Tải bản đầy đủ (.pdf) (172 trang)

Cây công nghiệp dài ngày

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 172 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
DỰ ÁN HỢP TÁC VIỆT NAM – HÀ LAN





BÀI GIẢNG
CÂY CÔNG NGHIỆP DÀI NGÀY













Người biên soạn: ThS. Đinh Xuân Đức















Huế, 08/2009



1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
DỰ ÁN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM - HÀ LAN
***************



BÀI GIẢNG

CÂY CÔNG NGHIỆP DÀI NGÀY









NGƯỜI BIÊN SOẠN: Ths. Đinh Xuân Đức




Huế, 2008


2
Bài 1: NGUỒN GỐC, PHÂN LOẠI,GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA CÁC CÂY
CÔNG NGHIỆP DÀI NGÀY CAO SU, CÀ PHÊ, CHÈ.
I. NGUỒN GỐC, PHÂN LOẠI, GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA CÂY CAO SU
(Hevea brasiliensis. L).
1. Nguồn gốc
Cây cao su có nguồn gốc từ Nam Mỹ, mọc trên một địa bàn rộng 5 đến 6 triệu
km
2
, thuộc toàn bộ lưu vực sông Amazon và vùng kế cận, giữa hai vĩ tuyến 13
0
B-13
0
N
(Nguyễn Khoa Chi, 1985). Theo Nguyễn Thị Huệ (1997), phạm vi phân bố của cao su
hoang dại chỉ trong khoảng vĩ độ 5
0
Bắc và Nam. Nó được nhận ra bởi thổ dân vùng
Amazôn từ lâu. Tuy nhiên, cho đến cuối thế kỷ XV những người Châu Âu đầu tiên đến
đây mới biết chúng, Christophe Colombo phát hiện vào giai đoạn 1493-1496. Mãi đến
thế kỷ XVII mới có những công trình nghiên cứu thêm về cây cao su, do La
Condamine và Fresneau thực hiện. Sau đó nhờ có phát hiện thêm của Goodyear vào
năm 1999 về việc lưu hóa mủ cao su. Từ đó, cao su nhanh chóng trở thành hàng hóa.
Bắt đầu, mủ cao su chỉ được khai thác từ cây cao su rừng ở Brazil. Trong suốt

cuối thế kỷ XIX Brazil luôn giữ thế độc quyền về sản phẩm của cây này. Tuy nhiên,
vào năm 1875 Collins, (người Anh) lần đầu tiên lấy trộm được 2.000 hạt, đem gieo
mọc được 12 cây và trồng ở Calcutta - Ấn Độ. Nhưng đã bị chết hết. Sau đó một năm
(14/06/1876) Henry Wickham(người Anh), cũng lấy trộm được hơn 70.000 hạt đem
gieo tại vườn bách thảo Kew, London mọc được 24 cây. Số cây này được đem trồng tại
Colombo - Srilanka. Từ nguồn này cao su phát triển lan rộng khắp vùng Đông Nam Á,
Châu Phi và trở lại Châu Mỹ. Trong đó vùng Đông Nam Á có diện tích trồng lớn nhất.
Mủ cao su trồng được thu hoạch lần đầu tiên từ 24 cây của Wickham vào năm
1884 tại Colombo - Srilanka. Nó là khởi đầu cho việc phá bỏ thế độc quyền của Brazil.
Những năm cuối thế kỷ XX, nhờ có sự hổ trợ của hiệp hội cao su thế giới (IRRDB) có
hơn 15.800 cây đầu dòng đã được thu thập từ khắp lưu vực sông Amazon (1974-1982)
đã làm phong phú thêm nguồn gen để bổ sung vào nguồn Wickham hiện có, nhờ đó mà
khả năng các giống được tạo ra sau này sẽ có nhiều ưu thế về năng suất và nhiều đặc
tính ưu việt khác.
2. Phân loại thực vật
Hevea brariliensis.L thuộc bộ ba mảnh vỏ, họ thầu dầu (Euphorbiaceae), loài
Hevea, với số nhiễm sắc thể lưỡng bội 2n=26,loại cây thân gỗ có tuổi thọ hơn 100 năm.
Trong họ thầu dầu có đến 10 loài cây cho mủ cao su, dưới đây là mô tả sơ lược
môt số loài Hevea khác Hevea brasiliensis (Nguyễn Thị Huệ, 1997).
+ H. benthamiana Cây cao trên 27m, gốc cây phình to, lá chét có lông tơ màu
nâu đỏ ở mặt dưới lá, khi ổn định lá nằm ngang hơi chúc xuống. Cây bắt đầu trổ hoa
khi lá rụng. Cây thường mọc ở vùng đất phù sa, ngập nước định kỳ vào mùa mưa ở dọc


3
bờ sông Amazon. Năng suất mủ cao su kém, chất lượng mủ tốt, có thể kháng được
bệnh SALB.
+ H. Camagoana: Cây nhỏ, cao từ 2-12m, mọc cạnh Cơ dòng chảy và vùng đầm
lầy. Hoa lưỡng tính, phần cuối hoa có màu hồng hoặc màu đỏ. Cây cho năng suất kém,
mủ trắng.

+ H. Camporum:Cây thấp chiều cao dưới 2m, chỉ tìm thấy ở vùng đầu nguồn,
vùng sa mạc, mủ trắng.
+ H. Guianensis: Loài này có vùng phân bố rộng nhất, cây cao 20-35m, thân hình
trụ, thường chỉ phân cành ở chiều cao 1/2 thân trở lên, tán lá rậm rạp, lá dựng đứng, lá
vẫn còn tồn tại khi cây nở hoa. Năng suất mủ kém, mủ màu hơi vàng, chất lượng mủ
thấp. Cây sinh trưởng tại Cơ vùng đất cao (đến 1.100m) và trên đất thoát nước tốt.
+ H. microphylla : Cây cao 18-20m, thân mảnh khảnh, gốc cây hơi to, phình ra,
vỏ cây màu đỏ nhạt, tán lá thưa thớt, lá rụng trước khi cây trổ hoa. Hoa cái to, hình
chuông.
+ H. nitida : Cây nhỏ đến trung bình, thân hình trụ, vỏ cây màu đỏ sậm. Lá chúc
xuống có màu xanh sáng, lá còn tồn tại khi cây trổ hoa, trái có màu đỏ nhạt. Mủ màu
trắng đậm đặc, chứa nhiều chất nhựa (resin), ít cao su. Cây thường mọc trên đất rừng,
thoát nước tốt, có thể phát triển tốt trên đất nghèo dinh dưỡng.
+ H. pauciflora : Cây lớn cao trên 25m, thân hình trụ, vỏ màu nâu đậm, lá vẫn
còn tồn tại khi cây trổ hoa. Mủ có màu trắng, chứa nhiều chất nhựa, ít cao su. Cây
thường mọc trên đất thoát nước tốt.
+ H. rigidifolia : Cây cao trung bình 12-18m, thân hơi nghiêng, vỏ màu xám
hung đỏ, lá dày mọc chúc xuống, lá vẫn còn tồn tại khi cây trỗ hoa. Mủ trắng, nhiều
chất nhựa, không chứa đủ cao su theo chất lượng thương mại đòi hỏi. Cây thường mọc
trên đất thoát nước tốt.
+ H. Sprucean:a Cây cao đến trên 25m, gốc cây hơi phình to ra, tán lá nặng, lá
mọc hơi chúc xuống, mặt dưới lá có lông tơ, lá vẫn còn tồn tại khi cây trỗ hoa. Mủ
trắng, ít cao su. Cây mọc trên đất thấp, ngập nước định kỳ ở dọc bờ sông.
Ngoài Hevea brasiliensis và 9 loài khác thuộc còn có trên 2.000 loài ở các họ
khác có thể cho mủ cao su và phần lớn sống trong vùng nhiệt đới. Trong số đó có thể
kể đến cây Parthenium argentatum (hay còn gọi là cây Guayule) thuộc họ Compositae,
mọc hoang dại ở Mehico. Sau chiến tranh thế giới II nó được trồng nhiều ở Liên Xô cũ,
Tây Ban Nha, Thổ Nhỉ Kỳ và Úc. Kế đó là Taraxachum korsaghyz, cũng thuộc họ cúc
(Compositae), được trồng nhiều ở Liên Xô cũ, Thụy Điển và Mỹ. Cuối cùng là một số
cây dây leo thuộc giống Landophia mọc ở châu Phi, Á và Madagasca. Loài Landophia

sp mọc ở châu Phi có nhiều triển vọng hơn cả. Nhưng cho đến nay chưa có một loài
nào có thể cạnh tranh được với cây Hevea brasiliensis


4
3. Công dụng, giá trị kinh tế - tình hình phát triển cao su
3.1. Công dụng và giá trị: Cây cao su từ khi trở thành hàng hóa công dụng của nó
ngày càng được mở rộng. Hiện nay mủ cao su trở thành 1 trong 4 nguyên liệu chính
của ngành công nghiệp thế giới. Nó đứng sau gang thép, than đá và dầu mỏ. Sản phẩm
cần dùng đến cao su có thể kể đến các loại sau: Cao su vỏ ruột xe chiếm 70% sản
lượng cao su thế giới, kế đó là cao su dùng để làm các ống, băng chuyền, đệm giảm
xóc, vật liệu chống mài mòn, các trang thiết bị hàng không, dụng cụ gia đình và dụng
cụ thể thao. Liệt kê có đến trên 50.000 công dụng của cao su (Nguyễn Khoa Chi,
1985).
Ngoài giá trị của mủ cao su, cây cao su còn có thể cung cấp một lượng gỗ lớn.
Trong điều kiện canh tác nông nghiệp với mật độ cây trồng 400cây/ha, sau 14 năm
trồng cây cao su có thể cho từ 0,30-0,55 m
3
gỗ/cây tuỳ theo giống (Mai Văn Sơn,
2001). Khối lượng củi có thể thu khoảng 30-40% khối lượng gỗ (Nguyễn Thị Huệ,
1997). Giá gỗ cao su có thể giao động từ 600-900 USD/m
3
.
Hàng năm, sau năm thứ 7 cây cao su có thể cung cấp khoảng 200-300 kg hạt/ha
với hàm lượng dầu khoảng 10-20% trọng lượng hạt và lượng protein đáng kể trong hạt.
Dầu cao su cũng có thể được sử dụng trong công nghệ sơn, vecni, xà phòng, làm chất
độn pha thuốc kích thích mủ cao su, hoặc nếu được xử lý thích hợp có thể dùng làm
dầu thực phẩm. Cuối cùng việc trồng cao su có thể đem lại những lợi ích về môi
trường, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chống xói mòn đất, ổn định xã hội thông qua
việc tạo ra nhiều công ăn việc làm và là môi trường tốt để chăn nuôi ong.

Về giá trị thương mại của mủ cao su thiên nhiên là loại nguyên liệu độc quyền
trong thời gian đầu của thế kỷ này. Tuy nhiên, sau chiến tranh thế giới II do có sự xuất
hiện của cao su nhân tạo là sản phẩm của dầu mỏ, cao su thiên nhiên đã bị cạnh tranh
gay gắt trong nhiều thập kỷ. Cho đến nay tỉ lệ sản xuất hai loại cao su đã giữ ở mức ổn
định là 32/68 (NR/SR) (Nguyễn Khoa Chi, 1985). Giá mủ NR (natural rubber) thường
giao động và ở mức thấp nhất là 226 USD cho 1 tấn mủ khô tại thị trường New York
năm 1930 và cao nhất là 3.079 USD/tấn tại thị trường Singapor năm 1980. Từ 1980
đến 1995 giá cao su bình quân cho từng loại sản phẩm cao su là: 998$ cho RSS1;
957,3$ cho RSS3; 1103,8$ cho SMRL và 934,7$ cho SMR20. Sự biến động giá mủ
cao su không chỉ xảy ra giữa Cơ loại mủ được chế biến khác nhau mà trong từng loại
cũng có sự biến động lớn theo thời gian, ví dụ giá cao su RSS1 năm 1985 là 745,5$ và
tăng lên 1.563,9$ vào năm 1995; RSS3 giá là 710,6$ vào năm 1985 và tăng lên
1.574,4$ năm 1995; cho SMRL và SMR20 là 807,9$ và 685,8$ vào năm 1985 và
1750,9$ và 1521,7$ vào năm 1995, một cách tương ứng. Trong cùng một năm giá cao
su cũng giao động giữa các thị trường khác nhau, ví dụ: Năm 1980 tại thị trường
Singapor giá là 3.079$ trong khi tại thị trường New York giá chỉ có 1.625$ cho một tấn
mủ khô (Nguyễn Thị Huệ, 1997). Tuy nhiên, giá cao su thường không cho những biến


5
động quá lớn trong một khoảng thời gian ngắn (10 năm) như giá của một số sản phẩm
cây công nghiệp khác như hạt tiêu và cà phê. Có lẻ nó là nguyên liệu chính cho công
nghiệp nên ngày càng phát triển và khá ổn định. Nhìn chung giá cao su không cao nếu
so với cà phê hay tiêu khi được so sánh trên cùng một khối lượng sản phẩm.
3.2.Tình hình phát triển: Trên thế giới, vào đầu thế kỷ XX Brazil đã bị mất thế độc
quyền xuất khẩu cao su. Ba nước Anh, Pháp và Hà Lan là những nước trồng cao su
đứng đầu trong giai đoạn đó. Tuy nhiên, cao su chỉ được trồng trên các thuộc địa của
các nước này, chủ yếu thuộc vùng Đông Nam Á. Càng về sau sản lượng cao su xuất
khẩu tại khu vực này càng lớn. Đến nay đã có đến hơn 90% cao su xuất khẩu từ vùng
này. Các nước sản xuất cao su hàng đầu thế giới là Malaysia (1.539 nghìn tấn),

Indonexia(1.034 nghìn tấn), Thailand (782 nghìn tấn), nguồn: IRSG statistical Bul,
Apr.1986.
Trong giai đoạn từ 1985 đến 1995 sản lượng mủ cao su thế giới tăng đều đặn từ
4,335 triệu tấn năm 1985 lên đến 5,870 triệu tấn 1995. Giữa các nước sản xuất cao su
hàng đầu cũng có sự biến động về ngôi thứ. Trong giai đoạn từ 1985 đến 1995
Malaysia giảm liên tục từ 1,469 triệu tấn xuống còn 1,089 triệu tấn, trong khi
Indonexia có sản lượng gia tăng đều đặn từ 1,130 triệu tấn năm 1985 lên 1,456 triệu tấn
năm 1995, Thái Lan cũng có sự gia tăng từ 0,725 triệu tấn lên 1,784 triệu tấn trong
những năm tương ứng. Hai nước Ấn Độ và Trung Quốc có sản lượng tăng gấp 2 đến 3
lần so với 1985 và được xếp ở vị trí thứ 4 và 5 trong bảng xếp hạng. Tổng diện tích cao
su thế giới trong năm 1995 là 9,759 triệu ha. Sự gia tăng sản lượng cao su xuất phát từ
sự gia tăng về diện tích và quan trọng hơn là sự gia tăng về năng suất mủ trên 1 ha nhờ
vào những cải tiến kỹ thuật đáng kể trong thời gian gần đây.
Tuy là khu vực sản xuất cao su lớn nhất thế giới, mức tiêu thụ cao su ở đây vẫn
kém rất xa so với châu Âu, châu Mỹ, Trung Quốc và cộng đồng SNG. Hầu hết các
nước tiêu thụ mạnh đều là những nước công nghiệp phát triển.
Về năng suất, cao su ở các nước biến động theo từng thời kỳ và phụ thuộc nhiều
vào việc ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất. Những thay đổi dẫn đến sự cải thiện
năng suất tại những khu vưc như thế là do sự cải thiện về giống và công nghệ khai
thác. Trong những năm đầu thế kỷ XX năng suất cao su khô trên 1 ha thường là 300-
400kg. Đến nay năng suất bình quân 1.200 kg/ha/năm. Tuy nhiên, trong nhiều khu vực
năng suất cao su có thể đạt đến 2.000kg/ha/năm.
Trong nước, cây cao su đã phát triển với lịch sử hơn 100 năm, chỉ chậm hơn thế
giới 20 năm. Cây cao su đầu tiên được đưa vào Việt Nam vào năm 1877 do Pierre
trồng tại vườn bách thảo Sài Gòn nhưng bị chết. Mãi đến 1897 Raoul lấy hạt giống từ
Java về gieo tại vườn ông Yệm tại Thủ Dầu Một và chuyển cây con cho Bác sỹ Yersin
để thành lập đồn điền đầu tiên tại Suối Dầu - Nha Trang. Sau đó, Bác sỹ Yersin đã
nhiều lần nhập hạt giống từ Colombo để lập vườn. Từ đó cao su đã được thực dân Pháp



6
Bảng 1.1: Tình hình sản xuất và tiêu thụ cao su thiên nhiên trên thế giới
Năm 2002 2003 2004 2005 2006
Sản xuất (1000tấn) 7.260 8.003 8.708 8.882 9.255
Tiêu thụ (1000tấn) 7.410 8.033 8.581 8.994 8.968
Nguồn : IRSG 2007
trồng trên nhiều đồn điền tại Đông Nam Bộ và Quãng Trị. Một thời gian bị gián đoạn
do chiến tranh, diện tích cao su bi hư hỏng nhiều hơn là diện tích trồng. Đến sau năm
1975 chúng ta chỉ tiếp quản chừng 87.000ha diện tích cao su nhưng gồm chủ yếu là cao
su già gần hết chu kỳ kinh doanh. Cho đến nay tổng diện tích cao su đã lên đến gần
400.000ha và có mặt trong ba vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và duyên hải miền
Bảng 1.2: Diện tích cao su Việt nam qua Cơ thời kỳ
Năm Diện tích (ha) Năm Diện tích (ha)
1920 7.000 1975 60.000
1930 9.100 1985 135.000
1945 138.000 1995 275.000
1961 142.770 2005 478.600
(Nguồn: Mai Văn Sơn 2005)
Bảng 1. 3: Kế hoạch trồng cao su đến 2010 ( ha)
Thành phần
kinh tế
Cả nước Đông Nam bộ
Tây Nguyên
Duyên hải miền
Trung
Qu ốc doanh 300.000 185.000 100.000 15.000
Li ên doanh 50.000 15.000 35.000 -
Tư nh ân 350.000 73.000 215.000 62.000
Cộng 700.000 273.000 350.000 77.000
(Nguồn: Mai Văn Sơn 2005)

Trung (Mai Văn Sơn, 2001), với năng suất bình quân trên 1.200kg/ha/năm.
Hiện nay với khuynh hướng mở rộng diện tích trồng cao su trên hầu khắp các tỉnh
miền Trung, nhiều Công ty cao su mới tại các tỉnh từ Tuy Hoà đến Nghệ An đã được


7
thành lập. Bên cạnh đó, cao su tiểu điền với công nghệ sơ chế mủ đơn giản và hoàn
thiện đã và đang được khuyến khích phát triển tại nước ta. Lợi ích của sự đẩy mạnh
phát triển này nhằm tận dụng nguồn tiềm năng đất đai sẵn có, nhân lực dồi dào và sự
ổn định dân cư trong các vùng đồi, núi. Chủ trương của chính phủ diện tích cao su của
nước ta có thể nâng lên đến 700.000 ha trong đó những vùng chủ yếu để mở rộng diện
tích là Tây Nguyên và duyên hải miền Trung Việt Nam.
II. NGUỒN GỐC, PHÂN LOẠI, GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA CÂY CÀ PHÊ
( Coffea. L).
1. Nguồn gốc, sự phân bố
Khi nghiên cứu hệ thực vật hoang dại các nhà khoa học đã khẳng định cây cà
phê được phát hiện cách đây hàng nghìn năm, chúng thường mọc dưới tán nhiều khu
rừng thưa thuộc châu Phi. Tới năm 575 sau Công Nguyên mới được đưa về trồng thuần
hoá, đến ngày nay hiện có 3 loài cà phê thương mại và được di thực nhập nội tới nhiều
nước trên thế giới.
* Loài Coffea arabica (cà phê chè)
Có nguồn gốc từ Ethiopya và hai vùng phụ cận là cao nguyên Buma thuộc
Sudan và phía Bắc Kenya. Các vùng này có độ cao từ 1.200-2.000m và nằm giữa 7
0
–9
0

vĩ Bắc. Theo Beuthaud và Charieu 1985 cà phê chè từ Ethiopya được đưa tới Yemen
sang Java năm 1690, đến Amsterdam (Hà Lan) năm 1706; sang Trung Mỹ, sang
Colombia năm 1724. Từ Yemen sang Brazin (Nam Mỹ) năm 1715 và từ Java sang

PaPua New Ghine năm 1700.
* Loài Coffea canephora Pierre (cà phê vối) và loài Coffea liberica Bull (cà
phê mít, dâu da).
Có nguồn gốc từ một số nước thuộc Tây và Trung Phi. Cà phê vối từ Tây Phi và
Madagatxca đưa sang Nam Mỹ và Amsterdam năm 1889. Sau đó từ Amsterdam đưa
sang Java năm 1900 sau đó lại từ Java đưa trở về châu Phi năm 1912.
Do giá trị kinh tế cao, là thức uống thơm ngon hợp khẩu vị của nhiều dân tộc
trên thế giới nên cà phê đã được trồng trên 75 nước thuộc vùng nhiệt đới.
* Cây cà phê ở Việt Nam
Hiện nay cây cà phê là cây trồng nông nghiệp đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn
thứ hai sau cây lúa. Cây cà phê sau khi du nhập đã phát triển bền vững ở Việt Nam đến
nay đã 151 năm (từ 1857). Năm 1870 tại tu viện Kẻ Sở (Kim Bảng, Hà Nam) bắt đầu
trồng thử. Năm 1888 sau 30 năm nhập nội và trồng thử cây cà phê đã được trồng trên
quy mô sản xuất do nhiều người Pháp lập đồn điền như: Borel Leconte ở Chi Nê tỉnh
Hoà Bình, Condoux-Gombert ở tỉnh Nghệ An, Michel Philip ở tỉnh Quảng Trị, Rossi-
Delfante ở tỉnh Đắk Lắk.


8
Những năm sau đó cà phê được trồng ở Trung du Bắc Bộ như: Cổ Nghĩa, Đồng
Lăng, Cốc Thôn tỉnh Hà Nam. Ba Vì, Phú Mãn, Hoà Mục tỉnh Hà Tây, Phú Hộ tỉnh
Phú Thọ. Đến năm 1920-1925 sau khi phát hiện ra vùng đất Bazan ở Tây Nguyên,
người Pháp đã bắt đầu trồng cà phê trên vùng đất này. Sau nhiều năm cây cà phê đã
phát triển nhanh ở hầu hết các vùng trước đây đã trồng và mở rộng ra nhiều tỉnh khác
với quy mô ngày một tăng.
2. Sơ lược phân loại
Việc phân loại cây cà phê đến nay vẫn theo cách phân loại của Linne (1937).
Theo Linne cây cà phê thuộc loài cà phê coffea.L họ cà phê Rubiacea, bộ cà phê
Rubiales. Năm 1947 theo giáo sư Auguste Chevarier trong tự nhiên có tới 70 loài phụ
trong Coffea, trong đó có rất ít loài có giá trị kinh tế và ông chia thành 4 nhóm:

Nhóm Eucoffea K.Schum, Argocoffea Piere, Mascarocoffea và Paracoffea Miq.
Ba nhóm đầu có nguồn gốc duy nhất ở châu Phi.
Nhóm Paracoffea có hai loài mọc hoang ở Việt Nam là Coffea dongnaiensis
P.ex.Pit và Coffea Cochinchinensis P.ex.Pit. Nhóm này được xác định có nguồn gốc tại
các nước Đông Dương và Ấn Độ.
Nhóm Eucoffea K.Schum chỉ có một số loài có Cafein chúng có tầm quan trọng
về kinh tế và được trồng trọt. Nhóm Eucoffea K.Schum được chia thành 5 nhóm phụ
dựa trên một số chỉ tiêu như cây cao to (Nanocoffea), lá dày (Pachycoffea). Màu sắc
của quả (Erytrocoffea). Phân bố theo điều kiện địa lý (Mozambicoffea) gồm các loài
tương ứng ở bảng 1.4.
Như vậy: Các giống cà phê đang được trồng và có giá trị kinh tế lớn thuộc hai
nhóm phụ (1) và (2).
Số nhiễm sắc thể cơ bản của chi Coffea là n =11, đặc trưng cho tất cả các chi khác
thuộc họ Rubiaceae (Suybenga, 1960). Hầu hết các loài thuộc chi Coffea là những loài
nhị bội (2n=22) và đều là những cây hoàn toàn không có khả năng tự thụ phấn. Riêng
chỉ có loài cà phê chè (Coffea arabica) là loài tứ bội (2n=44) và có khả năng tự hợp và
là cây tự thụ phấn.
Các nghiên cứu của Dennarly (1975), Chevalier (1978), Lorearn (1982) đều cho
thấy tất cả các loài nhị bội của chi Coffea đều có cấu trúc nhiễm sắc thể giống nhau và
xuất phát từ một nguồn gen chung. Nhưng trong quá trình tiến hoá theo những hướng
khác nhau về địa lý, môi trường sống v.v. nên dần có sự biệt hoá để hình thành các loài
khác, chúng thể hiện khả năng thích nghi của mỗi loài, như C. canephora và C.
liberica thích hợp ở những vùng thấp, nóng ẩm và có lượng mưa nhiều. Loài C.
arabica tại các vùng nguyên sản sống dưới những tán rừng, quanh năm có ẩm độ
không khí cao và trên độ cao từ 1.200-1.800m. Tuy có sự biệt hoá nhưng giữa chúng
vẫn có khả năng lai tạo khác loài, trong tự nhiên khả năng tạp giao giữa chúng ít xảy ra


9
vì sự phân bố địa lý và thời gian ra hoa khác nhau.

Bảng 1.4: Các nhóm phụ và loài trong chi Coffea
Nhóm phụ Cơ loài
1- Erythrocoffea
C. arabiaca Linne
C. canephora Piere ex Froehner
C. congnsis Frochner
C. liberiaca Bull ex Hiern
C. derrei de Wild var.Excelsa Chev
C. klainii Pierre
2- Pachycoffea
C. abeokutae Cramer
C. oymensis Chev
3- Nanocoffea
C. humilis Chev
C. brevipes Hiem
C. togoensis
4- Melanocoffea
C. stenophyla G.Dun
C. carrisoi Chev
C. mayombensis
5- Mozabicoffea
C. chumania
C. eugenodes
C. kivuensis
C. munfindiensis
C. zanguebariae
C. racemosa Lour
C. liguisdes Moore
C. salvatrix Swyn & Phil
Kết quả nghiên cứu của Demarly (1975) thể tứ bội ở loài C. arabica là một thể đa

bội tạp, bộ gen của loài này được hình thành từ 2 bộ gen của 2 loài nhị bội khác nhau
hợp thành. Một bộ của loài C. canephora, bộ thứ 2 chưa được xác định rõ, nhưng
chúng có mối quan hệ gần gũi với loài nhị bội khác được giả định là C. liberica hoặc
C. congensis.
Đặc điể m một số loài và giống cà phê
+ Loài cà phê chè (Coffea arabica)


10
*Giống Typica (Coffea arabica L.var Typica): Có nhiều ở Brazin và một số
nước Châu Mỹ La tinh. Typica được tìm thấy sớm, là giống có phẩm chất thơm ngon
bậc nhất trong các giống cà phê chè thương mại. Trong điều kiện tự nhiên cây có chiều
cao tới 5m. Tán cây hình chóp nón, dạng trung bình. Lá non có màu tím hơi tối hoặc
màu đồng nhạt. Phiến lá thon nhỏ, đuôi lá dài nhọn hình mũi mác, mép lá ít gợn sóng.
Cành cơ bản (cành ngang, cành quả) yếu, buông rủ tạo với thân cây một góc trên 80
0
.
Trên cành có nhiều cành thứ cấp nhỏ yếu (cành tăm hay cành nhớt). Lóng đốt của cành
ngang dài, số hoa, quả trên mỗi đốt rất ít biến động khoảng 5-10. Quả và hạt to, dạng
quả hơi dài, quả khi chín có màu đỏ. Typica thích hợp với vùng khí hậu ôn hoà, mát,
cường độ ánh sáng yếu, mẫn cảm với bệnh gỉ sắt (Hemileia vestatrix B&Br), bệnh đốm
mắt cua (Cercospora Coffeicola), nấm hồng (Corticicum salmonicolor), năng suất thấp
nên đang bị thay thế bằng các giống khác
*Giống Bourbon (Coffea arabica L.var Bourbon): Do giống Typica biến dị,
trong điều kiện tự nhiên tại Việt Nam cây có chiều cao 3-4m, tán cây hình trụ không
khít tán, dạng trung bình. Lá non xanh nhạt, phiến lá dạng bầu, đuôi lá ngắn, mép lá
gợn sóng. Cành cơ bản khoẻ, hợp với thân một góc nhỏ hơn 80
0
, có khả năng phân
cành thứ cấp nhiều (7 cấp). Lóng đốt trung bình, số hoa, quả trên đốt cao hơn giống

Typica biến động từ 10-20, nhưng quả và hạt có kích thước nhỏ hơn, dạng quả hơi hình
cầu, quả chín màu đỏ. Bourbon là giống có chất lượng thơm ngon, thích hợp với khí
hậu ôn hoà, cường độ ánh sáng vừa, mẫn cảm với bệnh gỉ sắt, sâu bore dễ xâm nhập.
*Giống Catura (Coffea arabica L.var Catura): Là một dạng biến dị của giống
Bourbon được chọn lọc ở Brazin. Cây thấp khoẻ, chiều cao không quá 3m, tán cây hẹp
nên rất thích hợp mật độ trồng dày từ 5.000-10.000 cây/ha. Lóng đốt thân, cành ngắn,
khả năng phân cành thứ cấp nhiều. Số hoa, quả trên đốt nhiều từ 20-30 quả/đốt. Quả và
hạt có kích thước nhỏ hơn và dạng bầu gần giống dạng hạt cà phê vối (C. canephora).
Catura có hai dạng: Một dạng quả màu đỏ khi chín được gọi là Catura rojo và một dạng
quả vàng khi chín được gọi là Catura amarello. Catura có tiềm năng cho năng suất
nhưng cần thâm canh cao, dạng quả vàng cho năng suất cao hơn. Chất lượng nước
uống khá, gần được như Bourbon, có khả năng chịu hạn, thích hợp với cường độ chiếu
sáng mạnh và vùng có độ cao thấp, giống rất mẫn cảm với bệnh gỉ sắt, bệnh khô cành
khô quả (Colletotricum coffeanum Noak) hay còn được gọi là bệnh CBD (Coffee Berry
Disease). Giống Catura amarello được trung tâm nghiên cứu cây ăn quả Phù Quỳ-Nghệ
An chọn lọc còn gọi là giống PQII.
*Giống Catuai (Coffea arabica L.var Catuai): Là sản phẩm lai tạo giữa giống
Catura với giống Mundo novo (Mundo novo là cây lai tự nhiên giữa Bourbon và giống
Sumatra, trồng ở Việt Nam từ năm 1971). Đặc điểm hình thái tương tự Catura
amarello. Cây thấp, tán hẹp thích hợp mật độ trồng dày. Lá non màu xanh nhạt, phiến
lá bầu, mép lá gợn sóng nhiều. Lóng đốt ngắn, số hoa quả trên đốt tương đương giống
Catura, khả năng phân cành nhiều. Catuai có khả năng chịu hạn tốt hơn Catura, thích


11
hợp với điều kiện khí hậu những vùng có độ cao thấp, cường độ chiếu sáng mạnh, là
giống có tiềm năng cho năng suất cao và cần chế độ thâm canh cao. Catuai mẫn cảm
trung bình với bệnh gỉ sắt và bệnh khô cành khô quả. Những năm gần đây Cơ nước
châu Mỹ La Tinh trồng giống Catura và Catuai trên diện tích lớn.
*Giống Catimor (Coffea arabica L.var Catimor): Giống Catimor là giống được

lai tạo giữa Hibrido de Timor (cây khác loài) với giống Catura, do Trung tâm nghiên
cứu bệnh gỉ sắt Oeiras - Bồ Đào Nha và Viện nghiên cứu cà phê Colombia. Tại Việt
Nam, Viện nghiên cứu cà phê Eakmat nhập thế hệ F4, F5 và chọn lọc là thế hệ F6.
Catimor có dạng cây thấp, để phát triển tự nhiên cao từ 2-3m (thâm canh tốt có thể cao
trên 3m). Tán cây hẹp, đường kính tán cây từ 1,2-1,5m thích hợp mật độ trồng dày
5.000 - 10.000 cây/ha. Hầu hết các đặc điểm hình thái gần như giống Catura rojo. Điểm
khác biệt rõ nhất là lá non có màu đồng nhạt. Phiến lá dày màu xanh đậm, mép lá gợn
sóng nhiều. Cành cơ bản khoẻ vươn thẳng hợp với thân một góc nhỏ hơn 80
0
, lóng đốt
ngắn từ 3-4cm, phân cành thứ cấp nhiều, quả thuộc loại trung bình, khi chín màu đỏ.
Trọng lượng 100 hạt từ 12-16g, tỷ lệ quả tươi/nhân biến động từ 5-7,5 tuỳ vào điều
kiện trồng. Catimor có tiềm năng cho năng suất rất cao, đòi hỏi thâm canh cao, có khả
năng chịu lạnh, kháng cao với bệnh gỉ sắt. Giống này đang được khuyến cáo để thay
một số giống cà phê chè khác.
Trên đây là 4 giống cà phê chè (Coffea arabica L.) hiện đang được trồng phổ biến
và có khối lượng xuất khẩu lớn trên thị trường cà phê quốc tế. Ngoài ra còn có một số
giống khác như giống Mundonovo, Moka...do có nhiều hạn chế nên ít được khuyến cáo
rộng rãi.
+ Loài cà phê vối (Coffea canephora Pierre): Cà phê vối được trồng phổ biến
trên nhiều nước, chiếm 30% tổng diện tích cà phê. Các nước trồng nhiều cà phê vối là
Camerun, Côtđivoa, Uganda, Madagasca, Ấn Độ, Inđônêxia, Philippin, Brazin, Việt
Nam. Tại Việt Nam được trồng nhiều ở Cơ tỉnh phía Nam, tập trung chủ yếu ở các tỉnh
Tây Nguyên và Đồng Nai.
*Giống Robusta (C. canephora var Robusta): Chiều cao cây tự nhiên cao từ 8-
12m. Cây to khoẻ, tán cây rộng, đường kính tán từ 2-2,5m, không thích hợp mật độ
trồng dày. Lá non màu xanh nhạt. Phiến lá to bầu hoặc hình mũi mác, đuôi lá nhọn,
chiều rộng lá từ 10-15cm, dài từ 20-30cm, mép lá ít gợn sóng hơn cà phê chè. Cành cơ
bản to khoẻ, vươn dài hợp với thân một góc lớn hơn 80
0

, khả năng sinh cành thứ cấp ít
hơn nhiều so với cà phê chè, lóng đốt dài, quả có dạng hình cầu hoặc hình trứng, cuống
quả ngắn và dai hơn cà phê chè nên ít bị rụng khi chín, quả chín có màu đỏ. Trọng
lượng hạt trung bình từ 13-16g (ở ẩm độ hạt 12%). Trọng lượng quả tươi/nhân biến
động từ 4-6kg. Năng suất thấp nhưng khả chống chịu sâu bệnh tốt hơn cà phê chè, tuy
nhiên kém chịu hạn. Vì vậy khi trồng ở Tây Nguyên phải tưới nước đủ ẩm cây mới
sinh trưởng tốt.


12
+ Loài cà phê mít, dâu da (Coffea liberia Bull): Trong loài này có hai dạng hình
chính là giống cà phê mít (C.liberica var dewevrei) thường được gọi là C. liberia var
Excelsa có nguồn gốc ở xứ Ubagui-Chari thuộc Trung Phi nên còn gọi là cà phê Chari.
Một dạng hình khác là C. liberia var liberica. Cả hai dạng hình này có giá trị thương
phẩm thấp nên không có mặt trên thị trường cà phê quốc tế.
3. Giá trị kinh tế: Cây cà phê có giá trị kinh tế về nhiều mặt, sản phẩm chính là hạt, gỗ
cũng đem lại nguồn lợi đáng kể cho người sản xuất. Ngoài ra trồng cà phê còn có ý
nghĩa trong cải tạo hệ sinh thái và thu hút được nhiều lao động nông nghiệp, tạo cơ sở
cho một số ngành công nghiệp phát triển.
+ Giá trị dinh dưỡng: Trong hạt cà phê khi phân tích có đầy đủ các hợp chất
như: protein, lipit, đường, tinh bột, xenlulô... đặc biệt là có cafein.
Cafein là một hợp chất mang tính độc ở nồng độ cao, ở nồng độ thấp có tác
dụng kích thích sự hoạt động của hệ thần kinh nên uống cà phê sẽ tỉnh táo khi bị mệt
mỏi, căng thẳng. Cafein còn kích thích sự hoạt động của hệ tiêu hoá. Mỗi loài cà phê
khác nhau có hàm lượng Cafein khác nhau. Loài cà phê C. Arabica (cà phê chè) có
hàm lượng từ 1,8-2,0%, loài cà phê Canephora robusta (cà phê vối) từ 2,5-3,0%, cà
phê C. Liberia (cà phê mít), dâu da từ 1,05-1,15%.
Ngoài ra có một số loài cà phê không có Cafein như loài Coffea Luxifolia,
Coffea Mongenetii, các loài này có thể làm thức uống có hương vị cà phê dùng cho
người bệnh hoặc làm vật liệu lai tạo khi cần thiết.

+ Giá trị xuất khẩu: Cà phê là loại thức uống có chất lượng cao, thơm ngon nên
người uống cà phê ngày một gia tăng. Hầu hết các nước châu Âu và một số nước ở các
châu lục khác dùng cà phê làm thức uống hàng ngày. Mức tiêu thụ của các nước Bắc
Âu rất lớn, bình quân là 12,5 kg/người/năm, trong đó: Thuỵ Điển là 13,5kg, Đan Mạch
11,8kg. Các nước khác như Đức là 7,4kg, Hunggari 3,5kg, Pháp 5,2kg, Tây Ban Nha là
4,2kg. Nước Mỹ có mức nhập và tiêu thụ lớn, bình quân là 6,2kg/người/năm. Nhật Bản
có mức tiêu thụ là 3kg/người/năm, Colombia là 4,9kg, Brazin là 3,2kg, Indonexia và
Thái Lan là 0,5kg/người/năm
Nhìn chung số người uống cà phê trên toàn thế giới tăng nhanh. Chính vì vậy giá
trị xuất khẩu của cà phê luôn có vị trí quan trọng trong các mặt hàng nông sản xuát
khẩu. Giá trị xuất khẩu của cà phê ở Việt Nam lớn hơn nhiều so với Ca cao và Chè.
Trung bình 5 năm 1985-1989 giá trị xuất khẩu cà phê mỗi năm là 10,5 tỷ USD trong
khi với Ca cao là 3,3 tỷ USD, Chè là 2,6 tỷ USD.
+ Giá trị trong công nghiệp và các giá trị khác
Ngoài việc sử dụng làm thức uống hàng ngày thì trong công nghệ thực phẩm cà
phê được chế biến thành rượu, bánh kẹo và làm nước giải khát có hương vị cà phê.
Trong công nghệ dược phẩm cafein được sử dụng làm thuốc điều trị bệnh.


13
Bảng 1.5: Thành phần hoá học của hạt cà phê
Thành phần hoá học Đơn vị tính Số lượng
Nước
Chất béo
Đạm
Protein
Caffein
Axit Clorogenic
Trigonenlin
Tanin

Axit Cafetanic
Axit Cafeic
Pantoza
Tinh bột
Dextrin
Đường
Xenlulô
Hemixenlulô
Lenhin
Tro
Trong đó có: Ca
P
Fe
Na
Mn
Rb
Cu, F
gr/100 gr
"
"
"
"
"
"
"
"
"
"
"
"

"
"
"
"

mg/100g
8-12
4-18
1,8-2,5
9-16
0,8-3
2-8
1-3
2
8-9
1
5
5-23
0,85
5-10
10-20
20
4

2,5-4,5
85-100
130-150
3-10
4
1,0-45

vệt
Nguồn: Hoàng Minh Trang, 1983
Sản phẩm phụ của quả cà phê là lớp thịt quả, lớp quả nhớt chiếm 62-67% khối
lượng quả trong đó có hàm lượng đường khá và nhiều hợp chất dinh dưỡng khác
nên được dùng làm thức ăn gia súc, làm nguyên liệu chế biến cồn, rượu làm phân
bón. Phần vỏ trấu dùng làm ván ép, làm nhiên liệu và làm giá thể trong sản xuất
nấm.


14
4. Tình hình sản xuất và tiêu thụ
4.1. Sản xuất và tiêu thụ trên thế giới:
+ Diện tích: Theo số liệu của tổ chức FAO hiện nay trên thế giới có khoảng 75
nước trồng cà phê, các nước này có vị trí quanh vành đai xích đạo và Á nhiệt đới. Tổng
diện tích trong vòng 10 năm trở lại đây khoảng trên 10 triệu hecta. Diện tích tập trung
lớn nhất ở Trung và Nam Mỹ, sau đó là một số nước ở Đông Phi như Kenia, Camerun,
Ethyopya, Tanzania. Ở Châu Á có Indonexia, Việt Nam, Philippin.
Các nước có diện tích lớn từ 1 triệu ha đến trên 3 triệu ha có 4 nước:
Brazin > 3.000.000 ha. - Indonexia: 1.000.000 ha.
Colombia 1.000.000 ha. - Cotdivoa :1.000.000 ha.
+ Năng suất: Bình quân chung toàn thế giới khoảng 800kg nhân/ha. Năng suất
giữa các vùng, châu lục, các nước chênh lệch rất lớn; 28 nước châu Phi có năng suất
bình quân đạt xấp xỉ 400kg/ha. Nam Mỹ và châu Á đạt trên 700 kg/ha. Các nước ở
Trung Phi có năng suất xấp xỉ trên 600kg/ha. Một số nước có năng suất cao, trong đó
Costa-Rica năng suất 1.380kg/ha, Zaire đạt 1.600kg/ha.
Brazin có diện tích lớn nhất nhưng năng suất chỉ đạt trên 475kg/ha. Trong khoảng
10 năm trở lại đây việc áp dụng đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là tiến bộ trong
công nghệ giống. Các giống thấp cây kháng sâu bệnh nên năng suất của một số nước
tăng cao gấp 2 lần năng suất bình quân toàn thế giới. Tại Việt Nam năng suất bình
quân cả nước đạt 1.500kg/ha. Năng suất cà phê vối trên diện tích rộng hàng trăm hecta

đạt từ 2.400kg-3.000kg. Cà phê chè đạt từ 3.011- 4.000kg/ha. Năng suất trên diện hẹp
từ 1-5ha đạt từ 6.000-7.000kg với giống cà phê chè Catimor.
+ Sản lượng: Trong 10 năm gần đây sản lượng cà phê thế giới biến động
6.000.000 tấn/năm, niên vụ 1997-1998 sản lượng đạt 6.143.880 tấn, niên vụ 1998-1999
đạt tới 8.240.000 tấn tương đương 104 triệu ha. Trong đó sản lượng cà phê Arabica
chiếm bình quân 68,17%; cà phê Robusta chiếm 30,57%. Những năm trước đó tỷ lệ cà
phê Arabica đạt cao hơn tới 80-90% tổng sản lượng.
Tổ chức ICO căn cứ vào loại cà phê xuất khẩu mà chia ra các nước sản xuất cà
phê thành 2 nhóm: Nhóm sản xuất cà phê Arabica và nhóm sản xuất cà phê Robusta.
Ngoài ra còn chia sản phẩm thành 4 nhóm gọi là "nhóm chất lượng".
+ Tình hình tiêu thụ: Lượng cà phê tiêu thụ hàng năm biến động từ 5.964.000
tấn đến 6.000.000 tấn (99,4-100 triệu bao). Lượng cà phê này chủ yếu là được xuất
khẩu dưới dạng cà phê nhân sống chiếm 95%. Chỉ còn 5% được chế biến như các dạng
cà phê hoà tan, cà phê phun khô và cà phê dạng lỏng đóng hộp.




15
Bảng 1.6: Tình hình sản xuất cà phê một số nước trên thế giới (1998-2005)
NĂM
Nước
1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Diện tích (ha)
Brazil
2,070,41
0
2,222,92
5 2,267,968
2,336,03

1
2,370,91
0
2,395,58
0
2,366,00
0
2,326,37
0
Colombia 812,000 783,000 650,000 665,000 613,000 575,000 560,000 560,000
Côte
d'Ivoire 883,279 819,329 829,319 602,075 520,000 400,000 460,000 460,000
Guatemala 260,000 273,000 273,000 273,000 245,000 245,000 245,000 245,000
Honduras 199,452 205,131 210,769 216,562 204,490 228,438 236,376 238,455
India 280,000 280,000 305,000 321,000 323,000 323,000 328,000 328,000
Indonesia 844,172 900,000 891,000 937,926
1,372,18
4
1,382,73
0
1,397,93
1
1,414,90
1
Mexico 679,156 722,818 701,326 747,416 724,558 743,840 743,840 743,840
Uganda 265,000 275,000 300,991 264,000 217,504 264,000 264,000 264,000
Việt Nam 213,802 269,800 476,900 450,000 470,000 500,000 491,800 642,000
Sản lượng (Kg/ha)
Brazil 8,160 7,341 8,393 7,789 11,175 8,295 10,426 9,368
Colombia 9,446 6,982 9,802 9,867 11,368 12,071 12,153 12,189

Côte
d'Ivoire 3,861 3,751 4,055 3,471 3,500 3,501 3,473 3,478
Guatemala 9,734 10,752 11,431 10,099 9,054 9,967 8,841 8,841
Honduras 8,662 7,674 9,172 9,491 8,447 7,673 7,830 7,995
India 8,143 9,464 9,574 9,377 9,319 8,514 8,232 8,384
Indonesia 6,067 5,830 7,015 6,132 4,970 4,964 5,008 5,386
Mexico 4,084 4,180 4,822 4,054 4,320 4,179 4,179 4,179
Uganda 7,738 9,159 4,767 7,478 8,689 5,715 7,045 7,045
Viet Nam 19,144 20,504 16,827 18,680 14,883 15,874 16,970 15,421


16
Bảng 1.7: Sản lượng cà phê xuất khẩu của 10 nước hàng đầu thế giới
(Từ tháng 10 năm trước đến tháng 9 năm sau niên vụ 1997-1998)
STT Tên nước Số lượng (bao: 60kg) Vị thứ
1 Brazin 16.654.607 1
2 Colombia 10.813.329 2
3 Việt Nam 6.496.988 3
4 Indonexia 4.954.339 4
5 Cotdivoa 4.423.925 5
6 Mexico 3.891.695 6
7 Guatemala 3.838.351 7
8 Ấn Độ 3.308.752 8
9 Uganda 3.014.034 9
10 Honduras 2.299.762 10

4.2. Sản xuất và xuất khẩu cà phê ở Việt Nam
+ Tình hình sản xuất: Sau khi hoà bình lập lại(1954) ở các tỉnh miền Bắc nước
ta, cây cà phê đã được trồng tập trung ở các nông trường quốc doanh. Đến năm 1963-
1964 diện tích cà phê có khoảng trên 10.000ha, giống cà phê được trồng chủ yếu là cà

phê chè Arabica. Trong thời gian này các tỉnh miền Nam diện tích cà phê tập trung ở 3
tỉnh Tây Nguyên và tỉnh Lâm Đồng. Diện tích cà phê chè chưa nhiều, chủ yếu là cà phê
Robusta. Khi nước nhà thống nhất (1975) diện tích cà phê ngày càng được mở rộng,
đồng thời năng suất và sản lượng tăng mạnh mẽ. Diện tích năm 1999 tăng gấp 36 lần
năm 1975, sản lượng tăng gấp 69 lần.
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp & PTNT thì niên vụ 2000-2001 diện tích cà phê
cả nước đã lên tới 484.000ha, hết năm 2001 đã được 565.000ha và vượt diện tích kế
hoạch 1998-2001. Nay cây cà phê đã được trồng trong 24 tỉnh thành, ở 5 vùng sinh thái
nông nghiệp.
Trong tổng diện tích cà phê hiện nay của Việt Nam thì cà phê Robusta chiếm tới
86% diện tích (443.000ha). Diện tích cà phê Arabica chiếm 14% (bản tin cà phê,
2004), để thay đổi cơ cấu giống hơn 10 năm qua Bộ Nông nghiệp & PTNT đã có kế
hoạch mở rộng diện tích cà phê chè từ các tỉnh miền Trung ra các tỉnh phía Bắc.
Ở nước ta sau hơn 30 năm sản xuất và xuất khẩu hiện nay cũng đang là thời
điểm bị thất thu lớn nhất mặc dù đã có nhiều giải pháp khống chế. Trước tình hình đó


17
Bộ Nông nghiệp & PTNT phải nhanh chóng thay đổi kế hoạch phát triển cà phê trên cả
nước: Mạnh dạn phá bỏ trên 50.000ha cà phê vối, đồng thời tăng nhanh cơ cấu diện
tích cà phê chè, đầu tư cho việc chế biến nâng cao chất lượng cà phê nhân xuất khẩu.
Bảng 1.8: Diển biến diện tích, sản lượng cà phê ở Việt Nam.
Năm Diện tích
(ha)
Sản lượng
(tấn)
Năm Diện tích
(ha)
Sản lượng
(tấn)

1975 13.400 6.100 1993 101.300 136.000
1976 18.847 8.500 1994 123.900 180.000
1980 22.500 18.388 1995 186.400 240.000
1985 44.658 12.340 1996 230.900 350.000
1990 119.314 64.101 1997 254.400 370.000
1991 115.000 100.000 1998 270.600 405.000
1992 103.700 119.000 1999 397.400 420.000
Nguồn: Tư liệu Bộ Nông nghiệp & PTNT, Niên giám thống kê 2000
Bảng 1. 9: Diễn biến diện tích, sản lượng cà phê Việt Nam từ năm 1998-2005
Năm
1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Diện
tích (ha) 270.600 397.400 476.900 450.000 470.000 500.000 491.800 642.000
Năng suất
(Kg/ha) 19.144 20.504 16.827 18.680 14.883 15.874 16.970 15.421
Sản lượng
(tấn) 405.000 420.000 802.500 840.600 699.500 793.700 834.600 990.000

Vị trí địa lý của Việt Nam trãi dài gần 15 vĩ độ, từ 8
0
30'-23
0
22' độ vĩ Bắc và từ
102
0
– 109
0
21

độ Kinh Đông nên đặc điểm khí hậu các tỉnh miền Bắc phù hợp cho các

giống cà phê Arabica. Các tỉnh miền Nam, đặc biệt là các tỉnh Tây Nguyên phù hợp
với giống cà phê Robusta. Hiện nay Tây Nguyên có diện tích trồng cà phê lớn nhất,
bốn tỉnh: Đăk Lăk, Gia Lai, Kon Tum và Lâm Đồng sản lượng cà phê chiếm 85% tổng
sản lượng cả nước với tổng diện tích năm 1998 đạt 175.000ha, trong đó có 140.000ha
cà phê kinh doanh.
+ Năng suất: Cùng với sự gia tăng về diện tích thì năng suất cũng tăng nhanh:
năm 1963-1966 năng suất cà phê Arabica ở các tỉnh miền Bắc đạt 400 - 600kg/ha, cà


18
phê Robusta ở các tỉnh miền Nam đạt 1.000kg/ha. Đến niên vụ 1994 - 1995 năng suất
bình quân cả nước đạt 1.200kg/ha, niên vụ 1998 - 1999 năng suất đạt trên 1.500kg/ha.
Năng suất cà phê ở tỉnh Đăk Lăk đạt 2.400kg/ha trên diện tích 140.000ha. Nhiều công
ty cà phê có diện tích từ 200 - 400ha có năng suất từ 3.000kg - 3.500kg/ha như công ty
cà phê Đăk Uy đạt 3.700kg/ha trên diện tích 434ha. Năng suất điển hình trên diện tích
2-5 ha ở một số chủ hộ đạt 6.000-7.000kg/ha. Đây là năng suất cao nhất chưa từng có
trên thế giới.
+ Tình hình xuất khẩu: Việt Nam sản xuất cà phê chủ yếu là để xuất khẩu,
những năm trước đây thị trường chính là Liên Xô và các nước Đông Âu với khối lượng
thấp. Năm 1991 khi Tổ chức cà phê Quốc tế (ICO) công nhận Việt Nam là thành viên
thứ 75 và khi nhà nước đã cho thành lập Liên hiệp xí nghiệp cà phê (VINACAFE) thì
ngành cà phê Việt Nam có sự phát triển mạnh mẽ. Khối lượng xuất khẩu tăng dần:
Năm 1982 khối lượng xuất khẩu là 69.000 bao, năm 1987 là 433.000 bao, năm 1997
xuất khẩu xấp xỉ 62 triệu bao. Hiện nay Việt Nam có khối lượng xuất khẩu 11 triệu
bao, chiếm 13% tổng lượng cà phê xuất khẩu trên thế giới, đứng hàng thứ 2 thế giới chỉ
sau Brazin, nếu chỉ tính khối lượng cà phê Robusta thì Việt Nam là nước có khối lượng
xuất khẩu lớn nhất thế giới. Việt Nam có 51 thị trường nhưng khối lượng tập trung lớn
vào thị trường chung châu Âu, các nước Mỹ, Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Anh, Bỉ,
Nhật Bản.
Đơn giá cà phê của Việt Nam thấp. Giá cà phê Robusta loại 2 của Việt Nam từ

1.530-1.550 USD/tấn (tháng 7/1998) thì của Indonexia là 1.420-1.440USD/tấn. Trong
hai niên vụ 1999-2000 và 2000-2001 giá cà phê liên tục giảm thấp chỉ bằng 1/3 giá của
năm 1998. Niên vụ 1997-1998 Việt Nam thu được kim ngạch xuất khẩu cao nhất, đạt
599.686,781 USD. Theo số liệu của Bộ NN&PTNT tới 1/1/2002 Việt Nam đã xuất
khẩu 850.000 tấn, thu kim ngạch xuất khẩu chỉ bằng 50% kim ngạch 2000. Tuy nhiên
nếu Việt Nam nâng cao được chất lượng cà phê và gia tăng được khối lượng cà phê chè
xuất khẩu thì sẽ thu được kim ngạch xuất khẩu cà phê cao hơn. Đây cũng là những vấn
đề cấp thiết cần có sự đầu tư và cải tiến trong ngành sản xuất cà phê Việt Nam.
III. NGUỒN GỐC, PHÂN LOẠI, GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA CÂY CHÈ
( Camellia sinensis.L.).
1. Nguồn gốc: Cho đến nay có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc cây chè.
Quan điểm được nhiều người thừa nhận hơn cả là:
+ Cây chè có nguồn gốc ở Vân Nam - Trung Quốc: Nơi có khí hậu ẩm ướt và
ấm. Theo các tài liệu Trung Quốc thì cách đây trên 4000 năm người Trung Quốc đã
biết dùng chè làm dược liệu và sau đó là để uống.
Theo Daraselia (Gruzia), 1989 thì các nhà khoa học Trung Quốc như: Schenpen,
Jaiding...đã giải thích sự phân bố của cây chè ở Trung Quốc như sau: Đầu tiên cây chè


19
mọc ở Vân Nam, sau đó hạt chè di chuyển theo dòng nước đến các nước Việt nam,
Lào, Campuchia, Mianma. Cũng theo Daraselia thì một luận điểm nữa có cơ sở khoa
học là dựa theo học thuyết “Trung tâm khởi nguyên cây trồng” của Vavilốp thì cây chè
có nguồn gốc ở Trung Quốc, nó phân bố ở các khu vực phía đông, phía nam, phía đông
nam men theo cao nguyên Tây Tạng.
+ Cây chè có nguồn gốc ở Atxam (Ấn Độ): Năm 1823, R. Bruce đã phát hiện
được những cây chè dại lá to ở vùng Atxam (Ấn Độ), nên các học giả người Anh cho
rằng: Nguyên sản của cây chè ở vùng Atxam chứ không phải ở Vân Nam- Trung Quốc.
+ Cây chè có nguồn gốc ở Việt Nam: Những công trình nghiên cứu của
Đjemukhatze (1961-1976) về phức catechin của lá chè từ các nguồn gốc khác nhau, so

sánh về thành phần các chất catechin giữa các loại chè được trồng trọt và chè mọc
hoang dại đã nêu lên luận điểm về sự tiến hóa sinh hóa của cây chè, trên cơ sở đó xác
minh nguồn gốc cây chè. Đjemukhatze kết luận rằng những cây chè mọc hoang dại từ
cổ xưa, tổng hợp chủ yếu là (-) epicatechin và (-) epicatechin galat. Ở chúng khả năng
tổng hợp (-) epigalocatechin và các galát của nó để tạo (+) galocatechin chậm hơn.
Nghiên cứu các cây chè dại ở Việt Nam cho thấy chúng tổng hợp chủ yếu là (-)
epicatechin và (-) epicatechin galat (chiếm 70% tổng số các loại catechin). Khi di thực
các cây chè dại này lên phía Bắc với các điều kiện khí hậu khắc nghiệt hơn, chúng sẽ
thích hợp dần với các điều kiện sinh thái bằng cách có thành phần catechin phức tạp
hơn, cùng với sự tạo thành (-) epigalocatechin và các galát của nó. Điều đó có nghĩa là
sự trao đổi chất ở đây hướng về phía tăng cường quá trình hidroxil hóa và galil hóa. Từ
những biến đổi sinh hóa này của lá các cây chè dại và cây chè được trồng trọt, chăm
sóc cho phép đi tới một kết luận mới là “Nguồn gốc cây chè chính là ở Việt Nam”.
Tuy có sự khác nhau nhưng những quan điểm trên đều có sự thống nhất rằng: Cây
chè có nguồn gốc từ châu Á, nơi có điều kiện khí hậu nóng, ẩm.
2. Phân loại cây chè:
Cây chè nằm trong hệ thống phân loại thực vật sau đây:
 Ngành Hạt kín Angiospermae
 Lớp Ngọc lan (Song tử diệp) Dicotyledonae
 Bộ Chè Theales
 Họ Chè Theaceae
 Chi Chè Camellia
(Thea)
 Loài Chè Sinensis


20
Tên khoa học của cây chè được nhiều nhà khoa học công nhận là: Camellia
sinensis. L O. Kuntze và có tên đồng nghĩa là Thea sinensis .L.
Năm 1753, Line đặt tên cho cây chè là Thea sinensis, sau đó đặt lại là Camellia

sinensis. Sau Line có các nhà thực vật học xếp cây chè thuộc chi Thea, có người lại xếp
cây chè thuộc chi Camellia và tên khoa học của cây chè được viết là Thea sinensis
hoặc Camellia sinensis. Hơn một trăm năm qua tên khoa học của cây chè vẫn là một
vấn đề tranh luận. Có khoảng 20 cách đặt tên cho cây chè, diễn biến như sau:
Năm 1807 F. Sim: Thea sinensis Sims.
Năm 1822 F. Link: Camellia sinensis Link.
Năm 1854 W. Griffim: Camellia theifera Griff.
Năm 1874 D. Brandis: Camellia thea Brandis.
Năm 1874 W.T.T.Dyer: Cammellia theifera Dyer.
Năm 1908 G. Watt: Camellia thea (Link) Brandis.
Năm 1919 C.P. Cohen stuart: Camellia theifera (Griff) Dyer.
Năm 1933 C.R Harler: Thea sinensis (L) Sims.
Năm 1956 C.R Harler: Camellia sinensis (L) O. Kuntze.
Hiện nay Cơ nhà thực vật học gộp chi Thea và Camellia làm một và gọi là chi
Camellia.
Vì vậy tên khoa học của cây chè được nhiều người gọi là Camellia sinensis. L. O.
Kuntze.
+ Cơ sở của việc phân loại chè: Việc phân loại chè thường được dựa vào:
* Cơ quan dinh dưỡng: Loại thân bụi hoặc thân gỗ, hình dạng của tán, lá, kích
thước lá, đầu lá, số đôi gân chính...
* Cơ quan sinh thực: Độ lớn của cánh hoa, số lượng đài hoa, vị trí phân nhánh
của đài nhụy, số lượng hoa, quả...
* Đặc tính sinh hóa: Chủ yếu dựa vào hàm lượng tanin biến động trong một
phạm vi nhất định.
Bảng phân loại chè của Cohen Stuart (1919): Có nhiều bảng phân loại chè
nhưng bảng phân loại được nhiều người công nhận nhất là bảng phân loại của Cohen
Stuart (1919). Tác giả chia Camellia sinensis L. làm 4 thứ (Varietas) chè chính:
* Chè Trung Quốc lá nhỏ (Camellia sinensis var. bohea): Thân bụi, cây thấp,
phân cành nhiều. Lá nhỏ, dày, nhiều gợn sóng, màu xanh đậm, dài từ 3,5 - 6,5cm, lá có
từ 6 - 7 đôi gân, gân lá không rõ, răng cưa nhỏ không đều, đầu lá tròn. Búp nhỏ, năng



21
suất không cao, Phẩm chất bình thường, nhiều hoa - quả, có khả năng chịu rét (-12
O
C
đến –15
O
C).
Chè Trung Quốc lá nhỏ phân bố chủ yếu ở miền đông, đông nam Trung Quốc,
Nhật Bản. Ở Việt Nam, chè Trung Quốc lá nhỏ có thể tìm thấy ở Lạng Sơn, Phú Hộ
(Phú Thọ) Trong Cơ thí nghiệm tập đoàn giống.
* Chè Trung Quốc lá to (Camellia sinensis var. macrophylla): Thân gỗ nhỡ
cao tới 5 m trong điều kiện sinh trưởng tự nhiên. Lá to trung bình, chiều dài từ 12 - 15
cm, chiều rộng từ 5 - 7 cm, màu xanh nhạt, bóng, răng cưa sâu không đều, đầu lá nhọn,
lá chè Trung Quốc lá to có từ 8 - 9 đôi gân chính. Búp to trung bình, có khả năng cho
năng suất cao, chất lượng tốt, thích hợp cho cả việc chế biến chè đen và chè xanh. Khá
nhiều hoa và quả. Khả năng chịu rét kém, chịu đất xấu, hay bị bệnh phồng lá, rầy xanh
hại nặng. Nguyên sản của chè Trung Quốc lá to ở Vân Nam, Tứ Xuyên (Trung Quốc).
Ở Việt Nam, chè Trung Quốc lá to phân bố ở vùng trung du: Phú Thọ, Thái nguyên,
Bắc Giang, Tuyên Quang và phía Nam Yên Bái... Do được trồng phổ biến ở vùng
trung du, chè Trung Quốc lá to còn có tên gọi là chè Trung Du.
* Chè Shan (Camellia sinensis var. Shan): Thân gỗ, trong điều kiện tự nhiên có
thể cao từ 6 - 10 m. Lá to, dài (dài 15 - 18 cm), màu lá xanh nhạt, đầu lá dài, răng cưa
nhỏ, dày và đều, có khoảng 10 đôi gân chính. Búp to trung bình, tôm chè có nhiều lông
tơ trắng mịn, trông như tuyết cho nên chè Shan còn được gọi là chè Tuyết, chè Shan có
khả năng cho năng suất khá, chất lượng tốt phù hợp cho chế biến chè đen và đặc biệt là
chè xanh. Chè Shan ít hoa, quả hơn chè Trung Quốc lá to và Trung Quốc lá nhỏ. Chè
Shan có khả năng thích ứng trong điều kiện nóng ẩm, ấm, địa hình cao. Nguyên sản
của chè Shan là Vân Nam (Trung Quốc), Mianma. Ở Việt Nam chè Shan được trồng

nhiều ở vùng Tây Bắc, vùng Tây Nguyên (Lâm Đồng). Mỗi địa phương có các giống
khác nhau như Shan Mộc Châu, Shan Thamvè, Shan Trấn Ninh... đều cho năng suất
khá, từ 7- 8 tấn/ha.
* Chè Ấn Độ (Camellia sinensis var. Atxamica): Thân gỗ, cao, to. Trong điều
kiện tự nhiên có thể cao tới 16 - 17m, phân cành thưa. Lá to, dài tới 20 - 30 cm, lá
mỏng mềm, thường có màu xanh đậm, mặt lá gồ ghề, nhiều gợn sóng, đầu lá dài, dạng
lá hình bầu dục có từ 12 - 15 đôi gân chính, búp to. Chè Ấn Độ có khả năng cho năng
suất cao, phẩm chất tốt, thích hợp cho chế biến chè xanh và chè đen. Rất ít hoa quả, có
khi không có quả (giống 1A). Không chịu được rét, hạn.
Chè Ấn Độ được trồng nhiều ở Ấn Độ, Mianma, Vân Nam và một số vùng khác.
Ở Việt Nam, chè Ấn Độ được trồng nhiều ở Phú Thọ, Nam Yên Bái, Tuyên Quang,
Thái Nguyên. Đại biểu của nó là giống PH1, giống chè có khả năng cho năng suất cao
nhất nước Việt Nam hiện nay.
3. Giá trị kinh tế:


22
+ Vị trí cây chè trong đời sống
Nước chè là thứ nước uống tốt và rẻ tiền, có giá trị dinh dưỡng và dược liệu. Hỗn
hợp tanin trong chè có tác dụng giải khát rất tốt. Cafein và một số hợp chất ancaloit
khác (teobromin, teotilin, ađenin) có trong chè là những chất có tác dụng kích thích hệ
thần kinh trung ương, kích thích vỏ đại não làm cho thần kinh minh mẫn, tăng cường
sự hoạt động của các cơ trong cơ thể, nâng cao năng lực làm việc, làm giảm bớt những
mệt nhọc sau những lúc làm việc căng thẳng. So với cà phê thì khả năng kích thích của
chè chậm hơn và kéo dài hơn, không gây kích thích quá mạnh có hại cho thần kinh và
cơ thể con người. Ngoài ra chè còn có tác dụng kích thích hệ tiêu hóa, đặc biệt là tiêu
hóa mỡ.
Trong chè có chứa nhiều vitamin: Vitamin A, B1, B2, B6, K, PP... và đặc biệt là
chứa nhiều vitamin C. Đây là nguồn dinh dưỡng có giá trị và rất cần thiết cho cơ thể
con người.

Chất tanin trong chè ngoài tác dụng giải khát còn có khả năng chữa trị nhiều bệnh
như tả lị, thương hàn, sỏi thận, sỏi bàng quang, chảy máu dạ dày... và có tác dụng lợi
tiểu.
Theo M. N. Zaprometop, catechin chè có tác dụng làm vững chắc mao mạch
trong cơ thể con người. Số liệu của Viện nghiên cứu Leningrat cho thấy: Trong điều trị
bệnh cao huyết áp thu được hiệu quả rất tốt khi người bệnh được dùng 150 mg catechin
trong 1 ngày.
E.K. Mgaloblisvili và các cộng tác viên của ông đã xác định ảnh hưởng tích cực
của nước chè xanh tới chức năng của hệ thống tim mạch, tới quá trình trao đổi muối,
nước và trao đổi vitamin C...
Một giá trị đặc biệt của chè là tác dụng chống phóng xạ. Ngoài ra, chè còn được
dùng làm chất tạo màu thực phẩm, vừa có khả năng thay thế các chất tạo màu nhân tạo.
Các sản phẩm phụ của cây chè như dầu hạt chè có thể sử dụng trong công nghiệp
hay làm dầu ăn như các loại dầu thực vật khác. Lá chè có thể làm thức ăn trong chăn
nuôi.
+ Vị trí cây chè trong nền kinh tế quốc dân
Chè là cây công nghiệp lâu năm, có nhiệm kỳ kinh tế dài, nhanh cho sản phẩm,
hiệu quả kinh tế cao và ổn định. Cây chè trồng một lần có thể cho thu hoạch từ 30 - 40
năm hoặc lâu hơn.
Ở Việt Nam trong điều kiện thâm canh, nương chè sau trồng 1 năm đã có thể cho
thu từ 500 kg cho đến 1tấn búp tươi/ha. Các năm sau có thể cho thu từ 2-3 tấn búp
tươi/ha. Từ năm thứ năm trở đi có thể thu hoạch bình quân 5-10 tấn búp tươi/ha. Đặc
biệt có những nương chè có thể cho năng suất 20-30 tấn búp tươi/ha.


23
Chè là cây trồng mà sản phẩm của nó có giá trị hàng hóa và giá trị xuất khẩu cao,
thị trường tiêu dùng ổn định, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm ngày càng cao.
Giá chè trên thị trường quốc tế trong những năm gần đây khá ổn định, bình quân
từ 1200 - 1900 USD/tấn chè đen và từ 2000 - 3000 USD/tấn chè xanh, chè vàng.

Trước đây chè của Việt Nam thường được xuất khẩu sang thị trường Liên Xô cũ
và các nước Đông Âu. Thị trường Châu Á bao gồm các nước Nhật Bản, Trung Quốc,
Đài Loan, Iran, Irăc, Cooet, ARập Thống Nhất... các nước này chủ yếu nhập chè xanh
và chè đen.
Thị trường Tây Âu, Bắc Mỹ có nhu cầu nhập khẩu chè đen với khối lượng lớn.
Tuy nhiên, công nghệ chế biến của ta còn lạc hậu, chưa đáp ứng được nhu cầu chất
lượng của thị trường này.
Chè là cây trồng không tranh chấp đất đai với các cây lương thực, trồng chè có
tác dụng phủ đất trống, đồi trọc, chống xói mòn.
Phát triển mạnh cây chè ở vùng trung du miền núi có tác dụng thu hút và điều hòa
lao động trong phạm vi cả nước. Cây chè góp phần công nghiệp hóa sản xuất nông
nghiệp ở vùng cao, giúp cho Trung du Miền núi tiến kịp Miền xuôi về kinh tế - xã hội.
4. Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè trên thế giới và trong nước
4.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè trên thế giới
Mặc dù cây chè có nguồn gốc lịch sử lâu đời (4000 năm) song từ thế kỹ thứ
XVIII trở lại đây cây chè mới thực sự được phát triển với tốc độ nhanh. Đến nay trên
thế giới có trên 50 nước trồng chè. Diện tích chè của châu Á chiếm 86,7%, châu Phi là
8,04%. Trung Quốc là nước có diện tích chè lớn nhất thế giới: 1134,6 nghìn ha. Sản
lượng chè toàn thế giới năm 1994 đạt khoảng 2478 nghìn tấn khô, tập trung chủ yếu ở
châu Á (chiếm 83,2%) và châu Phi (chiếm 14,4%). Nước có sản lượng chè lớn nhất thế
giới là Ấn Độ: 743,8 nghìn tấn.
Vương Quốc Anh là nước nhập khẩu chè lớn nhất thế giới, năm 1994 nhập
148,6 nghìn tấn chè khô, sau đó là Liên Xô cũ 115 nghìn tấn, Pakistan 106,6 nghìn tấn,
Ai Cập 57 nghìn tấn, Ma Rốc 34 nghìn tấn...Mức tiêu thụ chè tính theo đầu người hàng
năm cao nhất là Ai Len 3,22kg, Vương Quốc Anh 2,61kg, Quatar 2,3kg, Thổ Nhĩ Kỳ
2,73kg, Irăc 2,95kg, Hồng Công 1,95kg...
4.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè trong nước
Lịch sử phát triển cây chè ở Việt Nam được chia thành các giai đoạn sau đây:
+ Giai đoạn 1890 – 1945: Những đồn điền chè ở Việt Nam được thành lập ở
Tỉnh Cương (Phú Thọ) 60 ha, ở Đức Phổ (Quảng Nam) 250 ha.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×