Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Luận văn : THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN part 5 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.58 KB, 19 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
67

Bảng 2.8: Tình hình lao động nông thôn chia theo văn hoá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
68

năng suất lao động, tổ chức các lớp dạy nghề cho lao động nông thôn, phát
triển các nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống của từng địa phương. Đồng
thời, thành phố Thái Nguyên cũng cần có định hướng cụ thể về việc tiếp nhận
lao động từ các địa phương khác, đặc biệt là lao động có kỹ năng, phục vụ
cho phát triển công nghiệp và dịch vụ trong tương lai bởi đây là một xu thế tất
yếu đối với các đô thị.
2.2.1.4. Chất lượng nguồn lao động nông thôn ở thành phố Thái Nguyên
Chất lượng nguồn lao động nông thôn là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh
nhiều yếu tố như: trình độ văn hóa, trình độ kỹ thuật, tay nghề, thể trạng sức
khỏe của người lao động…
* Trình độ văn hóa
Nhìn chung trình độ văn hoá của người lao động nông thôn ở thành phố
Thái Nguyên ngày càng được nâng cao (Bảng 2.8), tỷ lệ người chưa biết chữ
đã giảm mạnh qua các năm 2004 – 2006, năm 2006 đã giảm 65 người mù chữ
so với năm 2004, bình quân mỗi năm giảm 13,2%; tương tự tỷ lệ người chưa
tốt nghiệp tiểu học cũng ngày càng giảm, từ 4,93% năm 2004 giảm xuống còn
3,52% năm 2006, bình quân giảm 13,78%/năm. Đây cũng là một nỗ lực rất
lớn của chính quyền thành phố Thái Nguyên trong tiến trình phổ cập giáo dục.
Tỷ lệ người tốt nghiệp trung học cơ sở (THCS) năm 2006 tăng 1,77% so với
năm 2005, bình quân tăng 2,06%/năm; số người tốt nghiệp trung học phổ
thông (THPT) ngày một tăng cao, năm 2006 tăng 711 người so với năm 2004
và bình quân tăng 3,97%/năm (Biểu đồ 2.6).
* Trình độ chuyên môn
Ở khu vực nông thôn hầu hết là lao động giản đơn, với công cụ lao động


thủ công, thô sơ, quá trình sản xuất dựa chủ yếu dựa vào kinh nghiệm là chính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
69

lại chưa gắn với sản xuất, với phát triển kinh tế – xã hội ở nông thôn. Đây
cũng là một trong những nhân tố gây cản trở rất lớn đến việc áp dụng các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
70

tiến bộ khoa học công nghệ, tăng năng suất lao động và sử dụng hợp lý, có
hiệu quả nguồn lao động theo hướng CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở
thành phố Thái Nguyên.
0,8
4,93
16,04
51,64
26,59
0,7
4,39
15,85
51,8
27,26
0,58
3,52
16,46
51,78
27,67
0
10
20

30
40
50
60
2004 2005 2006
Mù chữ Chưa tốt nghiệp tiểu học
Tốt nghiệp tiểu học Tốt nghiệp THCS
Tốt nghiệp THPT

Biểu đồ 2.6: Tỷ lệ lao động nông thôn chia theo trình độ văn hoá ở
thành phố Thái Nguyên năm 2004 – 2006

Trình độ chuyên môn và tay nghề của người lao động nông thôn ở thành
phố Thái Nguyên cũng đã được nâng lên qua các năm 2004 – 2006 (Bảng 2.9)
tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo mặc dù đã giảm từ 50,43% năm 2004 xuống
còn 45,03% năm 2006 bình quân mỗi năm giảm 3,69% nhưng tỷ trọng lao
động chưa qua đào tạo vẫn mức cao trên 45%/năm so với tổng số lực lượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
71

lao động nông thôn toàn thành phố; số người lao động đã qua đào nghề và
tương đương hàng năm đều tăng, năm 2006 tăng 580 người so với năm 2004
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
72

Bảng 2.9: Tình hình lao động theo chuyên môn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
73

và tăng 3,07% so với năm 2005, bình quân tăng 3,45%/năm. Trình độ trung

học chuyên nghiệp của người lao động nông thôn có mức tăng mạnh từ
17,45% năm 2004 lên 22,07% năm 2006, bình quân tăng 14,68%/năm; Số
lượng người lao động có trình độ Cao đẳng, Đại học trở lên tuy có tăng nhưng
vẫn ở mức thấp, năm 2006 tăng 2,55% so với năm 2005, bình quân tăng
2,21%/năm.
Nếu chỉ xét riêng tỷ lệ lao động theo trình độ chuyên môn thì mức
chênh lệch giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn ở thành phố Thái
Nguyên cũng khá lớn và ngày càng tăng. Song, khi xét thêm về quy mô lực
lượng lao động giữa hai khu vực này thì mức chênh lệch đó lại là rất lớn. Điều
này đặt ra một yêu cầu bấp bách trong thời gian tới là các ban, ngành, chính
quyền thành phố Thái Nguyên phải không ngừng tổ chức công tác đào tạo
nghề cho lao động nông thôn nói riêng và toàn thành phố nói chung để không
ngừng nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của thời kỳ
CNH, HĐH (Biểu đồ 2.7).
Chất lượng nguồn lao động không chỉ thể hiện ở trình độ văn hoá, trình
độ chuyên môn kỹ thuật mà còn thể hiện ở thể lực, sức khoẻ của người lao
động. Thể lực của người lao động nông thôn rất hạn chế: chiều cao trung bình
của lao động nông thôn là 156 cm thấp hơn chiều cao bình quân của lao động
thành thì là 6 cm. Trọng lượng trung bình của cư dân nông thôn là 48 kg,
trong khi đó ở khu vực thành thị là 50 kg. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ở nông
thôn còn khá cao chiếm khoảng 50%.
2.2.1.5. Phân bố quỹ thời gian sử dụng lao động nông thôn ở thành phố
Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
74

Khả năng tạo thêm việc làm cho người lao động nông thôn ở thành phố
Thái Nguyên hàng năm rất hạn hẹp. Thời gian vừa qua, việc làm ở nông thôn
phụ thuộc chủ yếu vào đất đai canh tác. Thiếu đất canh tác, ở mức độ nào đó,
đồng nghĩa với thiếu việc làm của lao động nông thôn và đặc biệt là lao động

nông nghiệp. Diện tích đất nông nghiệp bình quân một hộ là 0,645 ha, nhiều hộ
gia đình đã kết hợp phát triển nghề phụ hoặc chuyển sang hoạt động phi nông
nghiệp nhưng vẫn giữ lại đất được giao và đăng ký là lao động nông nghiệp.
50,43
25,01
17,45
7,1
47,22
25,45
20,24
7,09
45,03
25,77
22,07
7,14
0
10
20
30
40
50
60
2004 2005 2006
Chưa qua đào tạo Đã qua đào tạo nghề và tương đương
Trung học chuyên nghiệp Cao đẳng, Đại học trở lên

Biểu đồ 2.7: Tỷ lệ lao động nông thôn chia theo trình độ chuyên môn ở
thành phố Thái Nguyên năm 2004 – 2006

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

75

Tình trạng thiếu việc làm hay còn gọi là thất nghiệp bộ phận, bán thất
nghiệp là đặc trưng phổ biến của lao động nông thôn. Khu vực nông thôn
chiếm gần 30% lực lượng lao động toàn thành phố, trong đó thường xuyên có
gần 20% lao động thiếu việc làm, phổ biến nhất là thiếu việc làm mang tính
thời vụ của lao động NLN.
Năm 2004 - 2006, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động của hộ gia đình nông
dân còn chưa hợp lý. Phần lớn mới chỉ sử dụng từ 75 – 79% thời gian lao
động trong năm (Biểu đồ 2.8). Tính trung bình một lao động nông nghiệp ở
thành phố Thái Nguyên chỉ sử dụng từ 18 – 20 ngày trong tháng để thực hiện
toàn bộ công việc trên diện tích một sào đất nông nghiệp được giao trong một
vụ. Tỷ lệ thời gian lao động chưa sử dụng còn khá cao, cá biệt có địa phương
(vùng Tây thành phố) tỷ lệ thời gian nông nhàn còn khoảng 20 – 25% thời
gian làm việc trong năm.

75,00
78,00
79,00
73,00
74,00
75,00
76,00
77,00
78,00
79,00
80,00
Tû lÖ sö dông thêi gian lao ®éng n«ng th«n
2004
2005

2006


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
76

Biểu đồ 2.8: Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động nông thôn ở
thành phố Thái Nguyên năm 2004 – 2006

Năm 2006, khu vực nông thôn ở thành phố Thái Nguyên vẫn còn 1.829
người thường xuyên thiếu việc làm, chiếm 5,33% lực lượng lao động nông
thôn, đó là chưa kể đến số lao động trên và dưới tuổi lao động có khả năng lao
động và mong muốn được lao động. Số lao động thiếu việc làm chủ yếu là nữ,
chiếm 26,2% và lao động trẻ ở độ tuổi 15 – 24 tuổi là 34,03%, từ 25 – 34 tuổi
là 37,78%, các địa phương có tỷ lệ người lao động nông thôn thiếu việc làm ở
mức cao như: xã Quyết Thắng, xã Lương Sơn, phường Tân Lập, đây là những
địa phương phải chuyển đổi mục đích sử dụng một số lượng lớn đất nông
nghiệp cho phát triển khu công nghiệp, cụm công nghiệp.
Những năm gần đây, tình trạng lao động nông thôn thiếu việc làm và tỷ
lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn chưa cao đã trở thành vấn đề được
thành phố Thái Nguyên quan tâm vì đó là một trong những nguyên nhân dẫn
đến di chuyển lao động nông thôn mang tính thời vụ để tìm kiếm thêm việc
làm và tăng thu nhập.
2.2.2. Thực trạng phát triển kinh tế của ngƣời lao động nông thôn
ở thành phố Thái Nguyên
2.2.3.1. Thực trạng sản xuất nông lâm nghiệp của người lao động
nông thôn ở thành phố Thái Nguyên
Mặc dù thành phố Thái Nguyên là trung tâm tỉnh lỵ của tỉnh Thái Nguyên
nhưng diện tích đất nông nghiệp vẫn chiếm 49,1% diện tích đất tự nhiên. Sản
xuất nông nghiệp đã có sự chuyển biến tích cực cả về số lượng và chất lượng,

sản xuất hàng hóa phát triển, tập quán canh tác, kỹ thuật, năng suất, sản lượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
77

đã được nâng dần qua các năm. Tuy nhiên, một bộ phận dân sống ở các xã của
thành phố Thái Nguyên, đặc biệt là những xã phải chuyển đổi mục đích sử dụng
đất phục vụ cho quá trình đô thị hóa của thành phố còn gặp nhiều khó khăn.
Từ thực tế đó, thành phố Thái Nguyên đã đề ra chương trình phát triển
kinh tế nông thôn, chỉ đạo các ngành các cấp tập trung đẩy mạnh phát triển
sản xuất nông nghiệp và nông thôn, ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và đào tạo nghề nhằm giải quyết việc
làm cho người lao động nông thôn.
Bảng 2.10: Kết quả sản xuất các ngành kinh tế nông nghiệp TP


















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
78










Với mục tiêu phát triển chung của thành phố, Đảng bộ thành phố Thái
Nguyên đã tập trung chỉ đạo chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng hệ số
sử dụng đất nông nghiệp, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất… Vì vậy kết quả sản xuất nông nghiệp trong những năm qua năm sau
cao hơn năm trước. Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2006 đạt 744.990
triệu đồng tăng 6,67% so với năm 2005, bình quân năm 2004 – 2006 tăng
6,18%. Trong đó ngành nông nghiệp là 512.002 triệu đồng chiếm 95,69%
tổng giá trị sản xuất NLN tăng bình quân 3,24%/năm (Bảng 2.10).
Do thành phố Thái Nguyên đang trong quá trình đô thị hóa và thời tiết
trong những năm gần đây không thuận lợi để phát triển cây trồng vật nuôi nên
phần nào đó cũng ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. Giá trị sản xuất cây
lúa có tốc độ tăng trưởng không đồng đều năm 2005 giảm 1,29% so với năm
2004 nhưng sang đến năm 2006 lại tăng 0,85% so với năm 2005, bình quân 3
năm giảm đi 0,22% (Bảng 2.11). Giá trị sản xuất cây công nghiệp ngắn ngày
cũng tương tự như vậy. Giá trị sản xuất cây thực phẩm, cây chè và cây ăn quả
có xu thế tăng trưởng mạnh hơn do những năm gần đây kinh tế vườn đồi của
thành phố có hướng phát triển, bước đầu hình thành các trang trại nhỏ, tập
trung vào các loại cây có giá trị hàng hóa như: Nhãn, Vải ở xã Lương Sơn, xã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
79

Tích Lương; chè ở xã Tân Cương, xã Phúc Trìu, xã Thịnh Đức. Giá trị sản
xuất cây công nghiệp bình quân hàng năm tăng 1,95% trong đó chủ yếu là giá
trị sản xuất của chè búp tươi tăng bình quân 3,29%/năm.
Trong sản xuất nông nghiệp của thành phố thì ngành trồng trọt là ngành
sản xuất chính, có vai trò quan trọng trong đời sống của người nông dân. Năm
2006 giá trị sản xuất ngành trồng trọt chiếm 61,83% nhưng mức tăng bình
quân chỉ đạt 1,67%/năm, ngành chăn nuôi tuy chiếm 24,44% nhưng lại có
mức tăng bình quân 2,06%/năm còn ngành dịch vụ chiếm một tỷ trọng thấp
hơn 13,73% nhưng mức tăng bình quân 14,46%/năm (Biểu đồ 2.9). Để thấy
rõ hơn phát triển sản xuất nông nghiệp của thành phố Thái Nguyên ta đi
nghiên cứu từng ngành cụ thể.
Bảng 2.11














Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

80











61,83
24,44
13,73
Trång trät Ch¨n nu«i DÞch vô

Biểu đồ 2.9: Cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông nghiệp
thành phố Thái Nguyên năm 2006

* Trồng trọt
Tổng diện tích gieo trồng năm 2006 là 9.491 ha tăng 120 ha so với năm
2004, trong đó tăng chủ yếu là diện tích cây chè và cây thực phẩm (Bảng 2.12).
Điểm nổi bật nhất là diện tích cây chè tăng khá cao 209 ha, tiếp đó là đến
cây thực phẩm tăng 206 ha và cây thực phẩm tăng 79 ha so với năm 2004,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
81

trong khi đó điều cần chú ý là hầu hết diện tích cây lương thực giảm 374 ha.
Điều này là do năm 2006 thực hiện chủ trương của tỉnh, thành phố đã tập

trung chỉ đạo thực hiện chuyển đổi mục đích sử dụng đất để phục vụ cho việc
mở rộng đô thị và xây dựng các khu công nghiệp nhỏ trên địa bàn. Bên cạnh
đó, thành phố cũng luôn chú trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng,
đến nay bước đầu đã khẳng định đạt được hiệu quả cao (cây ngô, lúa mùa,
rau, đậu…). Năng suất lúa mùa ngày một tăng, năm 2006 tăng 3tạ/ha so với
năm 2004. Diện tích giảm, năng suất tăng không đồng đều nhưng về cơ bản
năm sau cao hơn năm trước đã đưa sản lượng lương thực năm 2006 đạt
32.038,8 tấn giảm 1.184,1 tấn so với năm 2004 nhưng lại tăng 1.257,4 tấn so
với năm 2005, do vậy đã làm cho sản lượng lương thực bình quân đầu người
giảm năm 2006 là 133,96 kg giảm 7,78 kg so với năm 2004.
Bảng 2.12.













Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
82















Bảng 2.13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
83

Cây thực phẩm tăng liên tục qua các năm, năm 2006 diện tích tăng 206
ha so với năm 2004, nguyên nhân là do thành phố có chủ trương phát triển rau
xanh, bà con nông dân đã hưởng ứng và tích cực tham gia thực hiện.
Diện tích cây công nghiệp có xu hướng ngày một gia tăng, chủ yếu tập
trung vào cây đậu tương và cây lạc.
Ngoài ra, cây ăn quả cũng đóng góp vào giá trị sản xuất nông nghiệp
nông thôn một phần đáng kể, năm 2006 giá trị sản xuất cây ăn quả đạt
47.165,82 triệu đồng chiếm 14,9% trong tổng giá trị sản xuất của ngành trồng
trọt và chiếm 9,2% tổng giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp nông thôn
thành phố Thái Nguyên (Bảng 2.13).
Trong ngành trồng trọt của thành phố Thái Nguyên thì diện tích cây
lương thực vẫn chiếm ưu thế tới gần 83%, còn cây thực phẩm và cây công
nghiệp ngắn ngày chiếm một tỷ lệ vừa phải, cây chè tuy diện tích có tăng
nhưng vẫn chiếm tỷ lệ thấp (Biểu đồ 2.10), điều đó chứng tỏ việc chuyển đổi
cơ cấu cây trồng là một việc làm không phải dễ dàng trong thời gian ngắn, mà
thành phố Thái Nguyên cần phải xây dựng quy hoạch cụ thể, dài hạn trong

quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên địa bàn thành phố.
* Chăn nuôi
Trong năm 2004 – 2006 đàn gia súc gia cầm trên địa bàn toàn thành phố
có xu hướng phát triển tương đối khá, tuy có xuất hiện một số ổ dịch lở mồm
long móng, dịch gia cầm 2006 nhưng đã được chỉ đạo dập dịch kịp thời không
gây thiệt hại lớn. Năm 2006 thành phố tiếp tục có chính sách phát triển chăn
nuôi, cho người nghèo vay vốn để chăn nuôi, nên đến nay tổng đàn bò lên tới
820 con tăng 138 con so với năm 2004, bình quân tăng 9,66%; số lượng gia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
84

cầm cũng tăng khá, bình quân tăng 16,58%; đàn trâu có 1.586 con tăng 66 con
không đáng kể so với năm 2004, bình quân tăng 2,15% (Bảng 2.14).
78,81
74,91
73,87
5,94
6,30
8,04
5,43
6,04
6,20
9,82
12,75
11,90
0,00
10,00
20,00
30,00
40,00

50,00
60,00
70,00
80,00
90,00
2004 2005 2006
Cây lương thực (%) Cây thực phẩm (%)
Cây công nghiệp ngắn ngày (%) Cây công nghiệp dài ngày (%)


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
85

Biểu đồ 2.10: Diện tích gieo trồng ở thành phố Thái Nguyên
năm 2004 – 2006


Bảng 2.14: Kết quả sản xuất chăn nuôi






















×