Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Luận văn : THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN part 2 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (455.42 KB, 19 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10

- Điều kiện cần thiết để sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ:
+ Người lao động (sức lực và trí lực)
+ Công cụ sản xuất
+ Đối tượng lao động
- Môi trường xã hội: xét cả góc độ kinh tế, chính trị, pháp luật, xã hội.
Người ta có thể mô hình hoá quy mô tạo việc làm theo phương trình sau:
Y = f (C,V,X,…)
Trong đó: Y: Số lượng việc làm được tạo ra
C: Vốn đầu tư
V: Sức lao động
X: Thị trường tiêu thụ sản phẩm…
Trong đó, quan trọng nhất là các yếu tố đầu tư (C) và sức lao động (V).
Hai yếu tố này hợp thành năng lực sản xuất. Mối quan hệ giữa C và V phụ
thuộc vào tình trạng công nghệ và tồn tại dưới dạng khả năng [5]. Để chuyển
hoá khả năng đó thành hiện thực đòi hỏi những điều kiện nhất định. Đó là
những điều kiện kinh tế, xã hội, thông qua hệ thống các chính sách của Nhà
nước như chính sách thu hút người lao động, qua việc phát triển các ngành
nghề, chính sách vay vốn…
1.1.1.5. Việc làm mới
Việc làm mới cũng là những việc làm được pháp luật cho phép, đem lại
thu nhập cho người lao động, nó được tạo ra theo nhu cầu của thị trường để
sản xuất và cung ứng một loại hàng hoá dịch vụ nào đó cho xã hội. Sự xuất
hiện những việc làm mới là một yếu tố khách quan do hàng năm lực lượng lao
động được bổ sung thêm cùng với tiến trình phát triển của dân số.
Khái niệm việc làm thường gắn với chỗ làm việc bởi vì mỗi công việc cụ
thể phải có môi trường làm việc nhất định. Như thế việc làm tạo ra những chỗ
làm việc mới cũng hàm ý với việc tạo ra việc làm mới. Việc làm mới bao gồm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


11

những công việc đòi hỏi kỹ năng và những việc làm được tạo thêm cho người
lao động. Đối với những công việc mới này cần phải có sự thay đổi kỹ năng
lao động thông qua đào tạo, còn đối với những việc làm được tạo thêm (tăng
lượng cầu lao động) đồng nghĩa với việc tạo thêm những chỗ làm việc mà
không yêu cầu phải thay đổi kỹ năng của người lao động.
Như vậy, việc làm mới là phạm trù nói lên sự tăng lượng cầu về lao
động, nó được thể hiện dưới hai dạng: Những việc làm đòi hỏi kỹ năng lao
động mới và những chỗ làm việc mới được tạo thêm, song không đòi hỏi sự
thay đổi về kỹ năng của người lao động.
Việc làm mới được tạo ra bằng nhiều cách: Tăng chi tiêu của Chính phủ
cho các chương trình phát triển kinh tế – xã hội (tăng cầu lao động), giảm
thuế để khuyến khích phát triển sản xuất từ đó tạo ra những việc làm mới. Đối
với người lao động, để tham gia được những việc làm mới phải không ngừng
đào tạo nâng cao trình độ lao động của mình.
1.1.2. Sự cần thiết phải tạo việc làm cho ngƣời lao động
Việc làm, thất nghiệp là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn
cầu, là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia. Bởi vậy, đấu tranh chống thất
nghiệp và đảm bảo việc làm (có thu nhập) cho người lao động là thách thức
lớn của nhân loại nói chung và của mỗi quốc gia nói riêng. Để tạo việc làm và
tự tạo việc làm không chỉ Đảng và Nhà nước mà bản thân người lao động
phải thấy được sự cần thiết của tạo việc làm.
1.1.2.1. Con người là mục tiêu, là động lực của sự phát triển kinh tế –
xã hội và là yếu tố tạo ra lợi ích kinh tế – xã hội
Để thấy rõ vai trò của con người, Mác-Lênin đã nêu rõ: “Con người là
lực lượng sản xuất cơ bản nhất của xã hội. Con người với sức lao động, chất
lượng, khả năng, năng lực, với sự tham gia tích cực vào quá trình lao động, là
yếu tố quyết định tốc độ phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật và xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12

hội”[4]. Ngày nay, để tồn tại và phát triển bản thân mỗi người không ngừng
nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn, những kỹ năng cần thiết không
thể thiếu được của người lao động.
Xuất phát từ vai trò to lớn của con người trong lực lượng sản xuất cũng
như trong công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy “Chăm sóc,
bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của
cách mạng” [11].
Chủ nghĩa Mác-Lênin coi con người là tổng thể các mối quan hệ xã hội,
nghĩa là:
- Cần phải coi trọng con người như người lao động tạo ra của cải vật chất
và tinh thần cho xã hội.
- Coi con người là nhà sáng tạo ra những ý tưởng mới, giải pháp mới.
- Con người cần được thoả mãn các nhu cầu về vật chất, tinh thần và
xã hội.
Thực chất quan điểm này muốn chỉ ra, chính sách kinh tế – xã hội phải
đảm bảo mức sống cao cho dân tộc, lối sống lành mạnh của sự phát triển toàn
diện con người. Mục tiêu của công cuộc đổi mới cũng là tạo ra ngày một tốt
hơn điều kiện về vật chất, văn hoá tinh thần cho cuộc sống con người. Một xã
hội văn minh phát triển khi mỗi cá nhân, mỗi gia đình văn minh hơn, ấm no
và hạnh phúc hơn.
1.1.2.2. Việc làm đối với người lao động là nhu cầu để tồn tại và
phát triển, là yếu tố khách quan của người lao động
Con người muốn tồn tại và phát triển họ phải tiêu tốn một lượng tư liệu
sinh hoạt nhất định. Để có những thứ đó con người phải sản xuất và tái sản
xuất mở rộng. Quá trình sản xuất tạo ra hàng hoá, dịch vụ đó là việc làm. Như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13


vậy, muốn tăng tổng sản phẩm xã hội, một mặt phải huy động triệt để mọi
người có khả năng lao động tham gia vào nền sản xuất xã hội tức là mỗi
người phải có việc làm đầy đủ. Mặt khác, phải nâng cao hiệu quả sử dụng lao
động, nhằm khai thác triệt để tiềm năng của mỗi người nhằm đạt được việc
làm hợp lý và việc làm hiệu quả.
Tạo việc làm đầy đủ cho người lao động không những tạo điều kiện để
người lao động tăng thu nhập, nâng cao đời sống mà còn làm giảm các tệ nạn
xã hội, làm cho xã hội văn minh hơn.
Khi nghiên cứu lý thuyết về sự phát triển, mọi người đều nhận thức rằng:
Một trong những vấn đề cơ bản nhất trong cấu trúc của nó là phát triển nguồn
lực, coi đó là đỉnh cao nhất, là mục tiêu cuối cùng của mọi quá trình phát
triển. Điều này hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với nhận thức mới về phát
triển con người. Con người ở đây được xem xét trên hai khía cạnh thống nhất
với nhau hay nói cách khác nó là hai mặt của một vấn đề được thống nhất
trong mỗi con người.
- Con người với tư cách là chủ thể sáng tạo ra mọi của cải vật chất và
tinh thần. Như vậy, để tồn tại và phát triển, con người bằng sức lao động của
mình, là yếu tố của quá trình sản xuất, là lực lượng sản xuất cơ bản nhất, tạo
ra giá trị hàng hoá và dịch vụ.
- Con người cần phải sử dụng và tiêu dùng của cải vật chất thông qua quá
trình phân phối và tái phân phối.
Từ lý luận và thực tiễn cũng đã chứng minh, có 3 yếu tố cơ bản nhất để
phát triển con người là đảm bảo an toàn lương thực, an toàn việc làm và an
toàn môi trường.
Trong quá trình phát triển, con người vừa là đối tượng hưởng thụ, mặt
khác lại là người cung cấp đầu vào quan trọng cho quá trình biến đổi sản xuất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14

Hoạt động lao động ra đời cùng với sự hình thành và phát triển của loài

người, đó là một hoạt động thuộc về bản năng sinh tồn, con người chỉ có thể
tồn tại, phát triển và hoàn thiện không ngừng thông qua lao động sản xuất. Do
vậy, nhu cầu có việc làm là nhu cầu để con người tồn tại và phát triển, là yếu
tố khách quan và chính đáng của người lao động.
1.1.2.3. Việc làm là yêu cầu khách quan của xã hội
Lịch sử phát triển sản xuất loài người cho thấy, bất cứ một quốc gia nào,
đều có nhu cầu sử dụng hợp lý nguồn lao động của mình, để khai thác tài
nguyên thiên nhiên, phát triển kinh tế của đất nước. Người lao động là một
nguồn lực quan trọng, là một trong những yếu tố cơ bản để phát triển. Mọi
chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn trong lĩnh vực kinh tế phải tập
trung phát huy cao độ khả năng của nguồn lực quan trọng đó. Nếu có những
sai phạm về chủ trương, chính sách và biện pháp thì nguồn lao động rất có thể
trở thành gánh nặng, thậm chí gây trở ngại, tổn thất cho nền kinh tế.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hƣởng tới việc làm của ngƣời lao động nông thôn
1.1.3.1. Tư liệu sản xuất
Tư liệu sản xuất trong sản xuất nông nghiệp là đất đai, vốn, máy móc, kết
cấu hạ tầng kỹ thuật, nguồn lực con người, nguồn lực sinh học và các phương
tiện hoá học. Trong đó, yếu tố vốn, đất đai, yếu tố sức lao động, công nghệ là
yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới tạo việc làm.
Đất đai là cơ sở tự nhiên, là tiền đề trước tiên của mọi quá trình sản xuất.
Nó tham gia vào mọi quá trình sản xuất của xã hội nhưng tuỳ thuộc vào từng
ngành cụ thể mà vai trò của đất đai có sự khác nhau. Trong nông nghiệp,
ruộng đất không chỉ tham gia với tư cách là yếu tố thông thường mà là yếu tố
tích cực của sản xuất, là tư liệu chủ yếu không thể thiếu, không thể thay thế
được. Bởi vì, đất đai trong nông nghiệp có đặc điểm:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15

Ruộng đất bị giới hạn về mặt không gian nhưng sức sản xuất là vô hạn.
Mỗi quốc gia có giới hạn diện tích đất khác nhau và tỷ lệ ruộng đất trong

nông nghiệp ở mỗi quốc gia lại càng khác biệt nhau vì nó còn tuỳ thuộc vào
điều kiện đất đai, địa hình và trình độ phát triển kỹ thuật của từng nước. Với
nước ta, mặc dù đất chật người đông nhưng tỷ lệ đất nông nghiệp chiếm khá
lớn là 9.345,4 nghìn ha chiếm 29,4% tổng diện tích đất cả nước; đất lâm
nghiệp có rừng là 11.575,4 nghìn ha chiếm 35,15% tổng diện tích đất cả nước
so với diện tích đất ở chỉ chiếm 1,34%. Tuy nhiên đất chưa sử dụng (có cả
sông ngòi) vẫn còn 1.027,3 nghìn ha chiếm 30,4%. Diện tích đất lớn cho phép
khai thác theo cả chiều sâu và chiều rộng để mỗi đơn vị diện tích đất ngày
càng đáp ứng nhiều sản phẩm theo yêu cầu của con người và thị trường thế
giới. Chính việc sử dụng đất hợp lý kết hợp với sử dụng nguồn lực con người
sẽ tạo ra sự hài hoà cho việc giải quyết việc làm cho người lao động với việc
tăng sản lượng nông, lâm, ngư nghiệp.
Ruộng đất có vị trí cố định và chất lượng không đồng đều, nó khác tư
liệu sản xuất khác là không bị hao mòn, không bị đào thải khỏi quá trình sản
xuất nếu sử dụng hợp lý.
Như vậy, ruộng đất có ý nghĩa to lớn trong sản xuất nông nghiệp. Mỗi
một vùng có vị trí địa lý khác nhau. Do vậy, để có việc làm cho người lao
động nông thôn thì Đảng và Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích
họ đồng thời đưa ra những giải pháp tăng sức sản xuất của ruộng đất, làm
tăng số lần quay vòng của đất.
Như vậy, ruộng đất có ý nghĩa rất lớn trong sản xuất nông nghiệp. Yếu tố
vốn và sức lao động là hai yếu tố quan trọng nhất của quá trình tạo việc làm,
hai yếu tố này hợp thành năng lực sản xuất, sức lao động là khả năng trí lực,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16

thể lực của con người. Đó là tri thức, sức khoẻ, kỹ năng, kinh nghiệm, truyền
thống, bí quyết công nghệ…
Theo C.Mác “Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng
lực thể chất hay tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong mỗi con người đang

sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử
dụng nào đó” [5].
Nói đến sức lao động ta phải nói đến số lượng và chất lượng lao động.
Nếu một người lao động có sức khoẻ tốt, có đầu óc suy nghĩ thông minh, sáng
tạo thì hẳn công việc mà họ được giao sẽ được hoàn thành tốt, sản phẩm mà
họ tạo ra đảm bảo yêu cầu chất lượng.
Để tạo việc làm cho người lao động thì sức lao động là yếu tố quan trọng
nhất. Mỗi công việc được thực hiện khi có con người và con người đó chỉ làm
việc được khi có đủ sức lao động.
Ở nông thôn, thể lực của người lao động kém hơn so với người lao động
của thành thị, kiến thức chuyên môn cũng như xã hội đều thấp do thu nhập
chưa cao, việc tiếp cận thông tin kinh tế – khoa học xã hội chậm. Điều đó
ảnh hưởng lớn đến việc làm của chính họ. Chính vì vậy, tạo việc làm cho
người lao động nông thôn cần phải cân nhắc tính toán kỹ nếu không sẽ gây
tổn thất nặng nề và để tạo việc làm có hiệu quả cần thiết phải bồi dưỡng kiến
thức cho họ.
Vốn trong sản xuất nông nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao
động và đối tượng lao động được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp. Vốn sản
xuất nông nghiệp mang đặc điểm sau:
Căn cứ vào đặc điểm của tài sản có thể chia thành vốn cố định và vốn lưu
động. Do chu kỳ sản xuất dài và có tính thời vụ trong nông nghiệp nên một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17

mặt làm cho sự tuần hoàn và luân chuyển của vốn chậm chạp, kéo dài thời
gian lưu thông trong thời gian tương đối dài và làm cho vốn ứ đọng. Mặt
khác, sự cần thiết và có khả năng tập trung hoá về phương tiện kỹ thuật trên
một lao động nông thôn so với nông nghiệp là cao hơn.
Sản xuất nông nghiệp còn lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên việc sử
dụng vốn gặp nhiểu rủi ro, làm tổn thất hoặc giảm hiệu quả sử dụng vốn.

Một bộ phận sản phẩm nông nghiệp không qua lĩnh vực lưu thông mà
được chuyển trực tiếp làm tư liệu sản xuất cho bản thân ngành nông nghiệp. Do
vậy, một phận vốn được thực hiện ở ngoài thị trường và được tiêu dùng trong
nội bộ nông nghiệp khi vốn lưu động được khôi phục trong hình thái hiện vật.
Đối với người nông dân, đặc biệt là những người dân nghèo thì vốn là
yếu tố quan trọng và cần thiết để tiến hành sản xuất. Để tạo việc làm cho
người lao động, nguồn vốn được huy động chủ yếu từ trợ cấp, từ các quỹ, các
tổ chức tín dụng.
Khi số lượng việc làm được tạo ra nhưng nó có được chấp thuận hay
không còn tuỳ thuộc vào thị trường tiêu thụ. Bởi vì, nếu sản phẩm sản xuất ra
mà không được thị trường chấp nhận thì quy mô lớn đến đâu, máy móc thiết
bị có hiện đại đến đâu thì đơn vị sản xuất cũng không thể tồn tại. Do đó, khi
tạo việc làm cho người lao động cần phải biết cung – cầu lao động trên thị
trường, số người thiếu việc làm, số người không có việc làm để tạo việc làm
cho người lao động vừa đủ.
Ngoài các yếu tố đất đai, vốn, sức lao động, thị trường lao động, còn có
yếu tố quan trọng nữa đó là hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật: hệ thống thuỷ lợi,
hệ thống đường giao thông, điện, thông tin liên lạc, cơ sở chế biến… Hệ
thống này là yếu tố gián tiếp góp phần tạo ra việc làm và nâng cao hiệu quả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18

việc làm. Việc phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở các cộng đồng dân cư sẽ tạo
khả năng thu hút nhiều lao động trực tiếp và gián tiếp tạo môi trường phát
triển việc làm trong từng cộng đồng.
1.1.3.2. Nhân tố dân số
Dân số là yếu tố chủ yếu của quá trình phát triển, dân số vừa là chủ thể
vừa là khách thể của xã hội, vừa là người sản xuất, vừa là người tiêu dùng.
Vì vậy, quy mô, cơ cấu và chất lượng dân số ảnh hưởng rất lớn đến quá trình
phát triển kinh tế – xã hội, ảnh hưởng đó là tích cực hay tiêu cực tuỳ thuộc

vào mối quan hệ giữa tốc độ phát triển dân số với nhu cầu và khả năng phát
triển kinh tế – xã hội của mỗi nước trong mỗi thời kỳ. Do quy mô dân số lớn,
tốc độ tăng cao đã làm quy mô số người trong độ tuổi lao động có khả năng
tăng cao. Quy mô dân số đông, nguồn lao động dồi dào, đó là sức mạnh của
quốc gia, là yếu tố cơ bản để mở rộng và phát triển sản xuất. Nhưng đối với
nước ta – nước đang phát triển, khả năng mở rộng và phát triển sản xuất còn
có hạn, nguồn vốn, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu còn thiếu thốn, nguồn lao
động đông và tăng nhanh lại gây sức ép về việc làm rất lớn. Mỗi năm phải tạo
thêm từ 1 triệu – 1,2 triệu chỗ làm việc chưa kể số sinh viên sắp ra trường, số
người làm việc nội trợ thì số người chưa có việc làm hàng năm là rất lớn.
Ngoài ra, để đảm bảo đủ việc làm cho người lao động ở khu vực nông thôn
và tận dụng hết quỹ thời gian lao động cần có thêm hơn 7 triệu chỗ làm việc.
Rõ ràng dân số đang tăng nhanh gây sức ép về việc làm rất lớn, mặc dù
nguồn lao động dồi dào là nguồn lực lớn để phát triển kinh tế nhưng để tạo
việc làm cho người lao động không phải đơn giản mà kéo theo đó là tài chính,
tín dụng, tư liệu sản xuất… trong khi ngân sách nước ta còn hạn hẹp. Ngay từ
năm 2000 Đảng và Nhà nước ta đã có chiến lược phát triển kinh tế – xã hội
trong đó nhân tố dân số đã được coi trọng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19

- Coi con người là mục tiêu và là động lực chính của sự phát triển. Đặt
con người vào vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển hay còn gọi là chiến
lược con người, lấy lợi ích của con người làm điểm xuất phát của mọi chương
trình kế hoạch phát triển.
- Nguồn nhân lực và con người Việt Nam – lợi thế và nguồn lực quan
trọng nhất của sự phát triển kinh tế – xã hội nước ta. Tuy nhiên, khi nguồn lực
này tăng lên quá nhanh mà chưa sử dụng hết lại là lực cản, gây sức ép về đời
sống xã hội và việc làm.
- Đối với chính sách dân số, lao động và bảo trợ xã hội là nội dung hàng

đầu trong việc đổi mới chính sách và công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Các chính sách đó phải phát huy nguồn lực, về nguồn lực Việt Nam và con
người Việt Nam hướng vào thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội trong từng
giai đoạn. Mặt khác, các chính sách đó phải phù hợp với những yêu cầu của
quản lý kinh tế quốc dân, phù hợp với những điều kiện kinh tế – xã hội cụ thể
của đất nước.
1.1.3.3. Nhân tố giáo dục và công nghệ
Tiềm năng kinh tế của một đất nước phụ thuộc vào trình độ khoa học và
công nghệ của đất nước đó, trình độ khoa học công nghệ lại phụ thuộc vào
các điều kiện giáo dục. Đã có rất nhiều bài học thất bại khi một nước nào đó
sử dụng công nghệ ngoại nhập tiên tiến trong khi tiềm lực khoa học công
nghệ trong nước còn rất non yếu. Sự non yếu thể hiện ở chỗ thiếu các chuyên
gia giỏi về khoa học công nghệ và quản lý, thiếu đội ngũ kỹ thuật viên và
công nhân lành nghề. Điều đó đã ảnh hưởng tới việc áp dụng các thành tựu
khoa học, không có sự lựa chọn nào khác hoặc là đào tạo các nguồn lực quý
giá cho đất nước phát triển hoặc phải chịu sự tụt hậu so với thế giới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20

Giáo dục và đào tạo cho người lao động có đủ tri thức, năng lực, sẵn
sàng đáp ứng mọi yêu cầu của công việc và khi có trong tay kiến thức về xã
hội, về trình độ chuyên môn người lao động sẽ có nhiều cơ hội để thực hiện
các công việc mà xã hội phân công sắp xếp.
Như vậy, giáo dục và đào tạo nhằm định hướng phát triển kinh tế – xã
hội, trước hết cung cho xã hội một đội ngũ lao động đủ về số lượng, chất
lượng và sau là phát huy hiệu quả để đảm bảo thực hiện xã hội: dân giàu,
nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Bên cạnh sự đảm bảo nguồn lực về số lượng, chất lượng đáp ứng yêu cầu
công việc thì việc phát triển công nghệ là yếu tố quan trọng trong việc đưa
đất nước trở thành nước công nghiệp. Công nghiệp hoá với xu hướng tri

thức hoá công nhân, chuyên môn hoá lao động, giảm bớt lao động chân tay
nặng nhọc.
Ngày nay, để công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn nói riêng và công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung thì việc thiếu lao động có trình
độ chuyên môn hoá cao và thừa lao động trình độ thấp rất nhiều gây ra sức ép
việc làm lớn. Nếu bên cạnh việc nâng cao trình độ cho người lao động mà kết
hợp với việc áp dụng thành tựu khoa học trong sản xuất thì sẽ tạo ra những
chỗ làm việc hợp lý. Ngược lại, nếu Nhà nước có những chính sách tạo việc
làm cho người lao động mà họ thiếu hiểu biết, thiếu kiến thức chuyên môn thì
chương trình tạo việc làm sẽ không đạt hiệu quả nữa.
1.1.3.4. Chính sách lao động và việc làm trong xã hội
Chính sách việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản của
mọi quốc gia nhằm góp phần bảo đảm an toàn, ổn định và phát triển xã hội.
Chính sách việc làm thực chất là một hệ thống các biện pháp có tác động mở
rộng cơ hội để lực lượng lao động của toàn xã hội tiếp cận được việc làm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21

Ngoài ra chính sách việc làm còn bao gồm các giải pháp trợ giúp các loại đối
tượng đặc biệt (cho người tàn tật, đối tượng tệ nạn xã hội, người hồi hương…)
có cơ hội và đều được làm việc.
Chính sách việc làm thuộc hệ thống chính sách xã hội nhằm giải quyết
một vấn đề xã hội vừa cấp bách hiện nay vừa cơ bản lâu dài ở mỗi nước là
đảm bảo việc làm, đời sống cho lao động toàn xã hội, đặc biệt là khu vực
nông thôn, nơi đang tồn tại tỷ người chưa có việc làm, thiếu việc làm khá cao.
Cũng như chính sách xã hội khác, chính sách việc làm cũng rất đa dạng,
phong phú, có thể phân loại như sau:
- Nhóm chính sách chung có quan hệ và tác động đến việc mở rộng và
phát triển việc làm cho lao động toàn xã hội: Chính sách về vốn, chính sách
đất đai, chính sách thuế…

- Nhóm chính sách khuyến khích phát triển những lĩnh vực, hình thức và
vùng có khả năng thu hút được nhiều lao động trong cơ chế thị trường (chính
sách phát triển kinh tế hộ, chính sách đổi mới xây dựng vùng kinh tế mới,
chính sách khôi phục và phát triển ngành nghề truyền thống, chính sách di
dân tự do và hành nghề theo pháp luật, chính sách gia công xuất khẩu…)
Mặt khác, trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường tình trạng thất
nghiệp là điều khó tránh khỏi, đặc biệt là khi Việt Nam đã gia nhập tổ chức
Thương mại quốc tế (WTO) thì khả năng tìm việc làm đối với người lao động có
trình độ thấp lại càng khó. Để hạn chế thất nghiệp một mặt phải tạo chỗ làm việc
mới; mặt khác phải tránh cho người lao động đang làm việc lâm vào thất nghiệp.
Ngoài ra, phải có hệ thống bảo hiểm cho người lao động khi họ thất nghiệp.
Trong chính sách giải quyết việc làm, một nguyên tắc cơ bản cần phải
được chú ý, đó là đảm bảo cho mọi người được tiếp cận với cơ hội làm việc,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22

trên cơ sở Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người có cơ hội chủ động
tìm kiếm việc làm, chống tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước, tránh thực hiện chủ
nghĩa bình quân, chia đều việc làm với thu nhập thấp. Đồng thời cũng chống
việc coi nhẹ trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế
khiến cho tình trạng thất nghiệp trở thành vấn đề xã hội gay cấn. Cần gắn tiêu
chuẩn về mức thu hút lao động của doanh nghiệp trong chính sách khuyến
khích hoặc hỗ trợ doanh nghiệp.
Chính sách việc làm thuộc hệ thống chính sách xã hội, song phương thức
và biện pháp tạo việc làm lại mang nội dung kinh tế, đồng thời liên quan đến
những vẫn đề thuộc về tổ chức sản xuất kinh doanh như tạo môi trường pháp
lý, vốn, lựa chọn và chuyển giao công nghệ, cơ sở hạ tầng, thị trường tiêu thụ.
Vì thế bất cứ chính sách kinh tế nào của Nhà nước cũng đều có ảnh hưởng và
tác động đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động.
1.1.4. Cơ sở thực tiễn cho vấn đề tạo việc làm cho ngƣời lao động

1.1.4.1. Tình hình lao động – việc làm nông thôn ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam là nước đang phát triển ở khu vực Đông Nam Á có đặc điểm đất
ít, người đông, đại bộ phận dân cư tập trung sinh sống ở khu vực nông thôn.
Tính đến ngày 1/7/2004, dân số cả nước là 84 triệu người trong đó dân số nông
thôn là 63,05 triệu người (chiếm 75,06%). Số người trong độ tuổi lao động là
49,86 triệu chiếm khoảng 59,36% dân số, trong đó 42,45 triệu người tham gia
vào lực lượng lao động. Tốc độ tăng dân số bình quân hơn 10 năm qua là 1,7%,
mức tăng trung bình của số người trong độ tuổi lao động là 2,6% năm.
Khu vực nông thôn đang tập trung một số lực lượng lao động của cả
nước với tốc độ tăng khoảng hơn 2,5%/năm. Nhưng thời gian lao động trung
bình chưa sử dụng của cả nước có xu hướng giảm xuống, nếu năm 2004 là
29,2% thì năm 2006 còn 24,46%. Với lực lượng lao động ở nông thôn năm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23

2006 là 40,98 triệu người và thời gian lao động chưa sử dụng trung bình cả
nước là 24,46% nếu quy đổi thì sẽ tương đương khoảng 7,5 triệu người không
có việc làm. Trong khi đó, những năm gần đây, ở khu vực nông thôn, cầu lao
động tăng chậm làm cho tình hình cung cầu trên thị trường lao động mất cân
đối lớn. Về cơ cấu ngành kinh tế, năm 2006 trong tổng số gần 36 triệu người
tham gia lực lượng lao động nông thôn, có tới 75% làm việc trong nông – lâm
– thủy sản, chỉ 15% làm việc trong công nghiệp và dịch vụ. Những người
thiếu việc làm ở nông thôn có tới 80% tập trung ở khu vực nông nghiệp.
Theo lý thuyết thì tăng trưởng kinh tế sẽ thu hút thêm lao động giải quyết
việc làm. Trong những năm qua tốc độ tăng trưởng bình quân của nông
nghiệp là 5,4% nhưng hệ số co dãn việc làm so với 1% tăng trưởng kinh tế
của nông thôn nước ta chỉ là 0,43 trong giai đoạn 2004 – 2006, nghĩa là mỗi
năm khu vực nông nghiệp chỉ tạo thêm được số việc làm mới bằng 2,3% lực
lượng lao động, sự thu hút ít hơn số lượng lao động tăng thêm mỗi năm là gần
1 triệu người. Sự phát triển của nông nghiệp không thể giải quyết hết lao động

tăng thêm ở nông thôn những năm qua.
(Bảng 1.1: Hiện trạng lao động tỉnh Thái Nguyên)










Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24

















1.1.4.2. Tình trạng việc làm của lực lượng lao động nông thôn tỉnh
Thái Nguyên hiện nay
Là một tỉnh trung du miền núi Bắc Bộ, Thái Nguyên có nguồn lao động
dồi dào. Cùng với sự phát triển của cả nước, trong những năm gần đây nền
kinh tế tỉnh Thái Nguyên cũng đã có nhiều khởi sắc, đây cũng chính là yếu tố
thuận lợi cho quá trình giải quyết việc làm. Ở khu vực nông thôn, lực lượng
lao động từ đủ 15 tuổi trở lên có 99,55% có việc làm, thiếu việc làm chỉ có
0,45%. Như vậy, so với các năm trước đây tỷ lệ thiếu việc làm đã giảm
0,85%[3].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25

Tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động tỉnh còn chậm so với tốc độ chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Lao động nông nghiệp tuy có giảm qua các năm nhưng
vẫn chiếm tỷ lệ lớn, năm 2006 chiếm 66,16% tổng số lao động làm việc
(Bảng 1.1). Thời gian sử dụng lao động ở nông thôn tuy có tăng lên trong
những năm gần đây nhưng chưa cao, năm 2005 = đạt gần 78% và năm 2006
đạt xấp xỉ 79%.
Thực tế, nước ta đang hội nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh tế khu
vực và thế giới. Việc nước ta trở thành thành viên chính thức của WTO cho
thấy quyết tâm hội nhập ở mức cao nhất với nền kinh tế thế giới. Quá trình
hội nhập này đã, đang và sẽ mở ra cho nước ta nói chung và tỉnh cũng như
thành phố Thái Nguyên nói riêng có nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều
thách thức lớn phải vượt qua trong đó có vấn đề việc làm cho người lao động
ở khu vực nông thôn.
1.1.4.3. Bài học kinh nghiệm về vấn đề tạo việc làm cho người lao động
nông thôn
Qua những nghiên cứu tình hình lao động – việc làm nông thôn của nước
ta và tỉnh Thái Nguyên trong những năm qua cho thấy giải quyết việc làm cho
lao động nông thôn là yếu tố mang tính chiến lược, tùy thuộc vào mỗi vùng có

những kết quả khác nhau, nhưng có thể khái quát thành những kinh nghiệm
trong quá trình tạo việc làm cho người lao động nông thôn như: thực hiện
chính sách phát triển thị trường lao động, phát triển dạy nghề gắn với chiến
lược kinh tế – xã hội của từng địa phương, lồng ghép chương trình dạy nghề
với các chương trình việc làm, chương trình xoá đói giảm nghèo và các
chương trình phát triển kinh tế khác… Tập trung phát triển dạy nghề ngắn
hạn, phổ cập nghề cho lao động ở khu vực nông thôn, đồng bào dân tộc thiểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26

số, lao động trong vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất để chuyển đổi cơ
cấu ngành nghề nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ cho phù hợp. Tập
trung phát triển các lĩnh vực trọng điểm của địa phương nhằm tạo nhiều việc
làm cho người lao động nông thôn và thu hút lao động… Coi trọng các chính
sách phát triển kinh tế nông thôn; phát triển hài hòa giữa kinh tế nông thôn và
môi trường.
Tóm lại, giải quyết việc làm cho người lao động ở khu vực nông thôn
được coi là nhiệm vụ trọng tâm của đất nước. Giải quyết việc làm cho người
lao động ở khu vực nông thôn vừa trực tiếp nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của người dân nông thôn, vừa tạo tiền đề để thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần ổn định chính trị, xã
hội và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, đây là vấn đề hết sức phức tạp và nhạy
cảm, có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới việc thực hiện nhiệm vụ đó, nên cần sử
dụng các chỉ tiêu một cách khách quan và triệt để nhằm đánh giá quá trình
giải quyết việc làm. Giải quyết việc làm cho người lao động có mối quan hệ
biện chứng, gắn bó với nhau nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”[11]. Thực trạng giải quyết việc làm
cho người lao động ở khu vực nông thôn đã đạt được những kết quả, song
với mục tiêu cần đạt và so với lao động nông thôn của các nước phát triển,
lao động nông thôn Việt Nam vẫn còn lạc hậu, còn quá nhiều khó khăn

thách thức. Vì vậy, giải quyết việc làm cho người lao động ở khu vực nông
thôn là rất cần thiết, đó là nhiệm vụ hết sức to lớn và đặc biệt quan trọng đối
với cả nước nói chung và vùng nghiên cứu thành phố Thái Nguyên, tỉnh
Thái Nguyên nói riêng.
1.2. Phƣơng pháp nghiên cứu về việc làm cho ngƣời lao động
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27

1.2.1. Chọn địa điểm nghiên cứu
Căn cứ vào tình hình cụ thể, chọn điểm nghiên cứu đại diện cho thành
phố Thái Nguyên cả về điều kiện tự nhiên - kinh tế – xã hội và các đặc điểm
khác của thành phố Thái Nguyên. Từ 26 phường, xã trong toàn thành phố
chọn ra 3 phường (xã) làm điểm nghiên cứu từ 3 vùng của địa phương, đó là
xã Lương Sơn ở vùng Nam, phường Túc Duyên ở vùng Giữa và xã Tân
Cương ở vùng Tây, những phường (xã) này vừa mang tính đại diện cho vùng,
vừa phải đại diện và suy rộng được cho cả thành phố Thái Nguyên.
- Xã Lương Sơn là một xã nằm ở phía Nam thành phố Thái Nguyên, đây
là cửa ngõ của thành phố. Với tổng số nhân khẩu là 11.913 người, có 2.805
hộ, trong đó 2.655 hộ làm nông nghiệp, sản phẩm chủ yếu từ cây lúa, giá trị
thu nhập còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao 10%.
- Phường Túc Duyên với tổng số nhân khẩu là 7.382 người, có 1.990 hộ,
trong đó có 485 hộ làm nông nghiệp. Mặc dù là một phường thuộc vùng Giữa
ở trung tâm thành phố, nhưng số người lao động trong khu vực nông thôn vẫn
còn khá đông với 2.121 người chiếm gần 30% tổng dân số toàn phường. Sản
phẩm chủ yếu của địa phương này là rau xanh. Đây cũng là địa phương có
nhiều người dân theo đạo Thiên Chúa giáo, cuộc sống người dân nơi đây vẫn
còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo là 3,3%.
- Xã Tân Cương là một xã thuần nông miền núi nằm ở phía Tây thành
phố Thái Nguyên, Tân Cương có 2/3 diện tích đất là đồi núi, lại nằm cạnh khu
vực kênh mương hồ Núi Cốc, nguồn nước khá chủ động và dồi dào nên rất

thuận lợi cho trồng chè và chăn nuôi đại gia súc. Với dân số 6.076 người,
1.280 hộ dân, trong đó có 1.229 hộ nông nghiệp. Một vài năm trở lại đây,
thực hiện đường lối chủ trương đổi mới với các chính sách mở cửa của địa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28

phương, cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng sản
xuất hàng hóa, đời sống nông dân ngày càng được cải thiện. Hiện nay tổng số
hộ khá và giàu trong xã là 360 hộ chiếm 20%, hộ trung bình là 73,70%, hộ
nghèo đã giảm còn 6,6%.
Ngoài cây lúa, cây chè và rau xanh là những sản phẩm chủ yếu, các địa
phương còn trồng các loại cây màu như lạc, đậu, đỗ, cây ăn quả, chăn nuôi gia
súc, gia cầm như trâu, bò, lợn, gà, vịt

Bảng 1.2: Tổng hợp số hộ điều tra ở các điểm nghiên cứu năm 2006

Địa phƣơng
Hộ giàu
Hộ trung
bình
Hộ nghèo
Tổng số
hộ điều
tra (hộ)
Số hộ
(hộ)
Cơ cấu
(%)
Số hộ
(hộ)

Cơ cấu
(%)
Số hộ
(hộ)
Cơ cấu
(%)
Tổng cộng
18

66

6

90
Xã Lương Sơn
5
16,70
22
76,70
3
10,00
30
Phường Túc Duyên
7
23,30
22
73,30
1
3,30
30

Xã Tân Cương
6
20,00
22
73,70
2
6,60
30

1.2.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu
1.2.2.1 Chọn mẫu điều tra
Áp dụng chọn mẫu ngẫu nhiên (chọn điểm, chọn hộ) ở các vùng của
thành phố Thái Nguyên và lấy ra 3 địa phương mang tính đại diện cao. Mỗi
địa phương chọn ra 30 hộ trong đó đảm bảo các tỷ lệ: dân tộc, ngành nghề
nông – lâm nghiệp, ngành nghề dịch vụ tương ứng với tỷ lệ chung của
thành phố Thái Nguyên, chọn và được phân ra 3 loại hộ giàu, hộ trung bình

×