Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Luận văn : THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ NGUỒN NHÂN LỰC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI KHU VỰC NÔNG THÔN TỈNH THÁI NGUYÊN part 3 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.75 KB, 14 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15

triển nhiều bƣớc thăng trầm, trẻ em ở Nhật luôn đƣợc tạo điều kiện học tập tốt nhất.
Bên cách hệ thống giáo dục tập trung chính quy thì các hình thức giáo dục tại gia
đình, tại các công ty đƣợc đặc biệt coi trọng [12]. Thực tế cho thấy ở Nhật hình thức
giáo dục này phát triển nhất thế giới bởi vì ngƣời Nhật rất coi trọng trình độ học vấn.
Trình độ học vấn chính là yếu tố tạo nên cơ hội làm việc suốt đời. Chỉ có tốt nghiệp ở
những trƣờng đại học lớn có danh tiếng và kết quả học tập loại giỏi thì mới có cơ hội
làm việc trong các công ty lớn và mới đảm bảo một vị trí tốt trong xã hội.
Theo thống kê năm 1999 thì cứ 100.000 ngƣời dân Nhật Bản thì có 7,9 bệnh
viện, 67,4 cơ sở khám bệnh. Số bác sĩ cho 100.000 dân là 177 ngƣời. Theo báo cáo
của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) năm 2004, ngƣời Nhật Bản là ngƣời dân sống thọ
nhất thế giới với tuổi thọ trung bình là 81,9 tuổi. Năm 2006 Nhật là nƣớc châu Á
duy nhất nằm trong số 10 nƣớc có chỉ số phát triển con ngƣời cao nhất thế giới
(HDI 0,949). Ở các cơ quan ích lợi công cộng, cơ quan của các địa phƣơng lập ra,
nhân viên đều phải mua bảo hiểm y tế. Loại hình bảo hiểm mà ai cũng có thể tham
gia là hệ thống bảo hiểm quốc dân. Kể từ năm 1961 những ai không tham gia bảo
hiểm trong các hiệp hội bảo hiểm y tế bắt buộc phải tham gia bảo hiểm quốc dân
().
* Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (Mỹ):
Đặc điểm nổi bật của Mỹ là coi trọng giáo dục, lấy giáo dục đào tạo là trung
tâm của phát triển nguồn nhân lực. Giáo dục và đào tạo đƣợc đầu tƣ khá cao và gia
tăng liên tục. Từ năm 1960 ngân sách đầu tƣ cho giáo dục của Mỹ khoảng 5,3%
GDP thì đến nay đạt gần 10%. Ngân sách không chỉ đầu tƣ xây dựng hạ tầng, trang
thiết bị dạy học mà còn tập trung cho việc đào tạo giáo viên. Nhờ đầu tƣ cho giáo
dục mà tỷ lệ ngƣời biết chữ ở Mỹ rất cao và đạt trên 97%. Trong hơn một thế kỷ, hệ
thống giáo dục của Mỹ đã đào tạo một lực lƣợng lớn có trình độ học vấn cao và đƣa
Mỹ trở thành một nƣớc có nền giáo dục hàng đầu thế giới. Trung tâm của hệ thống


giáo dục ở Mỹ là bậc đại học và đƣợc đặc biệt coi trọng [23]. Theo quan niệm của
các nhà hoạch định chính sách giáo dục thì ngƣời nào vƣợt qua cấp giáo dục phổ
thông có tính chất đại chúng để tiến đến bậc đại học thì mới cần đầu tƣ, bồi dƣỡng.
Chiến lƣợc phát triển nguồn nhân lực theo hƣớng ƣu tiên phát triển đào tạo ngành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16

lĩnh vực công nghệ cao và chiến lƣợc thu hút chất xám ngoài nƣớc có hiệu quả. Họ
coi trọng tầng lớp trí thức, tạo mọi điều kiện để họ phát huy khả năng.
Chính sách quản lý, sử dụng nhân lực của của Mỹ là yếu tố kích thích sản
xuất và tạo động lực cho ngƣời lao động và các chính sách đó đƣợc lồng ghép với
các chính sách xã hội nhƣ chính sách việc làm, an sinh, phúc lợi xã hội. Nhà nƣớc
giữ vai trò quan trọng làm nẩy sinh các nhân tố kích thích phát triển nguồn nhân lực
và đƣợc điều tiết mạnh mẽ bởi hệ thống pháp luật. Hiệu ứng của pháp luật là kích
thích phát triển nguồn nhân lực nhƣ bảo đảm quyền lợi của ngƣời lao động mặt
khác thúc đẩy năng suất lao động tăng cao. Vấn đề công bằng việc làm là cơ sở phát
triển nhân lực, Chính phủ Mỹ đã đƣa ra đạo luật cấm phân biệt về việc làm theo
mầu da, chủng tộc, tôn giáo và giới tính do đó Mỹ thu hút đƣợc đội ngũ lao động tri
thức từ khắp mọi nơi trên thế giới.
Năm 2006 Mỹ là nƣớc nằm trong số 10 nƣớc có chỉ số phát triển con ngƣời
cao nhất thế giới (HDI 0,948). Tuổi thọ trung bình của dân Mỹ là 77,3 tuổi. Mới
đây một cuộc khảo sát quốc tế về các bệnh nhân cho thấy chi tiêu cho ngành y tế và
chăm sóc sức khỏe ngƣời dân tại Hoa Kỳ cao hơn bất cứ quốc gia nào khác trên thế
giới. Hiện nay Theo luật liên bang, phúc lợi chăm sóc y tế là để cho những ngƣời
không có tiền hoặc bảo hiểm. Có khoảng 86,4% ngƣời Mỹ đƣợc hƣởng bảo hiểm y
tế, trong đó có 61% hƣởng bảo hiểm y tế do có việc làm ().
* Các nƣớc EU:
Ở hầu hết các nƣớc EU, chính sách phát triển nguồn nhân lực chịu sự can

thiệp của nhà nƣớc bởi vì nếu không có sự kiểm soát thì các công ty có thể rơi vào
tình trạng cực đoan là chỉ tập trung đào tạo nhân công để giải quyết các công việc
trƣớc mắt, do đó sẽ ảnh hƣởng đến lợi ích lâu dài của quốc gia. Chiến lƣợc và chính
sách phát triển nguồn nhân lực của các nƣớc EU là đào tạo đội ngũ lao động có
trình độ học vấn cao, có kỹ năng nghề nghiệp. Do đó, giáo dục và đào tạo nhƣ là
điều kiện tiên quyết để tăng khả năng thích ứng cạnh tranh về khoa học kỹ thuật, là
động lực của sự phát triển và còn là một trong những hƣớng ƣu tiên trong các chiến
lƣợc phát triển của các nƣớc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17

Các nƣớc EU có hệ thống giáo dục dạy nghề rất tốt. Nƣớc Đức đƣợc đánh giá
là có hệ thống đào tạo nghề trên quy mô lớn dành cho những ngƣời không có điều
kiện học đại học. Các học sinh trong độ tuổi 15 - 17 đƣợc học ở các trƣờng dạy
nghề kết hợp với dạy văn hóa, sau 3 năm học phải qua kiểm tra trình độ nghề. Nếu
vƣợt qua kỳ thi đó thì sau một năm học thêm các môn nhƣ quản trị, luật cơ bản và
một số môn kỹ thuật, ngƣời lao động có thể tạo lập doanh nghiệp [23]. Đây có thể là
nhân tố quan trọng dẫn đến trình độ của lực lƣợng lao động đồng đều và năng suất
lao động tăng cao và ổn định.
Chính sách việc làm đƣợc chính quyền các nƣớc EU đặc biệt quan tâm và đầu
tƣ cho chƣơng trình phát triển việc làm ngày càng tăng, trong đó ngân sách đầu tƣ
cho đào tạo việc làm chiếm tỷ trọng lớn nhất.
1.1.2.2. Nguồn nhân lực Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế
Xuất phát từ đặc trƣng nổi bật của lịch sử phát triển kinh tế xã hội Việt Nam
qua các thời kỳ là nền sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, đã tạo nên những tập quán của
lối làm ăn mạnh mún, tản mạn, lối tƣ duy làm theo lệ hơn theo luật Chế độ phong
kiến tồn tại quá lâu đã hình thành và tồn tại tính cộng đồng làng xã bó buộc ngƣời

lao động khó có thể vƣợt ra khỏi khuôn khổ làng xã và cản trở hạn chế sự năng
động, sáng tạo trong lao động sản xuất.
Trong thời kỳ chiến tranh chống thực dân xâm lƣợc, chúng ta phải tập trung
nguồn lực con ngƣời cho tiền tuyến nên nhiều thế hệ thanh niên đã cống hiến tuổi
thanh xuân vì độc lập tự do của tổ quốc nên không có điều kiện học tập đầy đủ,
chƣa có điều kiện phát triển tài năng của mình do đó không thể tránh khỏi những sai
lầm, hạn chế trong việc xây dựng đất nƣớc sau chiến tranh.
Việc áp dụng và duy trì quá lâu mô hình kinh tế theo cơ chế hành chính tập
trung, quan liêu bao cấp là nguyên nhân hạn chế sự phát huy phẩm chất mới của
ngƣời lao động. Trong nhiều năm chúng ta tập trung cho việc cải tạo quan hệ sản
xuất cũ, thiết lập củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới mà chƣa tập trung cao
độ cho phát triển lực lƣợng sản xuất. Giai đoạn này chúng ta đề cao vai trò của tập
thể, không thấy hết vai trò của cá nhân. Những tập quán, thói quen hình thành và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18

tồn tại quá lâu trong lịch sử đã ăn sâu và nhiều thế hệ ngƣời lao động Việt Nam làm
cản trở quá trình phát triển của dân tộc. Nhƣ Lênin đã nhận xét: “những tập quán,
thói quen xấu của con ngƣời là sức mạnh đáng sợ nhất” [15].
Ngày nay, khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng
xã hội chủ nghĩa, tàn dƣ của đặc tính lao động tiểu nông dần đƣợc xoá bỏ, trí tuệ
con ngƣời Việt Nam bắt đầu phát triển hƣớng vào quá trình sáng tạo của cải vật
chất. Những đức tính mới, phẩm chất tốt đẹp của ngƣời lao động hiện đại đang dần
hình thành và hoàn thiện. Con ngƣời Việt Nam đang chuyển biến nhanh chóng để
thích ứng với cơ chế thị trƣờng và sự biến động phức tạp của những biến đổi kinh tế
xã hội. Với những đức tính cần cù, bền bỉ kết hợp với sự thông minh, sáng tạo,
nguồn nhân lực Việt Nam đang minh chứng khả năng lợi thế so sánh. Nhiều ngành
sản xuất truyền thống bị sa sút, đình trệ trong thời kỳ bao cấp nay đã có cơ hội hồi

sinh và vƣơn lên chiếm lĩnh thị trƣờng thế giới nhƣ ngành dệt lụa, thêu ren, mây tre
đan, mộc, thủ công mỹ nghệ Sức sáng tạo và mạnh dạn trong sản xuất kinh doanh
đã xuất hiện một số ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh mới. Những lĩnh vực mũi
nhọn của một số nƣớc công nghiệp phát triển nhƣ điện tử, tin học, viễn thông, lao
động của chúng ta đã có khả năng tiếp cận và phát triển nhanh chóng. Từ chỗ nhập
linh kiện lắp ráp, dần dần lao động Việt Nam đã có thể chế tạo một số linh kiện thay
thế đặc biệt trong các ngành lắp máy công nghiệp, đóng tàu, dầu khí. Một số công
ty của Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu phần mềm tin học, xuất khẩu hàng hóa có giá
trị hàm lƣợng công nghệ cao. Những dấu hiệu đó cho thấy nguồn nhân lực của
chúng ta có nhiều triển vọng tốt đẹp để vƣơn lên hội nhập với khu vực và thế giới.
Tuy nhiên ngƣời lao động Việt Nam hiện nay hạn chế lớn là về mặt thể lực.
Ngƣời Việt Nam đang bị thiếu dinh dƣỡng, đặc biệt là nông thôn mức dinh dƣỡng
đƣợc cung cấp trong ngày dƣới mức tối thiểu của một lao động bình thƣờng (theo
tiêu chí đánh giá của quốc tế là 2.000 calo/ngƣời/ngày) [17]. Không chỉ những
ngƣời trong độ tuổi lao động, mà trẻ em là nguồn lao động trong tƣơng lai thì tỷ lệ
suy dinh dƣỡng còn rất cao. Mặt khác sự phát triển trí lực của ngƣời lao động, năng
lực vận dụng kiến thức khoa học trong lao động sản xuất của ngƣời lao động Việt
Nam còn yếu và đang là một trở ngại lớn nhất là trong giai đoạn hội nhập kinh tế

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19

khi chúng ta đang đƣợc tiếp xúc nhiều với công nghệ kỹ thuật mới của thế giới và
phƣơng pháp quản lý tiên tiến hiện đại.
* Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam
- Quy mô và tốc độ tăng trƣởng:
Dân số nƣớc ta hiện này trên là 80 triệu ngƣời, tốc độ tăng dân số bình quân
hàng năm khoảng trên 1%. Là một nƣớc có cơ cấu dân số trẻ và có mức tăng trƣởng
cao. Với điều kiện đó hàng năm Việt Nam có một số lƣợng lớn dân số đến độ tuổi

lao động.
Lao động của Việt Nam năm 2005 là khoảng 44,4 triệu ngƣời, bình quân giai
đoạn 2001 – 2005 hàng năm tăng 2,3%, tƣơng ứng với 805 ngàn ngƣời. Do đặc
điểm cơ cấu phân bố dân số và lao động giữa thành thị và nông thôn nên lao động
có việc làm ở nông thôn vẫn chiếm phần lớn. Lao động ở khu vực nông thôn hiện
nay tuy có giảm nhƣng vẫn chiếm gần 3/4 tổng số lao động có việc làm. Lao động
làm việc tại thành thị có tốc độ tăng cao hơn nông thôn, tốc độ tăng hàng năm
khoảng 5% và cao hơn gấp 3 lần khu vực nông thôn [5].
Bảng 1.1. Nguồn nhân lực chia theo giới tính
và theo khu vực thành thị, nông thôn giai đoạn 2001 - 2005
Đvt: Triệu ngƣời
Năm
Tổng số
Chia theo giới tính
Chia theo khu vực
Nam
Nữ
Thành thị
Nông thôn
2001
40,1
20,2
19,9
9,3
15,4
2002
41,0
20,8
20,3
9,8

15,7
2003
42,1
21,4
20,8
10,2
16,0
2004
43,2
22,1
21,2
10,6
16,5
2005
44,4
22,7
21,7
11,1
16,9
Nguồn: Bộ Lao động – TBXH, năm 2006
Trong 5 năm từ 2001 đến 2005 nguồn nhân lực Việt Nam tăng khoảng 4,3
triệu ngƣời, bình quân hàng năm nguồn nhân lực tăng thêm khoản 860 ngàn ngƣời.
Năm 2005 lao động nam là 22,7 triệu ngƣời trong khi nữ là 21,7 triệu ngƣời, tỷ lệ
lao động nữ giảm từ 49,63% năm 2001 xuống 48,87% năm 2005. Nguồn cung lao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20

động của Việt Nam ở cả khu vực thành thị và nông thôn đều tăng đáng kể, từ năm

2001 đến 2005 lao động khu vực nông thôn tăng khoảng 2,5 triệu ngƣời với tốc độ
tăng bình quân hàng năm là 1,56%. Khu vực thành thị tăng 1,8 triệu ngƣời tƣơng
ứng với mức tăng bình quân hàng năm khoảng 3% [5]. Xu hƣớng lao động trong
khu vực thành thị tiếp tục tăng nhanh do nguyên nhân phân mở rộng các khu vực đô
thị đã làm tăng diện tích khu vực thành thị về mặt địa lý. Việt Nam đang trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc và có tốc độ đô thị hóa cao, cùng với
tốc độ tăng trƣởng dân số của khu vực thành thị ngày càng nhanh thì sự di chuyển
cơ học dân số từ nông thôn ra thành thị làm gia tăng lao động khu vực thành thị.
Nếu xem nguồn nhân lực chia theo nhóm tuổi cho thấy lao động ở nhóm tuổi
30 - 34 tham gia lực lƣợng lao động rất cao và đạt trên 95%. Nhóm tuổi từ 15 - 24
và từ 55 tuổi trở nên những năm gần đây có xu hƣớng tiếp tục giảm.
Biểu đồ 1.1. Tỷ lệ tham gia LLLĐ chia theo nhóm tuổi năm 2005
0
20
40
60
80
100
120
15 - 19 20 - 24 25 - 29 30 - 34 35 - 39 40 - 44 45 - 49 50 - 54 55 - 59 60 - 64 65 +
Tổng
Nam
Nữ

Nguồn: Bộ Lao động – TBXH, năm 2006
Nhƣ vậy lực lƣợng lao động Việt Nam khá trẻ và dồi dào, đây là một trong
những lợi thế nếu chúng ta biết sử dụng hợp lý và hiệu quả. Số lƣợng nhân lực lớn
là một điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nƣớc. Chúng ta đang có một lực lƣợng lao động hớp dẫn thu hút các nhà đầu tƣ
trong và ngoài nƣớc. Ngƣợc lại nếu không giải quyết tốt vấn đề việc làm cho lực


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21

lƣợng lao động đông đảo thì đây là yếu tố kìm hãm quá trình phát triển kinh tế của
đất nƣớc.
- Một số đặc điểm của nguồn nhân lực:
+ Đặc trƣng của nguồn nhân lực theo nhóm nghề: Đặc điểm nổi bật là lao
động phổ thông chiếm tỷ trọng lớn nhất trong lực lƣợng lao động. Lao động nữ làm
nghề phổ thông nhiều hơn nam giới với tỷ lệ tƣơng ứng là 52%. Lao động kỹ thuật
trong ngành nông, lâm, ngƣ nghiệp chỉ chiếm 5,2%, điều này có nghĩa là phần lớn
lao động trong nông nghiệp làm công việc giản đơn.
Bảng 1.2. Cơ cấu lao động theo nghề năm 2005
Đvt: %
Stt
Phân theo nhóm
Chia ra
Chung
Nam
Nữ
1
Lao động quản lý
0,7
1,05
0,32
2
Chuyên môn kỹ thuật bậc cao
3,79
3,8

3,77
3
Chuyên môn kỹ thuật bậc trung
3,11
2,64
3,6
4
Nhân viên
0,98
0,96
1,01
5
Nhân viên dịch vụ, bảo vệ
8,73
6,06
11,64
6
Lao động có kỹ thuật trong nông,
lâm, ngƣ nghiệp
5,2
6,18
4,17
7
Thợ thủ công có kỹ thuật
11,59
14,41
8,72
8
Thợ có kỹ thuật lắp ráp và vận
hành máy móc

3,83
6,02
1,51
9
Lao động giản đơn
61,68
58,47
65,06
10
Lao động khác
0,39
0,41
0,2
Tổng
100
100
100
Nguồn: Bộ Lao động – TBXH, năm 2006
+ Đặc trƣng việc làm chia theo vị thế công việc: Năm 2005, nhóm lao động
tự tạo việc làm cho bản thân và lao động làm việc tại gia đình chiếm số lƣợng chủ
yếu của nguồn nhân lực. Số lao động làm việc tại hộ là 14,3% và có xu hƣớng giảm
nhanh trong thời gian tới. Nhóm nhân lực làm công hƣởng lƣơng trong và ngoài khu
vực Nhà nƣớc tăng đáng kể từ 5,0 triệu ngƣời năm 1996 lên 11 triệu ngƣời năm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22

2005. Nhóm lao động là chủ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh chiếm
khoảng 200 ngàn ngƣời, tƣơng ứng với 0,4% nguồn nhân lực cả nƣớc [5], [7]. Nếu

chia theo khu vực thì số lao động tại hộ ở nông thôn cao hơn nhiều so với thành thị.
Kết quả này cho thấy một thực tế là khu vực nông thôn lao động làm việc tại hộ là
chủ yếu, số lao động đi làm thuê hƣởng lƣơng ngoài hộ rất ít.
+ Nhân lực tham gia các ngành kinh tế: Năm 2005 cơ cấu lao động trong
ngành nông, lâm, ngƣ nghiệp là 56,7% và bình quân mỗi năm giảm 1,31%. Lao
động trong ngành công nghiệp chiếm 17,8%, lao động trong ngành dịch vụ chiếm
25,5%. Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch từ lĩnh vực nông nghiệp sang công
nghiệp và dịch vụ. Điều đó phản ánh xu thế công nghiệp chuyển đổi cơ cấu kinh tế,
tuy nhiên lao động trong nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn.
Biểu đồ 1.2. Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế năm 2005









Nguồn: Bộ Lao động - TBXH, năm 2006
- Thực trạng chất lƣợng nguồn nhân lực:
+ Y tế và chăm sóc sức khỏe: Việt Nam trong nhiều năm qua đã có nhiều nỗ
lực cố gắng chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân. Cho đến nay nhiều chỉ tiêu đánh
giá chất lƣợng dân số đã đƣợc cải thiện, tỷ lệ trẻ em dƣới 5 tuổi suy dinh dƣỡng
giảm nhanh từ 51,5% năm 1990 xuống còn 25,2% năm 2005. Tầm vóc và tốc độ
tăng trƣởng thể lực của trẻ em, thanh thiếu niên và ngƣời trƣởng thành là khá cao so
với quy luật chung, sau 25 năm chiều cao trung bình của nam thanh niên 18 tuổi
0%
10%
20%

30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
2001 2002 2003 2004 2005
DV
CN-XD
NL-N

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23

tăng 4,5 cm và nữ tăng 4 cm. Một số chỉ tiêu đƣợc cải thiện đáng kể nhƣ tuổi thọ
trung bình là trên 71 tuổi. Tỷ lệ trẻ em dƣới 1 tuổi bị chết là 17,8
0
/
00
, tỷ lệ tử vong ở
trẻ em dƣới 5 tuổi là 26
0
/
00
, tỷ lệ sinh đẻ (số lần sinh trung bình tính trên một phụ
nữ) là 1,8%, tỷ lệ tử vong sản phụ (số ca tử vong/100.000 ca sinh sống) là 130.
Mặc dù vậy, Việt Nam hiện đang phải đối mặt với những vấn đề nghiêm

trọng nhƣ tỷ lệ trẻ suy dinh dƣỡng vẫn ở mức cao. Việt Nam còn phải đối mặt với
một số căn bệnh quay trở lại nhƣ lao phổi cùng với những bệnh mới do lối sống đặc
thù của một số nhóm xã hội sinh ra và số tai nạn giao thông ngày càng gia tăng. Nạn
dịch HIV/AIDS cũng đang lan nhanh ở Việt Nam, mỗi ngày có tới hơn 100 ngƣời bị
lây nhiễm mới và từ năm 2000 đến năm 2005, số ngƣời đang phải sống chung với
HIV/AIDS đã tăng lên hơn gấp hai lần, từ 122.000 lên tới 263.000 ngƣời. Ở một số
vùng sâu, vùng xa, tỷ lệ trẻ em dƣới 1 tuổi chết còn rất cao tới 25 - 34%, tỷ lệ suy
dinh dƣỡng thể nhẹ cân của trẻ em dƣới 5 tuổi còn cao tới 30 - 35%. Số lƣợng
ngƣời tàn tật của cả nƣớc khá lớn khoảng 5,3 triệu, chiếm gần 6,3% dân số, tỷ lệ
dân số bị thiểu năng thể lực và trí tuệ chiếm tới 1,5% dân số và hàng năm vẫn tiếp
tục tăng thêm do số trẻ em sinh ra bị dị tật và các bệnh bẩm sinh [1].
Theo báo cáo của UNDP, chỉ số phát triển con ngƣời Việt Nam tiếp tục tăng
(năm 1995 xếp thứ 108/177, năm 2006 xếp thứ 120/174) [1]. Mặc dù mức GDP
bình quân đầu ngƣời chính thức của Việt Nam mới chỉ khoảng 600 USD và tình
trạng nghèo đói vẫn còn phổ biến, song những thành tích của quốc gia về mặt phát
triển con ngƣời lại khá thuận lợi. Điều này đƣợc phản ánh ở sự gia tăng liên tục các
chỉ số HDI trong suốt mƣời năm qua và nói lên sự tiến bộ đạt đƣợc trong lĩnh vực y
tế và mức sống dân cƣ. Tuy chỉ số phát triển con ngƣời của nƣớc ta đã từng bƣớc
cải thiện, nhƣng vẫn ở mức thấp so với nhiều nƣớc trong khu vực và thấp xa so với
các nƣớc phát triển.
+ Về giáo dục đào tạo: Mặc dù đất nƣớc còn nghèo, thu nhập quốc dân còn
thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh nhƣng Việt Nam đã đạt đƣợc những
thành tựu to lớn về mặt giáo dục. Cùng với củng cố kết quả xóa mù chữ và phổ cập
giáo dục tiểu học, đến hết năm 2005 có 31 tỉnh đạt tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ
sở. Tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đi học ở bậc tiểu học đạt 97,5%. Số học sinh trung

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

24


học chuyên nghiệp tăng 12,9%/năm, dạy nghề dài hạn tăng 12%/năm, sinh viên đại
học và cao đẳng tăng 8,4%/năm [1], [3]. Chất lƣợng dạy nghề có chuyển biến tích
cực, bƣớc đầu đã hình thành mạng lƣới dạy nghề cho lao động nông thôn, thanh
niên dân tộc thiểu số, ngƣời tàn tật, gắn dạy nghề với tạo việc làm. Nhiều trƣờng
dân lập, tƣ thục bậc đại học, trung học chuyên nghiệp, trung học phổ thông và dạy
nghề đã đƣợc thành lập. Cơ sở vật chất của ngành đã đƣợc tăng cƣờng, đặc biệt là
đối với vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Bảng 1.3. Một số chỉ tiêu về y tế và giáo dục của Việt Nam
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
Bệnh viện
836
842
842
856
878
Phòng khám đa khoa khu vực
928
912
930
881
880
Trạm y tế xã, phƣờng
10385
10396
10448

10516
10613
Số giƣờng bệnh/10.000 dân
24,5
24,2
23,8
23,9
23,7
Số bác sĩ/10.000 dân
5,2
5,6
5,8
6,1
6,2
Số sinh viên tốt nghiệp đại
học hàng năm (1.000 ngƣời)
168,9
166,8
165,7
195,6
197,2
Số học sinh tốt nghiệp THCN
hàng năm (1.000 ngƣời)
76,9
119,4
115,8
138,8
157,4
Số kỹ sƣ/10.000 dân






Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2006
Tỷ lệ ngƣời dân biết chữ ở Việt Nam tƣơng đối cao đạt 92%. Trong số 8%
dân số mù chữ thì 80% sống ở vùng nông thôn, trong đó 60% là phụ nữ. Năm 2005,
cả nƣớc có khoảng 22 triệu học sinh sinh viên, trong đó có 1,4 triệu sinh viên, trung
bình có 167 sinh viên trên 10.000 dân. Trong số 311 trƣờng đại học, cao đẳng có 37
trƣờng khối dân lập, tƣ thục và bán công. Số lƣợng sinh viên các trƣờng ngoài công
lập hiện mới đạt gần 12% trong tổng số sinh viên, trong khi mục tiêu đề ra đến năm
2010 tỷ lệ này sẽ là 40%. Năm học 2004 - 2005, hệ chính quy đại học, cao đẳng
tuyển 199.065 sinh viên, hệ không chính quy tuyển 111.860 sinh viên. Nền giáo dục
Việt Nam ngoài việc đào tạo ra một đội ngũ lao động có trình độ và tay nghề, còn
tạo ra những nhà khoa học có tên tuổi trên thế giới. Bên cạnh các thành tích đó, hệ
thống giáo dục đào tạo còn đang đứng trƣớc nhiều khó khăn, trang thiết bị dạy học

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

25

nghèo nàn lạc hậu, giáo trình thiếu cập nhật, trình độ giáo viên chƣa cao và chƣa
đƣợc quan tâm đúng mức.
Đầu tƣ cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo tăng lên đáng kể. Ngân sách nhà
nƣớc dành cho giáo dục tăng nhanh trong thời gian qua. Năm 2005 ngân sách cho
giáo dục và đào tạo chiếm khoảng 18% tổng chi ngân sách nhà nƣớc. Trong năm
cũng đã huy động bằng nhiều nguồn vốn khác để phát triển giáo dục nhƣ phát hành
công trái giáo dục, đóng góp của công đồng, của doanh nghiệp và vốn hỗ trợ từ bên
ngoài. Trong số đó nhiều nhất là chi cho cấp mẫu giáo và trung học cơ sở khoảng
60% rồi đến tiểu học dƣới 50%, trung học phổ thông 19%, trung học chuyên nghiệp

và trung học nghề 12% [3]. Mặc dù chi phí cho giáo dục cao nhƣng một điều đáng
lo lắng là số học sinh tiểu học bỏ học vẫn có chiều hƣớng gia tăng.
+ Về trình độ chuyên môn kỹ thuật:
Trong những năm gần đây tỷ lệ lao động qua đào tăng liên tục do Nhà nƣớc
có các chính sách khuyến khích đào tạo, mở rộng các hình thức đào tạo theo nhiều
mô hình mới, trong đó tập trung loại hình đào tạo nghề ngắn hạn, dài hạn và dạy
nghề cho nông dân nên đến năm 2005 lao động qua đào tạo đạt 25,2%, trong đó lao
động qua đào tạo nghề là 15,26%.
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nam cao hơn lao động nữ, trong
số 6,6 triệu ngƣời đã qua đào tạo nghề thì có 4,3 triệu lao động nam. Trình độ
chuyên môn kỹ thuật của khu vực thành thị và nông thôn có sự chênh lệch tƣơng
đối lớn, tại khu vực thành thị nguồn nhân lực đã quan đào tạo là 51,4%, trong khi
đó ở nông thôn là 16,8%. Số lao động có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học
tập trung ở thành thị chiếm tới 73,05%, còn lại 26,95% là ở khu vực nông thôn [7].
Tình hình phân bố và sử dụng lao động có chuyên môn kỹ thuật hiện nay rất
bất hợp lý. Cán bộ chuyên môn kỹ thuật tập trung phần lớn ở các viện, các cơ quan
hành chính tại các trung tâm đô thị, tạo nên tình trạng vừa thừa vừa thiếu. Tỷ lệ lao
động khoa học kỹ thuật làm việc trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh chỉ có 32,7%
(trong khi tỷ lệ này của Thái Lan là 58,2%, Hàn Quốc 48%, Nhật Bản 64,4%) còn
lại 67,3% làm việc ở các cơ quan hành chính sự nghiệp, tổ chức đoàn thể. Ngành
nông lâm ngƣ nghiệp có địa bàn chính ở nông thôn nhƣng 89,3% số cán bộ kỹ thuật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

26

có chuyên môn thuộc lĩnh vực này lại làm việc tại các cơ quan trung ƣơng, 8,9%
làm việc tại các cấp thành phố, 1,8% làm việc tại cấp huyện và ở cấp xã [24].
Chế độ sử dụng cán bộ chuyên môn kỹ thuật còn nhiều bất hợp lý, một số
lƣợng lớn sử dụng chƣa đúng ngành nghề đào tạo. Hiện nay nhu cầu sử dụng nguồn

nhân lực có chuyên môn kỹ thuật cao là rất lớn, đặc biệt ở một số vùng kinh tế trọng
điểm nhƣ Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bình Dƣơng, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng
Tàu và thành phố Hồ Chí Minh. Nhƣng nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ
thuật đáp ứng đƣợc nhu cầu sử dụng rất thấp. Ví dụ nhƣ thành phố Hồ Chí Minh chỉ
tuyển đƣợc khoảng 60% nhu cầu, còn các tỉnh miền Đông Nam Bộ chỉ tuyển đƣợc
20% số kỹ sƣ cơ khí, điện, điện tử, hóa chất, kế toán, phiên dịch tiếng Trung, Hàn
Quốc so với tổng số nhu cầu của các tỉnh [23]. Bên cạnh đó, rất nhiều sinh viên tốt
nghiệp đại học nhƣng không tìm đƣợc việc làm hoặc phải làm trái ngành nghề.
Thực tế này phản ánh tình trạng mất cân đối giữa số lƣợng và chất lƣợng của lao
động chuyên môn kỹ thuật. Số lƣợng lao động đƣợc đào tạo lớn nhƣng chất lƣợng
đào tạo lại rất thấp, không đáp ứng đƣợc yêu cầu của doanh nghiệp nhƣ thiếu kỹ
năng thực hành, thiếu lao động lành nghề.
* Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực Việt Nam trong thời kỳ
hội nhập kinh tế:
- Về cơ hội: Số lƣợng lao động Việt Nam tƣơng đối rồi dào, số lao động trẻ
chiếm đại đa số nguồn nhân lực. Nhà nƣớc đang quan tâm đầu tƣ vấn đề đào tạo,
ngƣời lao động đƣợc tiếp cận với các công nghệ mới tiên tiến và hiện đại. Hệ thống
pháp luật lao động của Việt Nam đã đƣợc ban hành và cơ bản đảm bảo các tiêu
chuẩn lao động quốc tế, từng bƣớc đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển xã hội. Thị
trƣờng lao động và các hoạt động dịch vụ liên quan đã đƣợc hình thành và đang
từng bƣớc hoàn thiện phát triển, nhất là ở các thành phố, các khu công nghiệp tập
trung. Đã có sự dịch chuyển lớn về lao động giữa các khu vực kinh tế, các địa
phƣơng, các ngành nghề. Chính sách về thị trƣờng lao động đƣợc điều chỉnh tạo
điều kiện cho sự dịch chuyển.
- Về thách thức và khó khăn: Trình độ chuyên môn, tay nghề của ngƣời lao
động thấp, tác phong, thái độ làm việc, ý thức chấp hành pháp luật của ngƣời lao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

27


động chƣa cao. Hiện có đến 74,7% lực lƣợng lao động chƣa qua đào tạo và tập
trung phần lớn ở nông thôn, khu vực kém phát triển [26]. Xu hƣớng dịch chuyển lao
động sẽ rất lớn, từ nông thôn ra thành thị và vào khu công nghiệp tập trung, di
chuyển lao động ra ngoài nƣớc. Pháp luật lao động có phạm vi điều chỉnh hẹp và
tính cƣỡng chế thi hành chƣa cao. Các hoạt động dịch vụ liên quan đến lĩnh vực lao
động và thị trƣờng lao động mới hình thành và còn hạn chế, chƣa tƣơng xứng với sự
phát triển. Số ngƣời tham gia thị trƣờng lao động Việt Nam mới chỉ chiếm 20% lực
lƣợng lao động. Nhận thức của một bộ phận ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao
động, trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức về hội nhập kinh tế quốc tế còn hạn
chế. Số lƣợng lao động tham gia lực lƣợng lao động ngày càng tăng tạo ra sức cạnh
tranh lớn .
- Định hƣớng về phát triển nguồn nhân lực theo xu hƣớng hội nhập: Phải
nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề và kỹ năng nghề. Nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật, đổi mới tác phong, thái độ làm việc của ngƣời lao động. Tăng
cƣờng công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động và các công ƣớc quốc tế.
Hoàn thiện và phát triển thị trƣờng lao động, xây dựng mối quan hệ lao động minh
bạch và lành mạnh.
1.2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.2.1. Câu hỏi đặt ra mà đề tài cần giải quyết
- Tại sao phải nghiên cứu nguồn nhân lực khu vực nông thôn.
- Thực trạng số lƣợng, chất lƣợng nguồn nhân lực và sử dụng lao động hiện
nay ở khu vực nông thôn tỉnh Thái Nguyên.
- Xu hƣớng chuyển dịch lao động, các yếu tố ảnh hƣởng đến nguồn nhân lực
nông thôn.
- Các giải pháp nào để phát huy tốt vai trò nguồn nhân lực nông thôn.
1.2.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu
1.2.2.1. Cơ sở phương pháp luận
Nghiên cứu đánh giá nguồn nhân lực một cách toàn diện không thể sử dụng
một hoặc một số phƣơng pháp đơn lẻ mà phải có đƣợc một phƣơng pháp luận tổng


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

28

hợp và đồng bộ. Phƣơng pháp nghiên cứu trong đề tài dựa trên khung lý thuyết hệ
thống các khái niệm có liên quan và thông qua một số chỉ tiêu cơ bản nhằm đánh
giá thực trạng nguồn nhân lực trong thực tiễn tại địa bàn nghiên cứu.
Nghiên cứu định lƣợng về hiện trạng và tình hình sử dụng nguồn nhân lực tại
địa bàn nghiên cứu.
Nghiên cứu định tính về các đặc trƣng và xu hƣớng vận động, đánh giá các
chính sách tác động.
1.2.2.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phƣơng pháp thu thập thông tin:
+ Thông tin thứ cấp: Thu thập tham khảo báo cáo, tài liệu, số liệu các cuộc
điều tra có liên quan.
+ Thông tin sơ cấp: Thông qua phiếu khảo sát điều tra một số nội dung
nghiên cứu về nguồn nhân lực và hiện trạng sử dụng trong khu vực nông thôn. Điều
tra phỏng vấn trực tiếp các thông tin về lao động trong độ tuổi lao động, thông tin
về việc làm của hộ, thông tin về y tế, giáo dục, thông tin liên lạc…
Điều tra tại 180 hộ gia đình đại diện cho khu vực nông thôn và chia theo 3
vùng (vùng cao - trung du - vùng thấp) thuộc tỉnh Thái Nguyên. Đại diện mỗi vùng
chọn ngẫu nhiên 02 xã, mỗi xã chọn 30 hộ. Sau đó lấy tổng số hộ của xã chia cho số
mẫu (30 hộ) đƣợc hệ số k. Số hộ điều tra sẽ là các hộ có số thứ tự: 01, 1+k, 1+2k,
1+3k, … 1+29k trong danh sách sổ quản lý hộ khẩu của xã.
Mẫu phiếu phỏng vấn gồm 2 mục chính là thông tin chung về hộ và thông tin
của lao động trong hộ.
+ Quan sát thực tế: Trong quá trình tiến hành điều tra, đã khảo sát phỏng vấn,
trao đổi với ngƣời dân về các thông tin định tính
- Phƣơng pháp tổng hợp số liệu: Sử dụng phần mền tính toán Excel .

- Phƣơng pháp phân tích số liệu:
+ Phƣơng pháp thống kê, so sánh và mô tả.

×