Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Những bài học từ người mẹ HÃY LÀ NGƯỜI CON NGOAN potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.01 KB, 4 trang )






Những bài học từ người mẹ
Dịch giả: Thế Anh
HÃY LÀ NGƯỜI CON NGOAN



Ngày 18, tháng Tám, 1920, Tennessee trở thành bang thứ 36 phê chuẩn Luật sửa
đổi thứ 19, dù hai phần ba số bang của Hoa Kỳ đã cho phụ nữ quyền bầu cử. Một
nhà làm luật trẻ ở thị trấn nhỏ Niota bang Tennessee kể câu chuyện về lá phiếu
quan trọng giúp Luật sửa đổi được thông qua. Câu chuyện về người mẹ đã làm
nên lịch sử.

Henry Thomas Burn, chỉ mới 23 tuổi, là thành viên trẻ nhất của Quốc hội
Tennessee. Ông thuộc phe những người chống quyền bầu cử. Trước khi đem luật
ra bỏ phiếu, Quốc hội đã bỏ phiếu kín để tìm ra một giải pháp. Giống như những
luật tạm thời khác, ông tham khảo ý kiến của người đứng đầu phe chống là Alice
Wadsworth. Ông này cho rằng để phụ nữ bầu cử sẽ làm mềm yếu chính sách quốc
gia.
Số phiếu thuận và phiếu chống ngang nhau khiến vấn đề không được giải quyết.
Những người thuộc phe chống quyết định đem Luật sửa đổi ra bỏ phiếu trước
Quốc hội. Họ suy tính nếu số phiếu ngang nhau một lần nữa, luật sẽ không được
thông qua.
Không giống những thành viên khác thuộc phe bỏ phiếu chống, ông Burn nhận
được một lá thư của mẹ là bà Febb Ensminger Burn. Trong thư bà Burn viết cho
con trai: “Hãy nhanh chóng bỏ phiếu ủng hộ. Đừng quên làm một người con
ngoan.”


Khi cuộc bỏ phiếu bắt đầu, ông Burn đã làm mọi người trong phòng ngạc nhiên vì
thay đổi chỗ ngồi và bỏ phiếu ủng hộ quyền bầu cử của phụ nữ. Sau đó, ông giải
thích hành động của mình bằng bài diễn văn trước Quốc hội. Nội dung chính của
đoạn văn là: “Tôi cho rằng lời khuyên của mẹ là tốt nhất cho con trai bà. Mẹ tôi
muốn bỏ phiếu chấp thuận.”
Ngày 24, tháng Tám, 1920, Thống đốc bang Tennessee Albert H.Roberts ký vào
Luật sửa đổi, cho phép phụ nữ toàn quốc quyền bầu cử.


ÁNH ĐÈN QUANH ĐÂY

Bạn nên bỏ thời gian thắp nến, đừng phí công nguyền rủa bóng đêm.
Christopher Society


Tôi nhớ rõ những ngày ở văn phòng bác sĩ và biến cố đã dẫn chúng tôi đến ngày
hôm nay. Mẹ tôi 70 tuổi, bà vẫn khỏe nhưng thị lực đã giảm đáng kể. Nhiều tháng
sau, bác sĩ chẩn đoán con ngươi của bà bị thoái hóa. Thế giới của mẹ đang mờ
dần.
Chúng tôi mong mỏi tin tốt lành mỗi khi khám bác sĩ, hy vọng những gì ông thấy
qua lăng kính sẽ trái với điều phỏng đoán trước đây. Tôi ngồi yên trong phòng
khám cầu xin một phép lạ trong khi bác sĩ khám mắt cho mẹ. Một thời gian sau,
chúng tôi còn nhận thêm nhiều tin xấu. Võng mạc bị bong ra, thị lực càng kém dần
và tôi không thể làm gì giúp mẹ.
Tôi dẫn mẹ ra khỏi văn phòng. Mỗi lần như vậy, bà đều vui vẻ chào tạm biệt bác sĩ
và các nhân viên. Bà vẫn giữ được vẻ điềm tĩnh nói lời cám ơn với những người
đã lo lắng chăm sóc bà. Dĩ nhiên, ai cũng tốt với mẹ và họ biết bà là người có sức
chịu đựng kỳ lạ.
Chúng tôi thường ra về với dáng vẻ khúm núm, buồn và sợ nói ra những suy nghĩ
của mình. Tôi cố tỏ ra lạc quan vì chưa bao giờ bác sĩ nói bà sẽ bị mù. Ông hy

vọng bà sớm lấy lại thị lực. Vì vậy tôi chở bà về nhà, dẫn dắt từng bước và cố
không để mẹ biết những giọt nước mắt căng thẳng đang làm mờ mắt mình.
Bây giờ, mẹ tôi 85 tuổi và đã mù 5 năm nay. Tôi biết bà đã cố gắng vượt qua nỗi
đau và sự thất vọng khi màn đêm trong mắt ngày càng rõ hơn. Điều đặc biệt là khi
không còn đi khám bác sĩ, mẹ tôi biết chắc chắn mình sẽ mù nhưng vẫn nhắc lại
lời bác sĩ nói nhiều tháng trước.
“Con nhớ không, ông ấy nói mẹ đã được thấy mặt 12 đứa con. Mẹ được nhìn
chúng lớn lên, kết hôn và sinh con. Ông ấy nói: Bà hãy nghĩ đến sự may mắn đó,
có rất nhiều người bị mù từ lúc mới sinh hay mất thị lực từ khi còn rất trẻ.” Ông
nói họ còn khổ hơn bà nhiều khi thấy mẹ khóc và không còn hy vọng gì nữa.
Từ ngày bác sĩ nói vậy, bà hay nhắc điều đó với những người hay hỏi thăm về đôi
mắt. Đó là cách thể hiện sự cảm thông khi họ cố an ủi mẹ. Tôi ngạc nhiên vì bà bắt
đầu tin vào những lời đó. Thái độ ấy chuyển dần từ thất vọng sang chấp nhận một
cách thầm lặng. Nó thật sự gây xúc động.
Ngày nay, bất kỳ ai gặp bà tỏ sự thông cảm, bà liền nói: “Than vãn có ích gì đâu?
Còn nhiều người khổ hơn mà.” Tôi để ý phản ứng của bà ngày càng quả quyết.
Ban đầu còn hơi lưỡng lự vì cảm thấy tiếc cho mình, sau như có một nỗ lực khủng
khiếp khiến bà trả lời được câu hỏi: “Vì sao lại là mình?”
Mỗi khi nghĩ đến bóng tối bà phải chịu đựng, tôi tự hỏi làm sao có thể tìm được
niềm vui và mục đích sống trong thế giới đó. Mẹ có bạn bè, bút sách, băng đĩa, các
chương trình tivi để “xem”. Mẹ có thể nhớ lại hình ảnh của Angela Lansbury trong
“Murder She Wrote” hay tưởng tượng ra hình ảnh khi giọng nói của họ. Bà dành
tình yêu cho 10 đứa con và nhiều đứa cháu hằng ngày vẫn nô đùa trong nhà, nhớ
những ngày sinh nhật, lễ kỷ niệm và thời gian các cú điện thoại từ New York về
California.
Mẹ là người có lòng dũng cảm và tâm hồn mạnh mẽ. Tôi biết ơn vì những gì đã
được học ở mẹ. Hơn hết, tôi cảm ơn mẹ đã dạy tôi biết quý trọng những gì Chúa
ban tặng. Tôi không biết bà có tin mình may mắn hơn nhiều người khác hay không
nhưng những hành động đó đã chứng tỏ niềm tin đó. Có lẽ đây mới thực sự là điều
có nghĩa. Bà thật sự chấp nhận nỗi mất mát một cách yên ổn.

Mỗi tối khi tôi gọi điện báo chương trình tivi, bà không thể xem nhưng thực sự
“nghe” được, mẹ nói: “Mẹ yêu con, Diane.” Tôi nói: “Con cũng yêu mẹ”. Chỉ thế
thôi cũng đủ nói lên tất cả.



×