất xã hội. Chính bởi
vậy mà công nghiệp hoá phải luôn đi đôi với hiện đại hoá, tạo thành khái
niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh,
dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang
sử dụng một cách phổ biến lao động với công nghệ, phương tiện tiên tiến,
12
hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao.Thực chất công nghiệp hoá, hiện
đại hoá: là quá trình tạo ra những tiền đề về vật chất, kỹ thuật, về con người,
công nghệ, phương tiện, phương pháp, những yếu tố cơ bản của lực lượng sản
xuất cho chủ nghĩa xã hội. Nội dung cốt lõi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
là cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sủ dụng kỹ thuật tiên tiến
hiện đại đạt tới năng suất lao động xã hội cao, tạo ra sự đổi mới trong tất cả
các ngành nghề, lĩnh vực.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải được tiến hành từng bước,
phải có sự đồng bộ trong giữa các bước, tránh nóng vội chủ quan sẽ đem lại
những hậu quả đáng tiếc. Muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất trước
hết bằng việc cơ khí hoá nền sản xuất xã hội trên cơ sở áp dụng những thành
tựu khoa học công nghệ. Trong đó, chú trọng xây dựng, phát triển công
nghiệp và sản xuất tư liệu sản xuất, then chốt là công nghiệp chế tạo tư liệu
sản xuất. Khi phát triển công nghiệp sẽ tạo điều kiện cho các ngành công
nghiệp sản xuất ra nhiều sản phẩm có giá trị, trong đó sản phẩm được sử dụng
nhiều nhất là các tư liệu sản xuất. Đối tượng của công nghiệp hoá, hiện đại

hoá là tất cả các ngành trong nền kinh tế quốc dân, các ngành công nghiệp chế
tạo tư liệu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì sản phẩm của ngành này sẽ được
ứng dụng vào các ngành khác để sản xuất ra sản phẩm cấp thấp hơn, nên
ngành công nghiệp chế tạo tư liệu sản xuất có vị trí quan trọng việc thúc đẩy
sự nghiệp phát triển của các ngành khác. Xã hội phát triển kéo theo quy mô,
cơ cấu, tỷ trọng các ngành công nghiệp phải phù hợp với điều kiện hoàn cảnh
tiềm năng của đất nước. Đó là trong thời kì đầu của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá thì sản xuất công nghiệp nhẹ chiếm tỷ trọng lớn hơn so với công nghiệp,
bởi trong hoàn cảnh này sẽ dễ dàng tận dụng được những nguyên liệu có sẵn
và lao động có tay nghề không cao, tuy nhiên phải không ngừng đầu tư phát
triển để đưa ngành công nghiệp nặng tạo tiền đề cho giai đoạn sau. Ở giai
13
đoạn sau công nghiệp nặng sẽ chiếm tỷ trọng lớn hơn so với công nghiệp nhẹ,
công nghệ nặng sẽ là nền công nghiệp chủ đạo của nền kinh tế sử dụng những
lao động lành nghề, trình độ kỹ thuật cao. Đồng thời, công nghiệp hoá, hiện
đại hoá cũng là chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hợp lý và hiệu
quả hơn. Tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ tăng dần, nhưng mỗi giai
đoạn khác nhau mà tỷ trọng công nghiệp là lớn hay tỷ trọng dịch vụ là lớn
hơn, nhưng một tất yếu là tỷ trọng ngành nông nghiệp sẽ giảm đi trong cơ cấu
kinh tế. Kéo theo là lao động trong nông nghiệp sẽ giảm và chuyển sang
ngành công nghiệp và dịch vụ. Thời kì này, chúng ta phải tăng cường củng cố
địa vị chủ đạo của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tiến tới xác lập địa vị
thống trị của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc
dân. Đảng ta đã lấy mục tiêu phát triển của đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa nên một làm cần thiết là chúng ta phải tuyên truyền rộng khắp tư
tưởng của chủ nghĩa xã hội làm cho nhân dân hiểu, tin tưởng vào chế độ mà
đảng đã lựa chọn, yên tâm tham gia sản xuất phát triển xã hội.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cuộc cải biến cách mạng từ xã hội
nông nghiệp trở thành xã hội công nghiệp, đó là cuộc cải biến trên mọi lĩnh
vực, làm được điều đó cần có nhiều điều kiện về kinh tế, văn hoá xã hội. Một

tiền đề quan trọng là việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả. Trong tình
hình hội nhập kinh tế thé giới sôi động ngày nay thì mỗi quốc gia đều phát
triển dựa trên hai nguồn vốn chính là vốn trong nước và vốn ngoài nước,
nhưng mỗi nước có quan điểm khác nhau trong việc coi trọng nguồn vốn
trong nước hay nước ngoài hơn. Quan điểm của nước ta là dựa vào vốn trong
nước là chính, vốn nước ngoài là quan trọng. Chúng ta phải tận dụng hết mọi
nguồn vốn trong nước để tạo ra sự phát triển bền vững, cân đối, nhưng nguồn
vốn nước ngoài là chất xúc tác quan trọng đưa nền kinh tế phát triển vượt bậc.
Việc tích luỹ nguồn vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân được thực hiện trên cơ
14
sở hiệu quả sản xuất, nguồn của nó là lao động thặng dư của người lao động
thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Con đường cơ bản để giải quyết vấn đề
tích luỹ vốn trong nước là tăng năng suất lao động xã hội trên cơ sở ứng dụng
tiến bộ khoa học và công nghệ, hợp lý hoá sản xuất, mặt khác chúng ta phải
khai thác và sử dụng tốt quỹ lao động. tập trung sức phát triển nông nghiệp,
công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, chỉ như thế chúng ta mới tận
dụng được hết các nguồn lực sẵn có, tận dụng được lợi thế tương đối của
nước ta. Chúng ta tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, tổ chức, quốc gia tham
gia vào đầu tư tại nước ta, giúp nguồn vốn đầu tư được bổ sung, đó là các
nguồn vốn như FDI, ODA, nguồn vốn vay của các tổ chức tài chính quốc tế
như: IMF, ADB, WB… Khi các nguồn vốn này được đưa vào trong nước thì
sẽ cải thiện rất nhiều cho tình hình kinh tế Việt Nam, như một luồng gió mới,
chất xúc tác không thể thiếu đưa nền kinh tế Việt Nam đi lên. Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước với mục đích là nâng cao nền sản xuất xã hội, mà
chỉ sử dụng các phương tiện công nghệ thì chưa đủ, một điều kiện không thể
thiếu là chúng ta phải sử dụng đội ngũ những người lao động có khả năng vận
hành điều khiển các loại máy móc công nghệ đó. Nguồn nhân lực có thể đáp
ứng nhu cầu đó của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá bao gồm những
con người có tài có đức, ham học hỏi, thích sáng tạo, làm việc quên mình vì
nền độc lập và sự phồn vinh của tổ quốc. Họ phải được trang bị tốt về tư

tưởng chỉ đạo của đảng, về kiến thức văn hoá, được đào tạo thành thạo về kỹ
năng nghề nghiệp, về năng lực sản xuất kinh doanh, về điều hành kinh tế vĩ
mô nền kinh tế và toàn xã hội, có trình độ khoa học kỹ thuật vươn lên ngang
tầm với thế giới. Đó là nguồn lực của nền văn hoá công nghiệp hiện đại. Từ
đó thấy rằng việc quan trọng hàng đầu là chúng ta phải ưu tiên cho phát triển
con người, phải đầu tư cho giáo dục coi đó là nhiệm vụ quốc sách hàng đầu
hướng chính của đầu tư phát triển, phải tạo cơ cấu nhân lực đồng bộ trong tất
cả các lĩnh vực: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, đào tạo cán bộ quản lý
15
kinh tế, cán bộ trong các ngành kỹ thuật, trong các ngành kinh doanh, đào tạo
các công nhân lành nghề có khả năng sử dụng công nghệ kỹ thuật cao. Tiềm
lực khoa học công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khoa
học công nghệ có vai trò ngày càng to lớn đến tăng trưởng nền kinh tế. Nếu
quá trình tích luỹ, mở rộng đầu tư theo quy mô sản xuất được coi là tái sản
xuất theo chiều rộng thì phát triển khoa học công nghệ được coi là quá trình
tái mở rộng sản xuất theo chiều sâu, khoa học công nghệ là biểu hiện của
trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Khoa học công nghệ có vai trò quyết
định tới lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nói riêng của các quốc gia. Tiềm lực khoa học công nghệ là
tiềm lực trí tuệ sáng tạo của mỗi quốc gia. Theo một nghiên cứu thấy rằng khả
năng cạnh tranh của nước ta trên thị trường thế giới như sau:
Nước
Xếp hạng
2002 2003 2004
Phần Lan 1 1 1
Mỹ 2 2 2
Đài Loan 6 5 4
Đan mạch 4 4 5
Singapore 7 6 7
Malaysia 30 29 31

Thái Lan 37 32 34
Inđônêxia 69 72 69
Trung Quốc 38 44 46
Phi-líp- pin 63 66 76
Việt Nam 62 60 77
Thấy rằng khả năng cạnh tranh của Việt Nam là thấp so với khu vực và
thế giới, trình độ phát triển khoa học kỹ thuật của nước ta chậm hơn so với
các nước trên thế giới, điều đó có nghĩa là mức độ đóng góp của khoa học
công nghệ vào tăng trưởng kinh tế còn hạn chế. Với tình hình đó thì việc thay
đổi khoa học công nghệ là một việc làm tất yếu của nước ta thì mới mong có
sự thay đổi trong nền kinh tế. Để thay đổi công nghệ trong sản xuất là một
16
điều không phải dễ đối với tất cả các nền kinh tế đặc biệt khi nước ta là một
nước nông nghiệp đi lên, nhưng khi chúng ta mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại thì điều đó trở nên dễ dàng hơn. Quan hệ kinh tế đối ngoại càng rộng
rãi và có hiệu quả bao nhiêu thì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước càng thuận lợi, nhanh chóng bấy nhiêu. Thực chất của việc mở rộng
quan hệ đối ngoại là việc thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, là tiếp thu nhiều kỹ
thuật và công nghệ hiện đại, học hỏi được kinh nghiệm điều hành, quản lý
hiện đại để áp dụng vào tình hình thực tế nước ta, đồng thời cũng dễ dàng cho
việc mở rộng thị trường, giúp cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá được tiến
hành nhanh hơn. Một trong những điều kiện không thể thiếu trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự lãnh đạo đảng và sự quản lý của nhà
nước. Khi có sự lãnh đạo của đảng thì chúng ta mới có thể đi đúng hướng
theo con đường đảng đã chọn lựa là phát triển đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, mà cao hơn cái mà chúng ta đang hướng tới là chủ nghia cộng
sản. Mặt khác khi có sự quản lý của nhà nước thì, công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá mới được thực hiện từng bước theo đứng quy luật và phù hợp với
tình hình trong nước và quốc tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới được diễn
ra đồng đều và rộng khắp trên các vùng miền của đất nước. Có thế thì người

dân mới tin tưởng vào chế độ, an tâm để lao động và làm việc, chỉ có sự quản
lý của nhà nước thì các dịch vụ công được đảm bảo, trật tự công bằng mới
được thực hiện.
Khi nội dung và tiền đề của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được vạch
ra thì phương hướng, quy mô, bước đi của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá phải được cân nhắc kỹ trên cơ sở thấu suốt các quan điểm của đảng và
nhà nước, trong văn kiện đại hội ban chấp hành trung ương 7 (khoá VII) đã
nêu rõ như sau:
- Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một
17
cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp
tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao động cao. Đối với nước ta, đó là một
quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhằm cải tiến một xã
hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp, gắn với việc hình
thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản
chất ưu việt của chế độ mới.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tạo ra những điều kiện cần thiết về
vật chất kỹ thuật, về con người và về khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực,
không ngừng tăng năng suất lao động xã hội, làm cho nền kinh tế tăng trưởng
nhanh và bền vững, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, thực
hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, xây dựng
một nền kinh tế mở cả trong và ngoài nước, đa phương hoá và đa dạng hoá
quan hệ đối ngoại; kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh, gắn tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi
trường.
- Kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập
khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả, phát huy lợi thế so

sánh của đất nước trong từng thời kỳ, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh
trên thị trường trong nước, thị trường khu vực và thị trường quốc tế.
- Lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương
hướng phát triển, lựa chọn các dự án đầu tư công nghệ.
- Khai thác nhanh thế mạnh của cả nước, của mỗi vùng, mỗi ngành, tập
trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, địa bàn trọng điểm sớm đưa lại
hiệu quả kinh tế cao. Đồng thời quan tâm những nhu cầu thiết yếu, có chính
sách, cơ chế giải pháp thiết thực đối với những khó khăn, đẩy mạnh hợp tác
18
phát triển, bảo vệ cho các vùng và các thành phần dân cư đều có lợi ích và
được hưởng thành quả của sự tăng trưởng.
- Chú trọng quy mô vừa và nhỏ, vốn đầu tư ít, thu hồi nhanh, theo
phương trâm lấy ngắn nuôi dài; xây dựng một số công trình có quy mô lớn và
hiệu quả.
- Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất và công nghệ
hiện có, tập trung vào những khâu quyết định khả năng cạnh tranh của sản
phẩm. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, bảo đảm tính
tiên tiến của thiết bị và công nghệ nhập khẩu, ưu tiên cho loại công nghệ tốn ít
vốn, tạo nhiều việc làm trực tiếp hoặc gián tiếp.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân. Đó là một
cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, đòi hỏi phải đầu tư rất nhiều trí tuệ, sức người sức của. Chỉ có huy động
sức mạnh và khả năng sáng tạo to lớn của toàn dân dưới sự lãnh đạo đúng đắn
của đảng, sự quản lý điều hành có hiệu quả của nhà nước thì mới đảm bảo
thằng lợi.
Kết quả bước đầu mà chúng ta đã đạt được sau ngày đổi mới rất
đáng mừng, chúng ta có sự phát triển về mọi mặt cả về kinh tế xã hội, văn
hoá, giáo dục, y tế. Đặc biệt về kinh tế chúng ta đang đạt được sự phát triển
không ngừng, với nhiều sự cố gắng Việt Nam đang tiến hành thay đổi thể chế
kinh tế sao cho phù hợp với các nước trên thế giới, để Việt Nam nhanh chóng

trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, một sân chơi đầy
thuận lợi và khó khăn. Biểu đồ sau thể hiện những thành tựu mà nước ta đạt
được về kinh tế:
19
Nguồn: Niên giám thống kê
Nhìn vào biểu đồ thấy rằng, giá trị sản phẩm quốc dân năm sau tăng
nhanh hơn năm trước tiêu biểu năm 2001 tăng 39647 tỷ đồng so với năm
2000, năm 2002 tăng 54467 tỷ đồng so với năm 2001, năm 2003 tăng 77771
tỷ đồng so với năm 2002, năm 2004 tăng 99538 tỷ đồng so với năm 2003.
Qua đó cũng thấy rằng cơ cấu sản phẩm quốc dân có nhiều thay đổi: tỷ trọng
công nghiệp chiếm ngày càng cao, thay thế cho việc giảm tỷ trọng của ngành
nông nghiệp, tỷ trọng ngành dịch vụ chiếm một vị trí lớn trong cơ cấu ngành.
Năm 1999 công nghiệp chiếm 34.5%, nông nghiệp chiếm 25.4%, dịch vụ
40.1% giá trị sảm phẩm quốc dân. Năm 2002 công nghiệp là 38.5%, nông
nghiệp 23%, dịch vụ 38.5%. Năm 2004 công nghiệp 40.1%, nông nghiệp
21.8%, dịch vụ 38.1% trong giá trị sản phẩm quốc dân. Kết quả phát triển
khả quan này cho thấy trong những năm vừa qua nước ta đã xác định đúng
mục tiêu và nhiệm vụ của mình, chúng ta đã đi đúng hướng trong phát triển
kinh tế, con đường phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá
20
đất nước là hoàn toàn phù hợpnhưng cũng phải khẳng định rằng Việt Nam
phải cố gắng nhiều hơn nữa thì mới có thể đạt được mục tiêu tới năm 2020
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp.
21
3. KẾT LUẬN.
Việc nghiên cứu các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đã giúp cho
chúng ta thấy rằng: Mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tạo ra tiềm lực
to lớn, đủ khả năng xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của toàn
dân, và thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, bảo vệ
vững chắc nền độc lập của tổ quốc. Đó là quá trình phấn đấu lâu dài, gian

khổ, đòi hỏi mọi người phải có hoài bão lớn, quyết tâm cao, chấp nhận những
khó khăn thử tháchvà hy sinh cần thiết để vĩnh viễn đưa dân tộc ta thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu. Đó là điều mà toàn thể nhân dân Việt Nam mong đợi và
đang cố gắng. Với vị trí là người làm chủ tương lai của đất nước tôi thấy rằng
chúng ta cần cố gắng hết khả năng của mình để xây dựng đất nước ngày càng
giàu đẹp hơn, có thể “sánh vai cúng với cường quốc năm châu” như Bác Hồ
đã từng nói.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
22
1. GS, PTS Trần Ngọc Hiên: Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin, NXB
chính trị quốc gia, Hà Nội 2002.
2. GS, TS Chu Văn Cấp: Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin về phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, NXB chính trị quóc gia, Hà Nội 2001.
3. Khoa khoa học quản lý: Giáo trình quản lý học kinh tế quốc dân, NXB
khoa học và kỹ thuật, Hà Nội 2001.
4. Khoa kinh tế quốc tế: Giáo trình kinh tế quốc tế
5. TS Nguyễn Mạnh Hùng: Kinh tế - xã hội việt nam hướng tới chất lượng,
tăng trưởng hội nhập, phát triển bền vững. Năm 2004.
6. Đỗ Hoài Nam và Vừ Đại Lược: Một số vấn đề phỏt triển của kinh tế việt
nam hiện nay, NXB thế giới năm 2005.
7. Niên giám thống kê năm 2004.
8 Khoa kinh tế đầu tư: Giáo trình kinh tế đầu tư, NXB giáo dục, năm 1998.
9. Khoa Mác - Lênin: Giáo trình các lịch sử học thuyết kinh tế, NXB thống
kê, năm 2003.
23

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×