Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

ĐỀ án kế TOÁN dự PHÒNG PHẢI THU KHÓ đòi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.8 KB, 16 trang )

1
PHẦN I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA KẾ TOÁN DỰ PHÒNG NỢ PHẢI THU KHÓ ĐÒI.
1. Khái niệm về dự phòng và dự phòng nợ phải thu khó đòi.
1.1 Khái niệm về dự phòng:
Dự phòng thực chất là việc ghi nhận trước một khản chi phí thực tế chưa thực chi
và chi phí kinh doanh, chi phí đầu tư tài chính của niên độ báo cáo để có nguồn tài
chính cần thiết bù đắp những thiệt hại có thể sẽ xảy ra trong niên độ lần sau. Dự phòng
làm tăng tổng chi phí, do vậy nó đồng nghĩa với sự tạm thời giảm thu nhập ròng của
niên độ báo cáo – niên độ lập dự phòng.
1.2 Khái niệm về dự phòng nợ phải thu khó đòi:
Là dự phòng phần giá trị bị tổn thất của các khoản nợ phải thu quá hạn thanh toán,
nợ phải thu chưa quá hạn thanh toán nhưng có thể không đòi được do khách nợ không
có khả năng thanh toán.
2. Mục đích của việc lập dự phòng nợ phải thu khó đòi.
- Đề phòng nợ phải thu thất thu khi khách hàng không có khả năng trả nợ.
- Xác định giá trị thực của một khoản tiền nợ phải thu trên lập các báo cáo tài chính
năm báo cáo.
3. Các quy định về hạch toán.
- Để đề phòng những tổn thất về các khoản nợ phải thu khó đòi có thể xảy ra, hạn
chế những rủi ro về kết quả kinh doanh trong kỳ kế toán (bảo đảm phù hợp giữa doanh
thu và chi phí trong kỳ), cuối mỗi niên độ kế toán doanh nghiệp phải xác định các
khoản nợ phải thu khó đòi hoặc có khả năng không đòi được để tính trước hoặc ghi
giảm chi phí quản lý doanh nghiệp.
- Về nguyên tắc căn cứ lập dự phòng là phải có những bằng chứng đáng tin cậy về
các khoản nợ phải thu khó đòi (khách hàng bị phá sản hoặc bị tổn thất, thiệt hại lớn về
tài sản, nên không hoặc có khả năng thanh toán, đơn vị đã làm thủ tục đòi nợ nhiều
lần vẫn không thu được nợ). Theo quy định hiện hành thì các khoản phải thu được coi
là khoản phải thu khó đòi phải có các bằng chứng chủ yếu dưới đây:
+ Số tiền phải thu theo dõi được cho từng đối tượng, theo từng nội dung, từng
khoản nợ, trong đó ghi rõ số nợ phải thu khó đòi.


2
+ Phải có chứng từ gốc hoặc giấy xác nhận của khách nợ về số tiền còn nợ chưa trả
bao gồm: Hợp đồng kinh tế, khế ước vay nợ, bản thanh lý hợp đồng, cam kết nợ, đối
chiếu công nợ
- Căn cứ để được ghi nhận là một khoản nợ phải thu khó đòi là:
+ Nợ phải thu quá hạn thanh toán ghi trong hợp đồng kinh tế, các khế ước vay nợ,
bản cam kết hợp đồng hoặc cam kết nợ, doanh nghiệp đã đòi nhiều lần nhưng vẫn chưa
thu được.
+ Nợ phải thu chưa đến thời hạn thanh toán nhưng khách nợ đã lâm vào tình trạng
phá sản hoặc đang làm thủ tục giải thể, mất tích, bỏ trốn.
- Mức lập dự phòng các khoản nợ phải thu khó đòi theo quy định của chế độ kế tài
chính doanh nghiệp hiện hành.
- Đối với những khoản phải thu khó đòi kéo dài trong nhiều năm, doanh nghiệp đã
cố gắng dung mọi biện pháp để thu nợ nhưng vẫn không thu được nợ và xác định
khách nợ thực sự không có khả năng thanh toán thì doanh nghiệp có thể phải làm các
thủ tục bán nợ cho công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng hoặc xóa những khoản nợ
phải thu khó đòi trên sổ kế toán. Nếu làm thủ tục xóa nợ thì đồng thời phải theo dõi chi
tiết ở TK 004 - Nợ khó đòi đã xử lý (tài khoản ngoài Bảng Cân đối kế toán). Việc xóa
các khoản nợ phải thu khó đòi phải được sự đồng ý của Hội đồng quản trị doanh
nghiệp và cơ quan quản lý tài chính (Nếu là doanh nghiệp Nhà nước) hoặc cấp có thẩm
quyền theo quy định trong điều lệ doanh nghiệp. Số nợ này được theo dõi trong thời
hạn quy định của chính sách tài chính, chờ khả năng có điều kiện thanh toán số tiền thu
được về nợ khó đòi đã xử lý. Nếu sau khi đã xóa nợ, khách hàng có khả năng thanh
toán và doanh nghiệp đã đòi được nợ đã xử lý (Đươc theo dõi trên TK 004 - Nợ khó
đòi đã xử lý) thì số nợ thu được sẽ hạch toán vào Tài khoản 711 - Thu nhập khác.
4. Vai trò của việc lập dự phòng nợ phải thu khó đòi.
4.1.Trên phương diện kinh tế:
Nhờ các tài khoản dự phòng giảm giá nói chung trong đó đặc biệt là tài khoản
phản ánh dự phòng nợ phải thu khó đòi mà bảng cân đối kế toán phản ánh chính xác
hơn giá trị thực tế tài sản của doanh nghiệp. Giá trị thực tế tài sản của doanh nghiệp

được xác định như sau:
3
Giá trị thực tế của
tài sản
= Giá trị ghi sổ của tài
sản
- Dự phòng giảm giá tài
sản lập
4.2. Trên phương diện tài chính.
Do dự phòng nợ phải thu khó đòi làm giảm lợi nhuận của niên độ kế toán nên
doanh nghiệp sẽ có được một khoản tích lũy mà đáng lẽ đã được phân chia cho các cổ
đông, các chủ sở hữu, Khoản tích lũy này được sử dụng để bù đắp các khoản nợ phải
thu khó đòi thực sự phát sinh và tài trợ cho các khoản chi phí hay lỗ đã được dự phòng
khi các chi phí này phát sinh ở niên độ kế toán sau. Thực chất dự phòng nợ phải thu
khó đòi nói riêng và các khoản dự phòng nói chung là một nguồn tài chính của doanh
nghiệp, tạm thời nằm trong các tài sản lưu động trước khi được sử dụng thực sự.
4.3. Trên phương diện thuế:
Dự phòng nợ phải thu khó đòi được ghi nhận như một khoản chi phí hợp lý trước
thuế, làm giảm lợi nhuận phát sinh để tính ra số lợi nhuận thực tế. Vì vậy, việc lập dự
phòng sẽ làm cho thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của đơn vị giảm xuống một
lượng đáng kể. Đây là nguồn tài chính có được nhờ việc lập dự phòng, trì hoãn việc
nộp thuế, không mất chi phí huy động, doanh nghiệp có thể đầu tư vào hoạt động sản
xuất kinh doanh để sinh lời.
5. Kế toán dự phòng nợ phải phải thu khó đòi theo chuẩn mực kế toán quốc tế và
kinh nghiệm ở một số nước.
5.1. Những quy định chung của chuẩn mực kế toán quốc tế về trích lập dự phòng
nợ phải thu khó đòi
Chuẩn mực kế toán quốc tế là một hệ thống các nguyên tắc kế toán, trình bày
BCTC, các quy định về kế toán được chấp nhận rộng rãi trên toàn thế giới do IASB
ban hành vầ thường xuyên nghiên cứu cập nhật, bổ sung.

Theo chuẩn mực kế toán quốc kế ISA 37: một khoản dự phòng chỉ được ghi nhận
khi thỏa mãn các điều kiện sau:
Thứ nhất, DN có nghĩa vụ nợ (trách nhiệm pháp lý hoặc trách nhiệm liên đới) do kết
quả từ một sự kiện đã xảy ra, dẫn tới sự giảm sút lợi ích kinh tế có thể xảy ra, giá trị
của nghĩa vụ nợ đó có thể được ước tính một cách đáng tin cậy.
4
Thứ hai, giá trị ghi nhận một khoản dự phòng phải là giá trị được ước tính hợp lý về
khoản tiền sẽ phải chi để thanh toán nghĩa vụ nợ hiện tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm.
Thứ ba, các khoản dự phòng phải được xem xét và điều chỉnh tại mỗi thời điểm kết
thúc kỳ kế toán năm để phản ánh ước tính chính xác nhất tại thời điểm hiện tại.
Ngoài ra, ISA 37 quy định rõ không được ghi nhận các khoản dự phòng cho lỗ
hoạt động trong tương lai.
5.2. Kế toán về trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi tại một số nước trên thế giới.
5.2.1. Hạch toán dự phòng nợ phải thu khó đòi ở các nước Tây Âu.
Theo một số nước Tây Âu thì doanh nghiệp trích lập dự phòng giảm giá khỏan
phải thu khách hàng vào cuối niên độ kế toán. Theo đó phương pháp lập và hoàn nhập
dự phòng được tiến hành như sau:
Kế toán tiến hành kiểm kê các khoản khách hàng đang nợ tiền của doanh nghiệp
và phân loại thành 2 nhóm:
+ Khách hàng nghi ngờ là khách hàng lâm vào tình trạng phá sản, khó khăn về tài
chính,
+ Khách hàng tin cậy là khách hàng thanh toán tốt.
Tiếp đến kế toán lập dự phòng cho các khách hàng nghi ngờ trên cơ sở đánh giá
khả năng mất (không đòi được) và số tiền khách hàng nợ ngoài thuế giá trị gia tăng
theo công thức:
Số dự phòng nợ
phải thu khó đòi
= Số nợ ngoài thuê của
khách hàng nghi ngờ.
* Số % có khả năng mất

nợ
Số dự phòng đã lập cho nợ phải thu khó đòi nếu không xảy ra thì được hoàn nhập
làm tăng thu nhập của doanh nghiệp.
5.2.2. Hạch toán dự phòng nợ phải thu khó đòi ở Mỹ.
Như chúng ta đã biết, hạch toán nợ khó đòi phải tuân thủ theo nguyên tắc phù hợp
giữa doanh thu và chi phí. Theo đó, chi phí nợ khó đòi phải được phản ánh trên báo cáo
thu nhập cùng kỳ kế toán với doanh thu được ghi nhận. Do vậy, doanh nghiệp phải ước
tính khoản chi phí nợ khó đòi để đưa vào chi phí trong kỳ. Có hai phương pháp ước
tính nợ khó đòi như sau:
a. Phương pháp ước tính nợ khó đòi đưa vào thu nhập.
5
Phương pháp này dựa trên quan điểm cho rằng trong kỳ sẽ có một tỷ lệ nhất định
doanh thu bán chịu không thu được tiền và số nợ khó đòi được ước tính dựa trên tỷ lệ
nợ khó đòi trên doanh thu bán chịu của kỳ trứơc.
Chi phí nợ khó đòi ước tính = Doanh thu bán chịu * Tỷ lệ nợ khó đòi
Tỷ lệ nợ khó đòi được ước tính là số bình quân tỷ lệ thiệt hại của các năm trước đó.
b. Phương pháp ước tính nợ khó đòi dựa vào bảng cân đối kế toán.
Phương pháp này dựa trên quan điểm cho rằng một phần của khoản phải thu vào
ngày lập bảng cân đối kế toán sẽ trở thành nợ khó đòi.
+ Phương pháp giản đơn:
Với phương pháp này, doanh nghiệp ước tính có một tỷ lệ nhất định các khoản
phải thu hiện có vào thời điểm cuối kỳ sẽ trở thành nợ khó đòi. Tỷ lệ ước tính này dựa
trên kinh nghiệm của các doanh nghiệp hoạt động trong cùng lĩnh vực. Chi phí nợ khó
đòi ước tính cuối kỳ được xác định như sau:
Chi phí nợ khó đòi = Số dư khoản phải thu cuối kỳ * Tỷ lệ nợ khó đòi ước tính.
+ Phương pháp theo thời gian nợ của từng khách nợ:
Phương pháp này theo dõi chi tiết thời gian nợ của từng khách hàng qua đó xây
dựng tỷ lệ nợ khó đòi cho từng khoảng thời gian cụ thể . Nguyên tắc chung của phương
pháp này là thời gian nợ quá hạn càng lớn thì tỷ lệ nợ khó đòi càng cao.
Khi một khoản nợ khó đòi đã được lập dự phòng chắc chắn không thể thu hồi

được, kế toán tiến hành xóa sổ khoản nợ này như sau:
Nợ TK “Dự phòng nợ khó đòi”
Có TK “ Các khoản phải thu”
Nếu sau khi doanh nghiệp đã xóa sổ một khoản nợ khó đòi đã lập dự phòng mà
khách hàng thnah toán nợ, nếu cùng niên độ kế toán ghi:
+ Bút toán 1: Hoàn nhập khoản phải thu khách hàng đã xóa sổ:
Nợ TK “Phải thu khách hàng”
Có TK “Dự phòng nợ khó đòi”
+ Bút toán 2: Ghi nhận số tiền thu được từ khách hàng:
Nợ TK “tiền”
Có TK “Phải thu khách hàng”
Nếu khác niên độ kế toán thì hạch toán tăng thu nhập:
Nợ TK “ Tiền”
Có TK “ Thu nhập từ nợ khó đòi”
Ngoài ra, kế toán có thể sử dụng phương pháp trực tiếp. Phương pháp này giả
định rằng mọi doanh nghiệp đều sẽ thu được tiền trừ khi có bằng chứng khác. Khi
6
doanh nghiệp biết chắc chắn rằng một số khoản phải thu không thể thu hồi được thì
doanh nghiệp có thể xóa sổ trực tiếp khoản nợ đó.
5.2.3. So sánh giữa kế toán Việt Nam với các nước.
Tại Việt Nam, hệ thống chuẩn mực kế toán hiện hành do Bộ Tài chính ban hành
được Hiệp hội kế toán và kiểm toán Việt Nam đánh giá là đã tuân thủ khoảng 95%
chuẩn mực kế toán quốc tế. Tuy nhiên, với mỗi nước có đặc điểm kinh tế, chính trị, văn
hóa khác nhau nên việc hạch toán kế toán cũng có sự khác nhau cơ bản.
5.2.3.1.So sánh với kế toán Pháp.
Có thể nói kế toán dự phòng ở Việt Nam đi theo xu hướng giống kế toán Pháp, cụ
thể là về điều kiện trích lập, cách xử lý dự phòng, trích lập thêm Ví dụ, việc hoàn
nhập dự phòng của Pháp được ghi tăng thu nhập và Việt Nam cũng vậy (được ghi tăng
thu nhập liên quan). Tuy nhiên,việc hạch toán của Pháp rất chi tiết (thể hiện trên hệ
thống tài khoản):

- Khi chuyển khách hàng sang khó đòi:
Nợ TK 416: số nợ có thuế
Có TK 411: phải thu khách hàng
- Tiến hành lập dư phòng:
Lập dự phòng theo khả năng không thanh toán được của khách hàng
Mức dự phòng cần lập=tổng nợ phải thu khó đòi không có thuế*khả năng bị mất(%)
Nợ TK 681:chi phí dự phòng
Có TK 419: Dự phòng giảm giá tài khoản khách hàng
- Đối với những khách hàng đã lập dự phòng mà chắc chắn không thu hồi được
+ Bút toán 1: Phản ánh số nợ bị mất vào chi phí:
Nợ TK654: Số nợ bị mất không thuế.
Nợ TK 4455: Thuế GTGT của số nợ bị mất
Có TK 416: Số nợ có thuế
+ Bút toán 2: Hoàn nhập dự phòng đã lập để bù đắp thiệt hại
Nợ TK 419: Mức dự phòng đã lập
Có TK 781: Hoàn nhập mức dự phòng đã lập
- Đối với khách hàng chưa lập dự phòng mà chắc chắn không thu hồi được:
Nợ TK 654: Số nợ bị mất không thuế
Nợ TK4455: Thuế GTGT của số nợ bị mất
Có TK 411: Số nợ bị mất có thuế.
Như vậy, có thể nói dựa trên chuẩn mực kế toán quốc tế chung, ở mỗi quốc gia
khác nhau lại áp dụng phương pháp hạch toán khác nhau tùy theo đặc điểm kinh tế,
chính trị, xã hội, nguồn nhân lực cũng như trình độ chung…của đất nước mình.
7
Với dự phòng nợ phải thu khó đòi,nói chung việc lập dự phòng tại Pháp và Việt
Nam tương đối giống nhau về mục đích, thời điểm lập dự phòng, nhưng cụ thể thì lại
có điểm khác biệt.
Với kế toán Pháp cũng như Việt Nam, MDF nợ khó đòi được tính như sau:
MDF phải thu khó đòi = Số nợ phải thu khó đòi x Số % có khả năng mất
Tuy nhiên, Pháp tính trên cơ sở số nợ phải thu ngoài thuế vì họ quan niệm rằng:

thuế của hàng mua - bán chỉ là thuế trả hộ, thu hộ nhà nước. Vì thế, phần thuế của
khoản phải thu khó đòi bị mất sẽ do Nhà nước chịu. Còn Việt Nam lại tính trên số có
thuế, tức là DN phải chịu thêm % trên số thuế bị mất.
Điều này rõ ràng là thiệt cho DN. Nhưng tại sao lại vẫn để như thế. Mọi người
đều chung ý kiến rằng trong điều kiện hiện nay, việc kiểm soát thuế VAT phải nộp còn
nhiều hạn chế, tốt nhất là chưa nên thực hiện sửa đổi như đối với kế toán Pháp được,
nếu không sẽ phải đối mặt với nguy cơ thất thu thuế, chưa kể tới những việc gian lận
thuế có rất nhiều khả năng xảy ra.
Ngoài ra, khi lập dự phòng, Việt Nam và Pháp đều ghi tăng chi phí. Nhưng tới lúc
hoàn nhập thì theo cả chuẩn mực và các thông tư trước đây đều hướng dẫn trực tiếp ghi
giảm chi phí.
5.2.3.2.So sánh với kế toán Mỹ.
5.2.3.2.1.Phương pháp xác định ở Việt Nam.
Khi có bằng chứng chắc chắn về khoản nợ phải thu có thể thất thu phù hợp với
quy định trong chế độ tài chính hiện hành, doanh nghiệp tính toán số dự phòng cần
phải lập theo một trong các cách sau:
Cách 1: Có thể ước tính một tỉ lệ nhất định (theo kinh nghiệm) trên tổng doanh số thực
hiện bán chịu: Số dự phòng phải lập = Doanh số phải thu * Tỉ lệ ước tính
Cách 2: Dựa trên tài liệu hạch toán chi tiết các khoản nợ phải thu của từng khách hàng,
phân loại theo thời hạn ghi nợ. Các khách hàng quá hạn được xếp loại khách hàng khó
đòi, nghi ngờ. Doanh nghiệp cần thông báo cho khách hàng và trên cơ sở thông tin
phản hồi từ khách hàng, kể cả bằng phương pháp xác minh, để xác định số dự phòng
cần lập theo số % có khả năng mất (thất thu):
Dự phòng phải thu khó đòi cần lập = nợ phải thu khó đòi * số % có khả năng mất.
8
Dự phòng nợ phải thu khó đòi hạch toán là chi phí quản lý doanh nghiệp, nếu hòa nhập
hạch toán là thu nhập khác.
5.2.3.2.2. Các phương pháp xác định ở Mỹ.
Khi doanh nghiệp áp dụng chính sách bán hàng tín dụng nhằm mục đích tăng
doanh thu và lợi nhuận thì doanh nghiệp phải chấp nhận một sự rủi ro nhất định đối với

các khoản phải thu khách hàng. Khi doanh nghiệp thực sự không thu được tiền từ
khách hàng thì các khoản nợ khó đòi trở thành chi phí của doanh nghiệp. Hạch toán nợ
khó đòi phải tuân thủ theo nguyên tắc phù hơp giữa doanh thu và chi phí.
Có thể ước tính một khoản nợ khó đòi, doanh nghiệp phải dựa trên số liệu chi tiết
các khoản phải thu khách hàng, thời hạn tín dụng và tình hình tài chính của từng khách
hàng cụ thể. Ngoài ra doanh nghiệp còn phải căn cứ vào tình hình thanh toán kỳ trước
để ước tính mức nợ khó đòi hợp lý. Có 2 phương pháp ước tính chi phí nợ khó đòi như
sau:
Cách 1: Phương pháp ước tính nợ khó đòi dựa vào báo cáo thu nhập:
Chi phí nợ khó đòi ước tính = doanh thu bán chịu * tỉ lệ nợ khó đòi.
Cách 2: Phương pháp ước tính nợ khó đòi dựa vào bảng cân đối kế toán:
- Phương pháp giản đơn:
Chi phí nợ khó đòi ước tính = số dư khoản phải thu cuối kỳ * tỉ lệ nợ khó đòi
- Phương pháp theo thời gian nợ của từng khách nợ:
Cả hai phương pháp ước tính nợ khó đòi dựa vào báo cáo thu nhập và phương
pháp giản đơn dựa vào bảng cân đối kế toán đều dựa vào kinh nghiệm để ước tính chi
phí nợ khó đòi vì vậy kết quả thu được thường thiếu chính xác. Vì vậy kế toán có thể
sử dụng một phương pháp ước tính có độ chính xác cao hơn đó là phương pháp ước
tính nợ khó đòi theo thời gian nợ của từng khách hàng. Đây là phương pháp theo dõi
chi tiết thời gian nợ của từng khách hàng qua đó xây dựng tỉ lệ nợ khó đòi cho từng
khoảng thời gian cụ thể. Nguyên tắc chung của phương pháp này là thời gian nợ quá
hạn càng lớn thì tỉ lệ nợ khó đòi càng cao.
Từ các phương pháp của hai nước ta thấy, kế toán Mỹ hướng dẫn và khuyến khích
các doanh nghiệp trích lập dự phòng theo phương pháp ước tính. Còn ở Việt Nam khi
các khoản nợ đã quá hạn hay xác định là không thể thu hồi được mới lập dự phòng,
điều này vi phạm nguyên tắc phù hợp, làm cho doanh nghiệp không tự chủ về mặt tài
9
chính, tuy nhiên đây lại là một phương pháp cực kỳ đơn giản phù hợp với điều kiện
thực tế hiện nay ở Việt Nam.
Theo kế toán Mỹ việc ghi nhận một khoản khách hàng trả nợ cho khoản nợ đã xóa

sổ được ghi nhận khác biệt giữa cùng niên độ kế toán và khác niên độ kế toán:
+ Nếu cùng niên độ kế toán thì ghi đảo bút toán xóa sổ sau đó ghi nhận việc thu
tiền của khách hàng như bình thường.
+ Nếu khác niên độ kế toán thì ghi nhận khoản tiền thu được như thu nhập khác.
PHẦN II
THỰC TRẠNG VỀ VIỆC LẬP DỰ PHÒNG NỢ PHẢI THU KHÓ ĐÒI Ở VIỆT
NAM.
1.Chế độ kế toán hiện hành về lập dự phòng nợ phải thu khó đòi ở Việt Nam .
1.1. Khái quát chung về hệ thống văn bản kế toán dự phòng nợ phải thu khó đòi.
Các khoản dự phòng (dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng phải thu khó đòi, dự
phòng giảm giá chứng khoản) lần đầu tiên được đề cập trong thông tư 64/TC/TCDN
ngày 15/9/1997 của bộ tài chính hướng dẫn việc trích lập và sử dụng các quỹ dự phòng
trong doanh nghiệp. Tiếp đó là thông tư 107/2001/TT-BTC ra ngày 31/12/2001thay thế
cho thông tư 64/TC/TCDN về hướng dẫn chế độ trích lập và sử dụng các khoản dự
phòng trong các doanh nghiệp cùng với thông tư 55/2002/TT/BTC ngày 26/6/2002về
hướng dẫn chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam áp dụng cho doanh nghiệp, các tổ
chức có vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Tiếp đó được thay thế bằng thông tư
số 13/2006/TT-BTC ngày 27/2/2006 hướng dẫn kế toán dự phòng phải thu khó đòi đối
với các doanh nghiệp. Và mới đây nhất là thông tư 228/2009/TT-BTC ngày 07/12/
10
2009 bổ sung và thay thế các thông tư cũ. Đây chính là thông tư hiện hành về chế độ kế
toán dự phòng phải thu khó đòi hiện nay ở Việt Nam.
2.Hạch toán dự phòng nợ phải thu khó đòi theo chế độ kế toán Việt Nam hiện
hành.
2.1. Nguyên tắc và nhiệm vụ hạch toán.
Kế toán dự phòng nợ phải thu khó đòi phải ghi chép, phản ánh kịp thời, đầy đủ và
chính xác các khoản nợ phải thu theo từng đối tượng, thời hạn của từng đối tượng.
Đồng thời phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc khách hàng thanh toán đúng hạn. Nếu
lập dự phòng thì phải dựa vào chế độ hiện hành để tính mức trích lập dự phòng.
2.2. Tài khoản sử dụng.

Tài khoản: 139 – “Dự phòng nợ phải thu khó đòi”.
Tài khoản này dùng để phản ánh việc tình hình trích lập, sử dụng và hoàn nhập
khoảndự phòng các khoản phải thu khó đòi hoặc có khả năng không đòi được vào cuối
niên độ kế toán. Kết cấu tài khoản như sau:
TK 139
- Hoàn nhập số dự phòng nợ phải - Số dự phòng nợ phải thu khó đòi
thu khó đòi. được lập tính vào chi phí quản lý
- Xóa các khoản nợ phải thu khó doanh nghiệp.(6426)
đòi (131,1388).
Số dư có: Số dự phòng các khoản
nợ phải thu khó đòi hiện có cuối kỳ.
Tài khoản 004 – “Nợ khó đòi đã xử lý”.
Tài khoản này dùng để phản ánh các khoản nợ phải thu khó đòi đã được xóa sổ
nhưng cần theo dõi để tiếp tục đòi nợ.
TK 004
- Số nợ khó đòi đã được xóa - Số đã thu về các khoản nợ khó đòi.
sổ trong Bảng cân đối kế toán - Số nợ khó đòi được xóa sổ không
để tiếp tục theo dõi ngoài Bảng. theo dõi ngoài bảng cân đối kế toán.
11
Số dư nợ: Số còn phải thu về
nợ khó đòi cần tiếp tục theo dõi.
2.3. Phương pháp hạch toán.
TK 131, 138 TK 139 TK 6426.
31/12: Hoàn nhập khoản dự phòng 31/12: Tính lập dự phòng
phải thu khó đòi. phải thu khó đòi.
(Theo số chênh lệch phải lập kỳ này nhỏ (Theo số chênh lệch phải lập kỳ
hơn số đã lập kỳ trước chưa sử dụng hết) này lớn hơn số đã lập kỳ trước
chưa sử dụng hết).

TK 131, 138

Xóa số nợ phải thu khó đòi
(Nếu đã lập dự phòng).
Đồng thời ghi tăng 004

Xóa sổ nợ phải thu khó đòi. (Nếu chưa lập dự phòng).
Đồng thời ghi tăng 004
Sơ đ ồ : hạch toán dự phòng nợ phải thu khó đòi.
PHẦN III
KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KẾ TOÁN DỰ PHÒNG NỢ PHẢI
THU KHÓ ĐÒI.
1.Sự cần thiết phải hoàn thiện kế toán dự phòng nợ phải thu khó đòi.
Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp đã thấy rõ được vai trò quan trọng
của việc trích lập dự phòng, chú trọng hơn đến việc đánh giá, phân loại nợ vào cuối
12
quý, cuối năm trước khi lập báo cáo tài chính. Việc trích lập dự phòng được thực hiện
tương đối nghiêm túc, sát với tình hình nợ thực tế của doanh nghiệp. Tuy nhiên, bên
cạnh đó thì có một số doanh nghiệp chưa thực hiện việc trích lập dự phòng nợ phải thu
khó đòi. Có thể bản thân doanh nghiệp chưa nắm bắt hết được vai trò của dự phòng nợ
phải thu khó đòi đối với khả năng chủ động về tài chính của doanh nghiệp, chưa tuân
thủ nguyên tắc thận trọng khi doanh nghiệp trong một môi trường cạnh tranh khốc liệt
đầy rủi ro như hiện nay.
Bên cạnh đó, Việt Nam là nước có nền kinh tế kém phát triển so với thế giới, trình
độ khoa học, kỹ thuật còn lạc hậu, trong quá trình phát triển chúng ta đã thu được
những thành tựu nhất định nhưng cũng còn tồn tại nhiều hạn chế. Không ngừng cập
nhật thông tin, tự đổi mới để hoàn thiện mình là vấn đề được quan tâm hàng đầu.
2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện kế toán dự phòng nợ phải thu khó đòi trong
các doanh nghiệp.
Từ việc so sánh giữa kế toán Việt Nam với kế toán các nước khác trong việc hach
toán dự phòng nợ phải thu khó đòi, chúng ta đã thấy được những ưu, nhược điểm của
kế toán dự phòng nợ phải thu khó đòi của Việt Nam. Để phát huy những ưu điểm đồng

thời khắc phục những hạn chế còn tồn tại, em xin phép mạnh dạn đưa ra một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện kế toán dự phòng nợ phải thu khó đòi ở Việt Nam như sau:
2.1. Hoàn thiện những quy định chung về trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi.
Thứ nhất, về phạm vi trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi
Hiện nay, mô hình các công ty mẹ - con ngày càng trở nên phổ biến, do đó phát
sinh nhiều khoản chi hộ và thu hộ. Vì vậy, doanh nghiệp nên xem xét đến các khoản
phải thu nội bộ. Khi các khoản phải thu nội bộ được xếp vào diện nợ khó đòi thì các
đơn vị chủ nợ vẫn nên trích lập dự phòng vì đây cũng là một rủi ro có thể xảy ra đối
với doanh nghiệp.
Thứ hai, về cơ sở trích lập dự phòng phải thu khó đòi.
So sánh với các nước Tây Âu ta thấy, khoản nợ phải thu khó đòi làm cơ sở để
trích lập dự phòng ở Việt Nam không loại trừ thuế, còn các nước Tây Âu loại trừ thuế
GTGT trước khi tính dự phòng phải trích lập. Thuế GTGT đầu ra là một khoản mà
doanh nghiệp thu hộ cho cơ quan thuế. Nó không phải là doanh thu cũng không phải là
13
chi phí của doanh nghiệp. Do đó, trong trường hợp này, doanh nghiệp không được
phép trích phí vào dự phòng nợ phải thu khó đòi.
Ngoài ra, khách nợ không thanh toán tiền đúng thời hạn thanh toán là một hình
thức chiếm dụng vốn bất hợp pháp. Nhưng doanh nghiệp lại phải chịu các chi phí liên
quan đến khoản tiền đó. Lạm phát ảnh hưởng trọng yếu đến giá trị của tiền, đến tổng
nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó vừa để thúc đẩy việc thanh toán các
khoản nợ, vừa góp phần bảo toàn giá trị vốn kinh doanh của mình, doanh nghiệp nên
tính lãi cho các khoản nợ phải thu khó đòi, tối thiểu là bằng tỷ lệ lạm phát và nên cho
phép doanh nghiệp trích dự phòng trên tổng nợ gốc và lãi đó.
Ngoài ra, khách nợ không thanh toán tiền đúng thời hạn thanh toán là một hình
thức chiếm dụng vốn bất hợp pháp. Nhưng doanh nghiệp lại phải chịu các chi phí liên
quan đến khoản tiền đó. Lạm phát ảnh hưởng trọng yếu đến giá trị của tiền, đến tổng
nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó vừa để thúc đẩy việc thanh toán các
khoản nợ, vừa góp phần bảo toàn giá trị vốn kinh doanh của mình, doanh nghiệp nên
tính lãi cho các khoản nợ phải thu khó đòi, tối thiểu là bằng tỷ lệ lạm phát và nên cho

phép doanh nghiệp trích dự phòng trên tổng nợ gốc và lãi đó.
Thứ ba, về tỷ lệ trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi.
Ngày 7/12/2009 Bộ tài chính đã ra thông tư 228/2009/TT-BTC nhằm hướng dẫn
chế độ trích lập và sử dụng dự phòng. Mức trích lập dự phòng lần lượt là 30%, 50%,
70%, 100%. Tuy nhiên, do đặc điểm kinh doanh của các doanh nghiệp là khác nhau,
đặc điểm khách hàng, mức độ tín nhiệm thân quen uy tín là khác nhau giữa các khách
hàng, chính sách bán hàng cũng không giống nhau giữa các doanh nghiệp. Các định
mức này của Bộ tài chính chỉ nên mang tính chất giới thiệu tham khảo làm cơ sở trích
lập.
2.2. Hoàn thiện chế độ hạch toán dự phòng phải thu khó đòi.
Hiện tại, Bộ tài chính đã quy định các tiêu chuẩn của việc trích lập các khoản dự
phòng nợ phải thu khó đòi. Tuy nhiên cho đến nay Bộ tài chính vẫn chưa quy định cụ
thể các chứng từ cụ thể liên quan đến việc trích lập cũng như giảm dự phòng sau khi đã
14
trích lập và việc hoàn thuế đối với các khoản nợ đã xóa sổ Do đó, Bộ tài chính cần
ban hành chi tiết các chứng từ hóa đơn có liên quan đến việc trích lập và ghi giảm dự
phòng, hoàn thuế,
3. Một số biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro trong chính sách bán chịu của
doanh nghiệp .
Thứ nhất, là việc xét duyệt bán chịu: Do bán hàng gắn liền với thu tiền trong một
khái niệm “tiêu thụ” nên ngay từ thỏa thuận ban đầu, sau khi quyết định bán cần xem
xét và quyết định bán chịu một phần hay toàn bộ lô hàng. Quyết định này có thể đồng
thời thể hiện trên các hợp đồng kinh tế như một điều kiện đã được thỏa thuận trong
quan hệ mua bán.
Xét duyệt nghiệp vụ bán hàng cũng là một việc kiểm soát nội bộ thường thấy và
phải tập trung vào 3 điểm chủ yếu sau:
Một là, việc bán chịu phải được duyệt y cẩn thận trước khi bán hàng.
Hai là, hàng bán chỉ được vận chuyển sau khi duyệt với đầy đủ chứng cứ (tài
khoản, con dấu, chữ ký hợp pháp bên mua, ) để làm căn cứ thu nợ hợp pháp sau này.
Ba là, giá bán được duyệt phải bao gồm cả chi phí vận chuyển, giảm giá, bớt giá

và điều kiện thanh toán.
Nếu doanh nghiệp bỏ qua chức năng này có thể dẫn đến nợ khó đòi và thậm chí
thất thu do khách không có khả năng thanh toán hoặc cố tình không thanh toán do
doanh nghiệp sở hở trong thỏa thuận ban đầu. Tuy nhiên giữa chức năng bán hàng và
chức năng duyệt bán chịu cũng cần phải độc lập về mặt nhân sự để phòng ngừa những
tiêu cực có thể phát sinh trong khâu bán hàng và khả năng thất thu trong khâu thanh
toán.
Thứ hai, là việc nỗ lực thu hồi các khoản nợ: Để kiểm soát được các khoản phải
thu và đảm bảo thu được tiền, công ty cần phải chú ý theo dõi đôn đốc thường xuyên
việc thu tiền trên các bảng kê, nhật ký. Cuối kỳ, cần lập ra bảng cân đối giữa doanh thu
với các khoản đã thu tiền và các khoản thu còn lại, bảng cân đối giữa khoản nợ quá hạn
với các thời hạn nợ khác nhau, mục đích chủ yếu của việc kiểm soát này là góp phần
giải quyết các quan hệ thanh toán sòng phẳng và đảm bảo hiệu quả kinh doanh.
15
PHẦN IV
KẾT LUẬN.
Như vậy qua việc nghiên cứu đề tài trên chúng ta đã hiểu được bản chất, các
nguyên tắc cũng như vai trò của kế toán dự phòng phải thu khó đòi trong các doanh
nghiệp. Từ đó nghiên cứu và hiểu thêm quy định kế toán dự phòng phải thu khó đòi,
những mặt tích cực cũng như những tồn tại cần khắc phục.
Bên cạnh những tiến bộ so với những quy định cũ thì kế toán dự phòng phải thu
hiện nay cũng còn những điểm cần xem xét để khắc phục: Những quy định về xác định
mức trích lập dự phòng trong những trường hợp đặc biệt (nợ chưa đến hạn thanh toán
nhưng tổ chức đã lâm vào tình trạng phá sản, con nợ bỏ trốn…) hay là những quy định
về tuổi nợ quá hạn cần lập dự phòng, việc không tách thuế GTGT trong việc lập dự
phòng phải thu khó đòi.
Từ việc tìm ra những tồn tại đó ta có thể đưa ra những ý kiến tham khảo nhằm
góp phần nào đó hoàn thiện kế toán dự phòng phải thu khó đòi ở Việt Nam hiện nay, có
thể là biện pháp như nên quy định mức lập dự phòng, phương pháp thống nhất để tính
mức dự phòng trong những trường hợp cụ thể hoặc một quy định nào đó phù hợp, tách

thuế GTGT trong lập dự phòng phải thu khó đòi…
Có thể nói qua việc nghiên cứu đề tài này, em đã hiểu thêm về kế toán dự phòng
phải thu khó đòi trong doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, củng cố thêm kiến thức cho
em cả về lý thuyết cũng như thực tiễn về chế độ kế toán Việt Nam nói chung và kế toán
dự phòng phải thu khó đòi nói riêng.
16
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn – Th.S. Lê Thị Kim Hoa đã tận
tình chỉ bảo, hướng dẫn em hoàn thành đề tài này. Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu
nhưng do còn nhiều hạn chế và hiểu biết cũng như kinh nghiệm thực tế nên không
tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo tận tình của thầy cô giáo
và sự đóng góp của các bạn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Giáo trình kế toán tài chính doanh nghiệp phần 1- Chủ biên: TS.Trần Đình Khôi
Nguyên – Nhà xuất bản Đại học kinh tế Đà Nẵng.
2. Tạp chí: tạp chí kế toán.
3. Các tài liệu tham khảo:
Thông tư số 107/2001/TT - BTC ngày 31 tháng 12 năm 2001.
Thông tư số 13/2006/TT – BTC ngày 27 tháng 2 năm 2006.
Chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành theo quyết định số
15/2006/QĐ/BTC ngày 20 tháng 3 năm 2006.
Chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành theo quyết định số 228/2009/
TT/BTC ngày 7 tháng 12 năm 2009.

×