Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Báo cáo chuyên đề: VỤ KIỆN BÁN PHÁ GIÁ CÁ TRA-BASA VÀ TÔM doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.85 KB, 14 trang )

Trường đại học nông lâm TP.HCM
Khoa Thủy sản

Báo cáo chuyên đề:
THỦY SẢN ĐẠI CƯƠNG
VỤ KIỆN
BÁN PHÁ GIÁ CÁ TRA-BASA VÀ TÔM
Gvhd: ThS.Nguyễn Văn Tư
Họ & tên sinh viên: Nguyễn Thế Lạc
Lớp: DH09CT
MSSV: 09117091
MỤC LỤC:
1. Cá Tra-Basa từ hoang dã đến một thương hiệu
2. Tìm hiểu về luật chống bán phá giá của Mỹ
3. Vụ kiện bán phá giá cá Tra-Basa giữa Việt Nam và Mỹ năm 2002-
2003
4. Bước đi của Mỹ từ sau vụ kiện
- 1 -
Vụ kiện bán phá giá cá Tra-Basa – Nguyễn Thế Lạc
5. Từ vụ kiện cá đến vụ kiện Tôm
6. Nhìn nhận về hai vụ kiện
- 2 -
Vụ kiện bán phá giá cá Tra-Basa – Nguyễn Thế Lạc
1. Cá Tra-Basa từ hoang dã đến một thương hiệu
Vùng hạ nguồn sông Cửu Long, tại các tỉnh An Giang, Đồng Tháp,
các lão nông dù đã ở tuổi thất thập cũng không thể biết được loài “cá bụng”
quen thuộc đã xuất hiện ở quê mình từ lúc nào. Tuy nhiên, các câu chuyện
dân gian đều khẳng định rằng loài cá này xuất hiện khoảng vài trăm hay vài
ngàn năm trước đây. Chúng bắt cặp và sinh sản ở vùng trung lưu sông
Mêkông, tại Hạ Lào và Campuchia. Cá mẹ đẻ trứng bắn vào bọt nước hoặc
vào dề lục bình rồi theo dòng nước trôi về hạ nguồn sinh sôi. Thuận con


nước cá trôi về sông Tiền, sông Hậu và chảy tràn ra ruộng đồng miền hạ.
Khoảng một năm sau, cá con lớn gần 2 kg, lưng đen bụng trắng, da trơn
mình bự như đòn bánh tét. Sau đó, chúng trở lại vùng Hạ Lào, Campuchia
tiếp tục vòng đời sinh sản của chúng.
Các tỉnh An Giang, Đồng Tháp vào mùa nước nổi, người dân vớt cá
con (cá bột) phiêu du tự nhiên trong dòng nước nặng phù sa, đưa vào bè
ương và nuôi cho lớn thành cá thịt mang đi tiêu thụ ở các chợ nội vùng châu
thổ sông Mê Kông. Nghề nuôi cá bè cũng bắt đầu từ đó. Nhưng nó chỉ thực
sự phát triển vào đầu những năm 70 của thế kỷ trước.
Quy mô nuôi ngày càng lớn, thị trường ngày càng mở rộng đến khắp
các thành phố lớn, thị xã, làng quê miền nam. Vào những năm 1984-1988,
cũng bằng phương thức vớt cá con giống tự nhiên, một Công ty Australia
phối hợp với một Công ty Việt Nam hợp tác nuôi và xuất khẩu qua thị
trường Australia, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore với dạng phi lê, cắt
khúc, nguyên con làm sạch đông lạnh.
Tuy nhiên, việc đánh bắt cá bột ngày càng nhiều, không có tổ chức đã
đưa đến nguy cơ làm cạn kiệt nguồn giống cá tra, basa tự nhiên. Trước tình
hình đó, khoa Thủy Sản Đại học Nông Lâm Tp.HCM và Đại học Cần Thơ
đã cộng tác với các nhà nghiên cứu thủy sản của Pháp, nghiên cứu quy trình
sản xuất giống cá Tra, cá Basa nhân tạo. đến năm 1998, quy trình được hoàn
thiện và được chuyển giao, gầy dựng nên một lực lượng sản xuất giống cá
tra, cá basa nhân tạo với hơn 15.000 nông hộ liên quan.
Nghề ép cá giống đã làm giàu cho nhiều nông hộ. Ông Hai Nắm, nông
dân thị trấn Hồng Ngự (Đồng Tháp) đã lập cơ sở ép cá giống và chỉ sau vài
ba mùa bán cá giống đã trở thành tỷ phú, mua xe Toyota Crown, nhà cửa
khang trang. Ngay sau nhà ở, trên bờ các vuông ao với vô số ô lưới mắt nhỏ
để dưỡng cá, các “phòng chờ”, “phòng đẻ” của cá được lắp dựng đơn giản
bằng vật liệu nhẹ. Nhiều thùng tôn tròn đường kính 80-100 cm, mỗi thùng
nước được tạo sóng là nơi “tình tự” của từng cặp cá bố-mẹ 2-3 kg/con, trước
khi bắt cá mẹ ra ép trứng. Đặt nằm cá mẹ nghiêng trên đùi thợ cả, chỉ sau

chừng năm cái vuốt xuôi từ ức xuống gần đuôi, trứng từ bụng cá mẹ rơi
- 3 -
Vụ kiện bán phá giá cá Tra-Basa – Nguyễn Thế Lạc
xuống thau nhôm sạch. Chùm trứng vàng nhạt được đưa lên phễu kính trong,
trên miệng phễu có đèn điện công suất thấp để sưởi dưỡng trứng cùng với
máy thổi oxy. Cá con từ 3 ngày tuổi đã biết ăn trứng gà khuấy tan nên lớn
rất nhanh. Khi được gọi là cá bột (cỡ 5-7 ngày tuổi, tương đương cá tự nhiên
vớt trên sông) lũ cá con được chuyển dần sang các ô lưới thích hợp, được
chăm sóc kỹ lưỡng như nuôi em bé. Sau 2 tuần tuổi, cá giống được chuẩn bị
sẵn sàng xuất xưởng. Cùng với cơ sở Hai Nắm, các cơ sở tư nhân khác và 3
đơn vị sản xuất cá giống quy mô lớn, kỹ thuật tiên tiến của An Giang đã sản
xuất và cung ứng hàng triệu con cá giống cho các trại, lồng bè, đăng quầng ở
nhiều tỉnh, sau mỗi năm số lượng càng gia tăng.
Nuôi cá bè xuất khẩu
Cuối những năm 1980, con cá ba sa bắt đầu rời những làng bè của
vùng đầu nguồn sông Tiền và sông Hậu để mở màn cho chuyến ngao du trời
Tây.
Ban đầu chỉ có Đồng Tháp và An Giang, dần dần phong trào nuôi cá
mở rộng ra thêm 4 tỉnh có nước ngọt: Cần Thơ, Vĩnh Long, Bến Tre, Sóc
Trăng. Cá nuôi xuất khẩu từ mô hình nuôi lồng bè cỡ 10-20 tấn/bè/vụ mở
rộng sang ao lớn ở các cồn cát, dải đất bồi cặp sông 50-100 tấn/ha/vụ; cá biệt
có nơi 200-300 tấn/ha/vụ. Hiện nay, cả vùng có tới 5.000 bè lớn nhỏ và
nhiều ao, quầng đăng. Cặp các nhánh sông Cửu Long được đưa vào nuôi cá
ba sa xuất khẩu 1-2 vụ/năm (nuôi công nghiệp). Nếu như những năm 1995-
1996, sản lượng cá thương phẩm của cả vùng chỉ khoảng 20.000 tấn/năm,
thì đến năm 2002 sản lượng tăng vọt lên 150.000 tấn. Với kỹ thuật nuôi mới,
thịt cá có màu trắng pha lẫn ít mỡ, thịt ngon mềm, thơm, không mùi đất và
tảo, đạt năng suất cao. Những lô hàng sản phẩm cá ba sa được xuất khẩu với
nhãn hàng hoá “Catfish” sang nhiều nước châu âu và Mỹ. Kim ngạch xuất
khẩu vào Mỹ năm 2002 đạt hơn 60 triệu USD, là một dấu ấn rõ nét của hàng

hoá từ con cá này.
Cá ba sa lúc đó chủ yếu nuôi trong lồng bè, sản lượng rất ít và thấp.
Khi thị trường nước ngoài bắt đầu chuộng và yêu cầu cung cấp ngày một
nhiều hơn thì con cá ba sa ngày càng thể hiện sự đuối sức. Một công ty của
Úc đã yêu cầu công ty Cataco tìm con cá gì đó thay thế sản lượng cho con cá
ba sa và họ đã cử hẳn chuyên gia tới Đồng bằng sông Cửu Long để cùng
công ty nghiên cứu. Trong nhiều loài cá họ thống nhất chọn con cá tra, vì có
đặc điểm sinh trưởng, thịt phi lê tương tự ba sa. Thế là container cá tra phi lê
đầu tiên của Việt Nam được xuất qua Úc, thị trường này sau đó chấp nhận
mặt hàng này. Đó là tín hiệu đáng mừng ở buổi đầu sơ khai. Tiếp theo đó
nhiều danh nghiệp cũng đã bắt chuyển sang xuất khẩu cá Tra thay vì cá
- 4 -
Vụ kiện bán phá giá cá Tra-Basa – Nguyễn Thế Lạc
Basa. Nhiều thị trường khác như Mỹ, Châu Âu cũng đã tiếp nhận sản phẩm
từ loại cá này.
Như vậy, trải qua nhiều giai đoạn con cá Tra-Basa của Việt Nam đã
thực sự trở thành một mặt hàng được nhiều nước trên thế giới biết đến. có
thể khẳng định, con “cá bụng” ngày nào giờ đã trở thành một thương hiệu
trên thị trường quốc tế.
Năm 2002, cá Tra, Basa Việt Nam đối mặt với vụ kiện bán phá giá
của Mỹ. Mặc dù vụ kiện đã gây khó khăn rất nhiều cho việc xuất khẩu cá
Tra, Basa của Việt Nam. Tuy nhiên nó cũng cho thấy mặt hàng này đã gây
sự chú ý của một số thị trường lớn, gây lo ngại cho các nhà sản xuất tại thị
trường đó.
2. Luật chống bán phá giá của Mỹ:
Bán phá giá là việc bán hàng hoá của các nhà sản xuất hoặc xuất
khẩu nước ngoài tại một thị trường xuất khẩu với giá thấp hơn giá bán của
những sản phẩm giống hoặc tương tự mà các nhà sản xuất hoặc xuất khẩu
bán tại thị trường trong nước của họ hoặc xuất tới thị trường của nước thứ
ba, hoặc với giá bán hàng hoá thấp hơn chi phí sản xuất sản phẩm.

Luật của Mỹ quy định rằng: nếu hàng hóa bán vào Mỹ thấp hơn giá
quốc tế hoặc thấp hơn giá thị trường thì người sản xuất thấp ở Mỹ có thể
kiện ra tòa, và như vậy, nước bị kiện sẽ phải chụi thuế chống bán phá giá
(AD) cao không chỉ đối với chính hàng hóa bán phá giá mà còn đối với tất
cả các 10 hàng hóa khác của nước đó bán vào Mỹ. Giá thị trường của hàng
hóa là giá mà hàng hóa đó thường được bán trên thị trường nước người sản
xuất. Bộ thương mại Mỹ (DOC), Uỷ ban thương mại quốc tế (ITC), và Tổng
cục hải quan Mĩ cùng có trách nhiệm trong việc thi hành luật chống bán phá
giá. DOC chụi trách nhiệm quản lý chung về luật bán phá giá và điều tra về
việc phá giá của nước ngoài cho hàng nhập khẩu. nếu điều tra xác định sự
việc là có thật, DOC sẽ quy định mức thuế đánh vào hàng hóa đó. ITC thì
xác định liệu sự việc đã, hoặc có thể , ảnh hưởng đến sản xuất trong nước
hay chưa, hoặc liệu một ngành sản xuất trong nước có bị ảnh hưởng ngay từ
khi mới phát triển do việc bán phá giá hàng nhập khẩu hay không. Tổng cục
hải quan áp dụng AD khi những mức thuế này được ban hành và ITC đã tiến
hành công việc xác định cần thiết.
Gần đây, Quốc hội Mỹ đã thông qua Luật Byrd sửa đổi, theo đó luật
này khuyến khích doanh ngiệp Mỹ cản trở việc nhập khẩu hàng hóa từ các
đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Cụ thể là Luật Byrd sửa đổi ngăn chặn công
ty nước ngoài xuất khẩu sản phẩm sang Mỹ ở mức thấp hơn giá họ thường
tính trong nước, do đó, cạnh tranh không công bằng với nhà sản xuất Mỹ.
- 5 -
Vụ kiện bán phá giá cá Tra-Basa – Nguyễn Thế Lạc
(Chương I, Luật Thương mại quốc tế, Phạm Minh biên soạn, NSX Thống
Kê, Tp.Hồ Chí Minh 2000).
3. Vụ kiện bán phá giá cá Tra-Basa giữa Việt Nam và Mỹ năm 2002-
2003
3.1 Nguyên nhân vụ kiện
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá tra và cá basa sang Mỹ từ năm 1996.
Những năm sau đó, sản lượng xuất khẩu ngày càng tăng, nhất là mặt hàng cá

phi lê đông lạnh. Năm 1998, sản phẩm cá da trơn phi lê đông lạnh của Việt
Nam xuất khẩu sang đây mới chỉ đạt 260 triệu tấn, thì đến năm 2000, lượng
hàng này tăng vọt lên hơn 3.000 tấn và đến năm 2001 thì đã đạt con số kỷ
lục: xấp xỉ 8.000 tấn. Sản phẩm cá tra, cá basa philê do Việt Nam sản xuất
được người tiêu dùng Mỹ đặc biệt ưa chuộng do chất lượng ngon, giá thành
tương đối rẻ. Trước tình hình đó, Hiệp hội chủ trại nuôi cá nheo Mỹ (CFA)
đã thể hiện phản ứng bằng việc đưa ra chủ trương chống các sản phẩm cá
tra, cá basa của Việt Nam. Trước tiên, Mỹ đã phê chuẩn một đạo luật cấm
Việt Nam sử dụng tên “catfish” cho các sản phẩm cá xuất khẩu của mình.
Để hiểu rõ hơn vấn đề này, chúng ta cùng tìm hiểu tên gọi Catfish. Catfish
là tên tiếng Anh chỉ tất cả các loài cá da trơn (không có vảy), gồm cá nheo,
cá tra, basa, cá bông lau, cá lăng…theo hệ thống phân loại ngư loại học. Tất
cả các loài cá nói trên đều thuộc bộ cá nheo (Siluriformes), gồm khoảng
2.500-3.000 loài cá khác nhau, phân bố khắp các thuỷ vực nước ngọt, mặn,
lợ trên khắp thế giới. Các loài cá này được xếp vào các họ cá khác nhau,
trong đó có họ cá nheo Mỹ (Ictaluridae) và họ cá da trơn châu Á
(Pangasiidae). Cá tra, cá basa của Việt Nam là các loài cá đặc hữu của vùng
châu thổ sông Mêkông thuộc giống Pangasius, họ Pangasidae, bộ
Slurifornes. Về mặt khoa học và tập quán thương mại, không thể lấy tên một
nhóm sản phẩm lớn của thuỷ sản thế giới để dành riêng cho một loài nào
trong số đó. Trên tất cả các bao bì của sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu của Việt
Nam đều ghi rõ dòng chữ tiếng Anh "sản phẩm của Việt Nam" hoặc "sản
xuất tại Việt Nam", và thực hiện việc ghi đầy đủ cả tên khoa học lẫn tên
thương mại theo đúng quy định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền của Mỹ là Cục Quản lý thực phẩm và Dược phẩm (FDA) đối với sản
phẩm xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Vậy CFA đã dùng những lý do gì để
chống lại việc nhập khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam vào Mỹ?
Sau đây là các luận điểm chính của CFA để chống việc nhập khẩu cá
Tra-Basa của Việt Nam:
 Sự xuất hiện của sản phẩm cá da trơn giá rẻ từ Việt Nam đã

khiến tổng trị giá catfish bán ra của các nhà nông nghiệp Mỹ
giảm mạnh từ 446 triệu USD năm 2000 xuống còn 385 triệu
- 6 -
Vụ kiện bán phá giá cá Tra-Basa – Nguyễn Thế Lạc
USD năm 2001. Sản phẩm của Việt Nam thường có giá rẻ hơn
từ 0,008 đến 1 USD/pound (1 pound khoảng 0,454kg). Như
vậy, việc nhập khẩu cá Tra-Basa ồ ạt vào Mỹ theo CFA đã làm
cho giá cá của Mỹ cũng giảm theo.
 CFA cho rằng cá Việt Nam nuôi trong môi trường nước bị ô
nhiễm, không đảm bảo chất lượng và an toàn cho người tiêu
dùng.
 Việc Việt Nam lấy tên catfish để đặt cho cá da trơn xuất khẩu
vào Mỹ là ăn theo uy tính của Mỹ, cái uy tính mà họ đã tốn đã
tốn bao công sức và tiền của để gây dựng nên.
3.2 Các bên trong vụ kiện
3.2.1 Bên Nguyên đơn: Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ (CFA)
Đại diện cho bên nguyên đơn: Liên doanh Luật Akin Gump Strauss Hauer
& Field LLP, với nhóm luật sư: Valerie A. Slater; J. David Park và Thea D.
Rozman- Louis Thompson, Chủ tịch Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ
– CFA; Hugh Warren, Phó Chủ tịch CFA.
* 8 nhà sản xuất cá catfish:
- Ông Randy Rhodes, Công ty Southern Pride Catfish;
- Kim Cox và Bill Dauler, Công ty Consolidated Catfish;
- Randy Evans, Trại cá nheo Evans Fish;
- Seymour Johnson, Công ty Marie Planting;
- Charles Pilkinton, Trại cá nheo Pilkinton Brothers Catfish.
* 4 công ty chế biến catfish:
- David Pearce, đại diện Hãng Pearce Catfish Farm;
- Danny Walker, đại diện Công ty Heartland Catfish;
- Thomas L. Rogers, đại diện Hãng Capital Trade;

- Daniel W. Klett, đại diện Hãng Capital Trade.
3.2.2 Bên bị đơn: Danh nghiệp thành viên Hiệp hội Chế biến và Xuất
khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP).
Đại diện là: PGS. TS Nguyễn Hữu Dũng, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và
Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam – VASEP
- Ông Ngô Phước Hậu, Tổng giám đốc Công ty XNK Thuỷ sản An
Giang (Agifish);
- Ông Nguyễn Hữu Chí, Phó Vụ trưởng Vụ pháp chế Bộ Thương mại
Việt Nam;
- Christine Ngo, Giám đốc Công ty Thực phẩm quốc tế H&N;
- Matthew Fass, Chủ tịch Tập đoàn Maritime Products International;
- Robin Rackowe, Chủ tịch tập đoàn International Marine Fisheries;
- TS. Carl Ferraris, Học viện Khoa học California;
- 7 -
Vụ kiện bán phá giá cá Tra-Basa – Nguyễn Thế Lạc
- Roger Kratz, Công ty Captain's Table;
- Diệp Hoài Nam, Luật sư của White & Case Vietnam;
- Đại diện Đại sứ quán Việt Nam tại Mỹ là ông Nguyễn Hữu Chí, cùng
nhóm luật sư William J. Clinton, K. Minh Dang, Lyle Vander Schaaf và
Keir A. Whitson.
3.3. Diễn biến chính của vụ kiện:
 Cuối năm 2000, CFA lên tiếng về việc cá tra, basa gia tăng thị phần
đáng kể và có nguy cơ đe dọa ngành catfish Mỹ.
 5/10/2001: Hạ viện Mỹ thông qua dự luật HR 2964 chỉ cho phép sử
dụng tên catfish cho riêng các loài cá nheo Mỹ.
 Cuối năm 2001, CFA tố cáo Việt Nam bán phá giá cá tra, basa vào thị
trường Mỹ.
 Đầu năm 2002, Bộ Thủy sản VN đề nghị FDA công nhận 3 tên
thương mại cho cá tra, basa là Hypo basa, Sutchi basa và trasa.
 13/5/2002, Mỹ ban hành đạo luật trang trại, trong đó có điều khoản

cấm các loại cá da trơn nhập khẩu mang tên catfish.
 28/6/2002, CFA khởi kiện 53 doanh nghiệp VN bán phá giá cá tra,
basa vào Mỹ và yêu cầu chính phủ áp đặt mức thuế phá giá là: 144%
(nếu Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường) hoặc 191% (nếu
Việt Nam là nước phi thị trường).
 3/7/2002 Ủy Ban Thương mại Quốc tế Hoa kỳ (ITC) gởi bản câu hỏi
điều tra cho các doanh nghiệp VN.
 19/7/2002, Vasep và CFA tham dự điều trần trước ITC.
 9/8/2002, ITC bỏ phiếu kết luận: không xác định rằng việc nhập khẩu
cá tra, basa VN gây thiệt hại cho ngành sản xuất cá nheo Mỹ mà chỉ
đe dọa gây thiệt hại.
 13/8/2002, DOC gởi bản câu hỏi điều tra cho 15 doanh nghiệp VN
(thay vì 53 DN như đơn kiện của CFA)
 2- 4/10/2002, phái đoàn DOC sang làm việc với Vasep và 4 doanh
nghiệp bị điều tra trực tiếp.
 8/11/2002, DOC công bố VN là nước có nền kinh tế phi thị trường.
 15/11/2002, CFA đề nghị Bộ Thương mại Hoa kỳ (DOC) áp dụng
biện pháp tình trạng khẩn cấp, có nghĩa áp dụng thuế hồi tố lên các lô
hàng đã vào Mỹ sau ngày 26/10/2002.
 Tháng 12/2002 Vasep chính thức đề nghị DOC dùng Bangladesh làm
nước thay thế để tính chi phí sản xuất.
 27/1/2003, DOC ra phán quyết các doanh nghiệp VN bán phá giá và
đề nghị mức thuế đối với cá tra, basa nhập vào Mỹ là 37,94% -
63,88%.
- 8 -
Vụ kiện bán phá giá cá Tra-Basa – Nguyễn Thế Lạc
 27/2/2003, DOC sửa chửa mức thuế phá giá áp dụng cho các doanh
nghiệp VN.
Mức thuế sau khi DOC đã sửa chữa ngày 27/2/2003
 Từ 17/3/2003 đến 28/3/2003: đoàn thanh tra của DOC gồm 6 chuyên

viên và quan chức chia làm 2 nhóm tiến hành điều tra tại 4 công ty lớn
là: Agifish, Cataco, Navico và Vĩnh Hoàn.
 Tháng 4/2003, Vasep đã phát hành thông cáo báo chí chủ động đề
xuất giải quyết vụ kiện và CFA tuyên bố sẵn sàng thảo luận với
Vasep, tuy chưa đồng ý với tất cả các điều kiện cụ thể do Vasep đưa
ra.
 Tháng 5/2003, thỏa thuận về đình chỉ vụ kiện không thành công.
 17/6/2003, DOC thông qua quyết định cuối cùng về vụ kiện và Vasep
dự phiên điều trần trước ITC.
- 9 -
Vụ kiện bán phá giá cá Tra-Basa – Nguyễn Thế Lạc
Tên công ty Mức trước đây Mức sau khi
sửa
Agifish 61,88% 31,45%
Cataco 41,06% 41,06%
Vinh Hoan 37,94% 37,94%
Navico 53,96% 38,09%
Các cty khác có tham gia vụ kiện 49,16% 36,76%
Các cty không tham gia vụ kiện 63,88% 63,88%
 25/6/2003, Vasep phát hành sách trắng khẳng định VN không bán phá
giá và cho rằng quyết định của DOC không công bằng và mang tính
bảo hộ.
 18/7/2003, DOC công bố sửa đổi biên phá giá.
Quyết định cuối cùng của DOC
 23/7/2003, ITC đưa ra phán quyết sau cùng rằng cá tra, basa VN có
nguy hại đến nền sản xuất catfish Mỹ.
 7/8/2003, DOC chính thức công bố áp đặt thuế chống phá giá đối với
11 danh nghiệp của Việt Nam (theo mức thuế đã được sửa đổi
18/7/2003).
 12/8/2003, lệnh áp thuế bán phá giá của Mỹ có hiệu lực.

 Mức thuế sẽ được xem xét lại hằng năm tùy theo sự đánh giá của
DOC về Việt Nam.
3. 4 Bài học từ vụ kiện này:
 Trước khi xuất một mặt hàng sang thị trường nước khác thì phải hiểu
rõ tập quán thương mại và luật pháp của nước đó. “ Muốn đi vào nền
kinh tế thị trường thì phải biết luật chơi của nó; chơi với Mỹ thì phải biết
luật Mỹ và phải chơi theo kiểu Mỹ”.
 Năng cao sức mạnh tổng hợp bằng việc đẩy mạnh vai trò của hiệp hội
ngành nghề Việt Nam và của các nhà nhập khẩu.
- 10 -
Vụ kiện bán phá giá cá Tra-Basa – Nguyễn Thế Lạc
Tên công ty Mức cũ Mức mới
Agifish 44,76% 47,05%
Cataco 45,55% 45,81%
Vinh Hoan 36,84% 36,84%
Navico 52,90% 53,68%
Các cty khác có tham gia vụ kiện 44,66% 45,55%
Các cty không tham gia vụ kiện 63,88% 63,88%
 Cần tăng cường kiểm tra nghiêm ngặt chất lượng sản phẩm - đảm bảo
chất lượng ổn định, quan tâm đến việc xây dựng và quảng bá thương
hiệu.
 Việc Việt Nam gia nhập WTO là rất cần thiết, giảm thiểu sự chèn ép
và tranh chấp thương mại với các đối thủ.
 Biện pháp vận động hành lang để gây sức ép của công luận đối với
những vụ kiện tương tự là rất cần thiết và mang ý nghĩa thiết thực. Trong
vụ kiện này Việt Nam vẫn chưa sử dụng hiệu quả sự ủng hộ từ dư luận.
 Đối với những mặt hàng có tính cạnh tranh cao, nếu doanh số chiếm
trên 2%/ tổng mức tiêu thụ của thị trường đó thì cần phải có sự kiểm tra
thường xuyên giá cả so với giá của mặt hàng cùng loại của nước sở tại để
điều chỉnh thích hợp, tránh kiện tụng về sau.

 Làm tốt công tác lưu trữ hồ sơ, tài liệu để dễ truy xuất và làm bằng
chứng chứng minh đỡ mất thời gian và công sức.
4. Bước đi của Mỹ từ sau vụ kiện
Từ sau vụ kiện, hằng năm Mỹ đều xem xét lại hành chính mỗi năm để
đưa ra mức thuế chống bán phá giá mới. Năm 2009 vừa qua, đã có một số
công ty được bỏ thuế chống phá giá như Vĩnh Hoàn, Bình An. Tuy nhiên,
năm nay Mỹ lại tăng thuế một cách hết sức bất ngờ, gây ra sự bất bình cho
rất nhiều doanh nghiệp.
“Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam (VASEP) và các
doanh nghiệp hội viên khẳng định rằng, đằng sau quyết định này là những
động cơ chính trị không minh bạch. Nó ra đời do những nỗ lực vận động vụ
lợi của Hiệp hội Chủ trại nuôi cá nheo Mỹ (CFA)”
Đó là nội dung trong thư ngỏ đã được VASEP gửi tới Văn phòng
Chính phủ, thể hiện sự bất bình trước mức thuế chống bán phá giá sơ bộ mà
Bộ Thương mại Mỹ (DOC) đưa ra trong đợt xem xét hành chính lần thứ 6
(POR6), đối với sản phẩm phi lê đông lạnh cá tra của Việt Nam xuất khẩu
vào Mỹ.
Ngày 15/9 vừa qua, thông tin về mức thuế chống bán phá giá có thể
được áp dụng cho sản phẩm cá tra của Việt Nam đã được DOC đưa ra là từ
hơn 100% đến trên 120%. Nếu mức thuế sơ bộ này được thông qua vào
tháng 3/2011, các doanh nghiệp đã xuất khẩu sản phẩm vào Mỹ trong giai
đoạn từ 1/8/2008 đến 31/7/2009 sẽ bị truy thu thuế.
Đối với doanh nghiệp tiếp tục xuất khẩu vào thị trường này sẽ phải
nộp trước số tiền bằng mức thuế đã được áp dụng cho các lô hàng. Như vậy,
cộng thêm thuế chống bán phá giá (với mức cao nhất là 4,22 USD/kg), sản
phẩm cá tra của Việt Nam khi vào thị trường Mỹ mức giá sẽ lên tới 8
USD/kg.
- 11 -
Vụ kiện bán phá giá cá Tra-Basa – Nguyễn Thế Lạc
VASEP phản đối mức thuế trong kết quả sơ bộ này vì DOC đột ngột

thay đổi quốc gia thay thế của Việt Nam, từ Bangladesh thành Philippines
dẫn đến mức thuế bị đẩy lên cao một cách vô lý.
Cụ thể, trong đợt rà soát hành chính lần 6, DOC chỉ dựa vào nguồn số
liệu được thu thập từ 36 bảng trả lời tại Philippines để tính toán giá cá tra
nguyên liệu mà không đưa ra bất kỳ bằng chứng rõ ràng nào về việc ngành
cá tra Philippines đã được cải thiện, phù hợp hơn Bangladesh mà DOC đã
liên tục sử dụng làm giá trị thay thế đối với cá tra Việt Nam trong 5 năm qua.
VASEP khẳng định việc sử dụng số liệu cá tra tại Philippines để tính
toán biên độ phá giá cho cá tra Việt Nam là bất hợp lý. Việt Nam là quốc gia
có ngành công nghiệp sản xuất và xuất khẩu cá tra lớn nhất trên thế giới với
khối lượng trên 1,2 triệu tấn nguyên liệu/năm. Trong khi ngành cá tra của
Philippines rất nhỏ lẻ và sơ khai, quy trình nuôi, chế biến chưa đồng bộ
khiến cho giá thành sản xuất cá tra luôn ở mức cao. Quốc gia này lại không
hề xuất khẩu sản phẩm cá tra như Việt Nam sang bất kỳ thị trường nào.
Sự thiếu khách quan của DOC khi chọn Philippines là quốc gia thay
thế làm giá trị sản xuất đầu vào đối với cá tra Việt Nam thực chất là nhằm
bảo hộ ngành sản xuất cá da trơn nội địa, đi ngược lại tinh thần tự do thương
mại và cạnh tranh bình đẳng trong xu thế toàn cầu hóa ngày càng mở rộng.
Hành động của DOC không chỉ làm ảnh hưởng đến cuộc sống của
hàng triệu nông dân nuôi cá tra tại Việt Nam, mà còn tác động tiêu cực đến
người tiêu dùng và hàng vạn người lao động Mỹ đang làm việc trong lĩnh
vực liên quan đến sản phẩm cá tra nhập khẩu.
Do đó, VASEP yêu cầu khi xem xét và đưa ra quyết định cuối cùng,
DOC phải thực hiện nhất quán trong việc sử dụng Bangladesh làm quốc gia
thay thế để tính giá trị đầu vào đối với cá tra Việt Nam như trước đây.
5. Từ vụ kiện cá đến vụ kiện Tôm
Vụ kiện Tôm là vụ kiện tồi tệ thứ hai của doanh nghiệp Hoa Kỳ đối
với doanh nghiệp Việt Nam.
Đêm ngày 31/12/2003 (giờ Việt Nam), Liên minh Nuôi tôm Miền
Nam Hoa Kỳ (SSA) nộp đơn kiện Trung Quốc, Thái lan, Việt Nam, Ấn độ,

Brazil và Ecuador tội bán phá giá tôm, làm thiệt hại công nghiệp nuôi tôm
Hoa kỳ tới mức độ từ 30 đến 200% (6 quốc gia này đã xuất 75% nhu cầu
tôm của Mỹ). Mặt hàng khởi kiện bao gồm hầu hết các loại sản phẩm tôm
nước ấm, cả đông lạnh và đóng hộp. Đối với Việt Nam, mức thuế yêu cầu áp
đặt là từ 30 - 99%.
Theo SSA, đã có nhiều hình thức tài trợ của nhà nước và của các tổ
chức quốc tế đã khuyến khích quá nhiều cơ sở hạ tầng và kỹ thuật nuôi tôm
tại các quốc gia bị kiện phát triển. do đó, lượng Tôm của các nước này đã
- 12 -
Vụ kiện bán phá giá cá Tra-Basa – Nguyễn Thế Lạc
sản xuất thặng dư kết hợp với chế độ ưu ãi về thuế quan đã khiến Tôm của
các nước này xuất vào Mỹ với giá rẻ mạt. SSA đã nhắc lại sự kiện năm 2002
sản lượng tôm sản xuất ở Mỹ chỉ 560 triệu đôla, đạt bằng phân nữa doanh số
so với năm 2001, và giá tôm bình quân đã bị giảm từ 6,08 đôla xuống 3,30
đôla/pound. Sự thay đổi này đã khiến cho nhiều vùng nuôi tôm Hoa kỳ bị
phá sản, hơn 40% lao động đã bị thất nghiệp.Đối với Việt Nam, mức thuế
yêu cầu áp đặt là từ 30 - 99%.
Theo VSC, các danh nghiệp Việt Nam hoàn toàn không bán phá giá.
Sở dĩ, Tôm Việt Nam có giá thành thấp và sản lượng ngày càng tăng là do
chi phí nhân công thấp, môi trường nuôi trồng và điều kiện tự nhiên thuận
lợi, các nông hộ và các nhà chế biến không ngừng nâng cao công nghệ,
phương tiện kỹ thuật nên Tôm Việt Nam có khả năng cạnh tranh cao trên thị
trường nước ngoài như thị trường Mỹ.
Như vậy, vụ kiện hoàn toàn phi lý, nó chỉ ăn theo tiền lệ của vụ kiện
“catfish”.
Theo VSC : “Theo tiền lệ của vụ kiện chống bán phá giá philê đông
lạnh cá tra, cá basa Việt Nam, tiếp tục lợi dụng chính sách bảo hộ mậu dịch
ngày càng gia tăng của Chính phủ Hoa Kỳ, SSA đã cố tình tiến hành vụ kiện
"chống bán phá giá tôm" phi lý đối với 6 nước, trong đó có Việt Nam, nhằm
cứu vãn ngành công nghiệp khai thác tôm nội địa đang đi đến bờ vực phá

sản do công nghệ thấp, chi phí cao và cạnh tranh kém.”
Doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu tôm Việt Nam không nhận bất cứ
sự tài trợ nào từ Chính phủ Việt Nam; hoạt động kinh doanh theo Luật
Doanh nghiệp Việt Nam và theo thông lệ luật pháp quốc tế, tự chịu rủi ro và
đóng thuế đầy đủ theo quy định của Chính phủ, không khác gì các doanh
nghiệp đồng nghiệp ở các nước và ở Hoa Kỳ.
Quyết định cuối cùng của Mỹ
Tháng 11/2004 Bộ Thương mại Mỹ đã ra quyết định cuối cùng, trong
đó cho rằng Việt Nam và Trung Quốc đang bán phá giá tôm đông lạnh và
đóng hộp trên thị trường Mỹ. Bộ này tách Trung Quốc và Việt Nam ra khỏi
các nước xuất khẩu tôm khác, do coi hai nước này là các nền kinh tế không
thị trường (NME). Mức thuế chống bán phá giá cuối cùng đối với các nhà
xuất khẩu tôm Việt Nam được ấn định từ 4,13% đến 25,76%.
Một cuộc điều tra riêng rẽ khác của Bộ Thương mại Mỹ cũng phán
quyết các nhà xuất khẩu tôm Brazil, Ecuador, Ấn Độ và Thái Lan cũng bán
phá giá.
Hướng đi của Việt Nam
- 13 -
Vụ kiện bán phá giá cá Tra-Basa – Nguyễn Thế Lạc
Việt Nam đã quyết định kiện vụ Mỹ áp thuế phá giá tôm lên WTO.
Đây là lần đầu tiên Việt Nam khởi xướng vụ kiện tranh chấp kể từ khi gia
nhập WTO tháng 1/2007.
Không phải chỉ riêng Việt Nam kiện Mỹ về vụ áp thuế phá giá Tôm
mà trước đó, Ecuador và Thái Lan là hai nước đã khởi xướng vụ kiện tranh
chấp này lên WTO, tố cáo Bộ Thương mại Mỹ đã sử dụng bất hợp pháp
phương pháp được biết là zêro (O) trong điều tra. Phương pháp này thổi
phồng một cách giả tạo biên lợi phá giá hoặc tạo ra các biên lợi phá giá mà
không ai phát hiện ra.
6. Nhìn nhận về hai vụ kiện
Như vậy, khi nhìn lại hai vụ kiện của Mỹ đối với Việt Nam ta thấy

chúng có rất nhiều điểm chung.
Cả hai vụ này Mỹ đều kiện ta vì cho rằng chúng ta đã bán phá giá các
mặt hàng cá Tra, Basa và Tôm vào thị trường Mỹ. Do dó, đã làm thiệt hại
lớn đến các nghành sản xuất các mặt hàng tương tự hiện có của nước Mỹ.
Đối với vụ kiện cá Tra, Basa Việt Nam đã có những yếu thuế hơn so
với Mỹ. Do Việt Nam lúc ấy vẫn chưa có kinh nghiệm đối phó với những vụ
liện thương mại lớn như vậy. Các danh nghiệp Việt Nam vẫn chưa nắm rõ
được “luật chơi”, cũng như “cách chơi” theo kiểu của Mỹ. Lại thêm nữa, lúc
này Việt Nam vẫn chưa gia nhập WTO nên bị Mỹ coi là nước phi kinh tế thị
trường, bị đánh thuế phá giá rất nặng.
Đến vụ kiện Tôm, Việt Nam đã có sự chuẩn bị từ trước do đã có kinh
nghiệm từ vụ kiện trước. Lại thêm việt Nam đã gia nhập WTO vào năm
2007, tạo thêm lợi thế trên các vụ kiện thương mại quốc tế.
Nhìn chung cả hai vụ kiện này, phía Việt Nam đều nhận được rất
nhiều sự quan tâm và giúp đỡ của các đối tác nước ngoài (nhất là của danh
nghiệp Mỹ) và cộng đồng quốc tế.
- 14 -
Vụ kiện bán phá giá cá Tra-Basa – Nguyễn Thế Lạc

×