Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Luận văn : ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC TIẾP CẬN NGUỒN NƯỚC ĐẾN THU NHẬP CỦA HỘ NÔNG DÂN XÃ TÂN LẬP, HUYỆN CHỢ ĐỒN, TỈNH BẮC KẠN part 3 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.54 KB, 11 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
chức quản lý, chế độ tài chính, phân cấp công trình Bên cạnh đó, nhiều địa
phương chưa triển khai thực thi đầy đủ các văn bản đã có.
Ý thức sử dụng nước của người nông dân chưa cao: Họ thường coi
nước là ""của trời"", công trình cấp nước đã có Nhà nước đầu tư, bản thân họ
đã đóng thuỷ lợi phí nên họ phải sử dụng cho “đủ”. Kiến thức sử dụng nước
của hầu hết người dân còn nhiều hạn chế, họ không được trang bị kiến thức về
yêu cầu nước tưới theo từng thời kỳ sinh trưởng của cây trồng dẫn đến tình
trạng lấy nước quá nhiều, dư thừa.
Trách nhiệm giữa đơn vị cung cấp nước và người hưởng lợi được thực
hiện thông qua hợp đồng kinh tế nhưng chưa rõ ràng và chưa nghiêm túc.
Theo Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi, đơn vị cung cấp nước
và đơn vị sử dụng nước có trách nhiệm ký kết hợp đồng kinh tế ngay từ đầu
vụ làm cơ sở để thực hiện và thanh quyết toán vào cuối vụ sản xuất. Nhưng
thực tế nhiều địa phương xảy ra tình trạng đơn vị sử dụng nước ký hợp đồng
thấp hơn so với diện tích thực phục vụ và chây ỳ trong việc thanh toán thuỷ
lợi phí (từ năm 1999 đến năm 2003 cả nước nợ đọng thuỷ lợi phí 332,450 tỷ
đồng). Đây là hiện tượng vi phạm hợp đồng kinh tế nhưng Nhà nước cũng
chưa có chế tài cụ thể. Dẫn đến tình trạng các đơn vị cung cấp nước không có
kinh phí tu bổ công trình đảm bảo dẫn nước.
1.1.1.3. Vai trò của nước và khả năng tiếp cận nguồn nước phục vụ sản
xuất nông nghiệp
Nước là một loại vật chất đặc biệt, chiếm 3/4 bề mặt trái đất. Trong cấu
trúc động, thực vật thì nước chiếm tới 95 - 99% trọng lượng các laòi cây dưới
nước, 80% trọng lượng các loài cá, 70% các loại cây trên cạn, 65 - 75% trọng
lượng con người và các động vật [11].
Nước là nền tảng của sự sống, không một sinh vật nào có thể sống thiếu
nước. Nước là điều kiện đầu tiên xác định sự sinh tồn của sự sống, của con



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
người cũng như của nền sản xuất nông nghiệp. Từ đó thấy được nghĩa vụ của
mình trong việc giữ gìn và bảo vệ nguồn tài nguyên nước.
Do nguồn tài nguyên nước phân bố không đều, đối với Việt Nam, tài
nguyên nước ẩn chứa nhiều yếu tố không bền vững. Các kết quả nghiên cứu
gần đây ở Việt Nam dự báo, tổng lượng nước mặt của nước ta vào năm 2025
chỉ bằng khoảng 96%, đến năm 2070 xuống còn khoảng 90% và năm 2100
chỉ còn khoảng 86% so với hiện nay.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.1.2.1. Đánh giá nguồn nước tại một số tỉnh khó khăn miền núi phía Bắc
Gắn phát triển kinh tế - xã hội với thực hiện các chính sách dân tộc, từng
bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân; bảo vệ môi trường sinh thái
cho vùng và hạ lưu ở đồng bằng Bắc Bộ; góp phần giữ vững an ninh quốc
phòng”. Để thực hiện được mục tiêu xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế -
xã hội ở 6 tỉnh miền núi phía Bắc đặc biệt khó khăn cần thiết phải đầu tư cơ
sở hạ tầng nói chung, cấp nước phục vụ sinh hoạt và sản xuất nói riêng.
Trên địa bàn các tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía Bắc có tổng diện
tích tự nhiên 58.265 km2, dân số 3,405 triệu người, được chia ra 956 đơn vị
cấp xã, trong đó có 444 xã, bản với số dân 1,403 triệu người thường xuyên
thiếu nước sinh hoạt và sản xuất [6]. Nguồn nước hiện nay được sử dụng chủ
yếu là nước tại các nguồn lộ, nước khe, nước suối với lưu lượng rất hạn chế,
hơn thế nữa các nguồn nước này đều không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh cho
ăn uống và sinh hoạt. Các cao nguyên đá vôi thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc
Kạn, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu có địa hình karst phân cắt mạnh không có
điều kiện tàng trữ nước mặt, nguồn nước cho sinh hoạt thường xuyên thiếu
trầm trọng đặc biệt về mùa khô. Một số tỉnh như: Sơn La, Lai Châu, Điện
Biên có nhu cầu lớn về nước sạch phục vụ các khu di dân, tái định cư, các

công trình thuỷ điện. Để từng bước giải quyết những khó khăn về nước cho
đồng bào các dân tộc vùng cao thuộc 6 tỉnh miền núi phía Bắc (Sơn La, Lai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn) cần thiết phải tiến hành điều
tra, đánh giá khai thác nguồn nước ngầm.
Công tác điều tra, đánh giá nước dưới đất phục vụ cấp nước cho nhân
dân ở các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung, trong đó có các tỉnh đặc biệt khó
khăn. Kết quả đạt được là rất đáng khích lệ, tính riêng năm 2002 đã điều tra,
đánh giá được trữ lượng khai thác 18.521 m3/ngày có khả năng cung cấp nước
sạch cho 300.000 người (mức 60 lít/người/ngày) [13]. Các công trình được lắp
máy bơm điện để khai thác, có bể chứa nước và bàn giao trực tiếp các công
trình cấp nước cho địa phương, kịp thời đáp ứng một phần nhu cầu cấp thiết
về nước sinh hoạt cho nhân dân các huyện Mộc Châu, Yên Sơn (Sơn La);
Mường Lay (Lai Châu); Mường Khương (Lào Cai); Quản Bạ (Hà Giang);
Trùng Khánh (Cao Bằng) và Chợ Đồn (Bắc Kạn). Tuy nhiên, so với số vùng,
số dân còn chưa có nước sạch để sử dụng cần phải điều tra đáp ứng thì những
kết quả trên còn rất nhỏ
Do đó, để góp phần tích cực thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế –
xã hội tại các tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía Bắc theo tinh thần chỉ đạo
của Thủ tướng Chính phủ thì việc đầu tư thực hiện dự án điều tra, đánh giá
nước dưới đất trên địa bàn các tỉnh theo phương châm điều tra kết hợp khai
thác cấp nước sạch tại chỗ cho dân là rất cấp thiết.
Sáu tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía Bắc có dạng địa hình chủ yếu
là núi cao, cao nguyên và các thung lũng giữa núi nhỏ hẹp, dốc đứng. Mức độ
phân cắt địa hình lớn, độ cao trung bình 1000 - 1500m. Do góc dốc địa hình
lớn nên các dòng mặt có trong vùng thường là các dòng tạm thời. Về mùa
mưa các dòng này hầu như cạn kiệt trơ đáy.

Về tiền đề địa chất, địa chất thuỷ văn: Vùng nghiên cứu tồn tại các thể
địa chất từ già nhất đến trẻ nhất phân bố đan xen, nhiều khi không theo quy
luật do các hoạt động nội ngoại sinh. Nguồn gốc thạch học đa dạng gồm: trầm
tích, biến chất, macma và các sản phẩm phong hoá. Hoạt động tân kiến tạo và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
các vận động nội sinh phức tạp biểu hiện đa dạng như các hệ thống đứt gãy
chằng chịt, các hiện tượng lún trượt, lở đất xảy ra thường xuyên.
Trong vùng nghiên cứu đã phát hiện được nhiều nguồn nước ngầm, nước
khoáng có giá trị. Nước dưới đất tồn tại và vận động chủ yếu ở các đới dập vỡ,
đứt gãy kiến tạo. Tầng chứa nước thường mỏng, phân bố không đồng nhất.
Thành phần hoá học của nước dưới đất đa dạng và có nguồn gốc hình thành
khác nhau. Đặc biệt là cao nguyên Đồng Văn - Mèo Vạc và một số vùng khác
do có mực xâm thực rất sâu nên để trả lời câu hỏi có nước dưới đất hay không?,
nước dưới đất tồn tại bao nhiêu mét?, nguồn hình thành và đặc điểm tàng trữ và
vận động ra sao? Vẫn là một câu hỏi lớn cho các nhà địa chất thuỷ văn.
Mục tiêu và nhiệm vụ của dự án là điều tra, phát hiện các nguồn nước
dưới đất, đánh giá trữ lượng, chất lượng nguồn nước tìm được, phục vụ cấp
nước sinh hoạt tại chỗ cho nhân dân. Cung cấp tài liệu cơ bản về địa chất, địa
chất thuỷ văn, khả năng cung cấp nước dưới đất, làm cơ sở cho quy hoạch
khai thác hợp lý nước dưới đất của địa phương. Ngoài ra, các lỗ khoan địa
chất thuỷ văn đáp ứng được yêu cầu cấp nước được tiến hành kết cấu thành
giếng khoan khai thác (như doa mở rộng đường kính, đặt ống chống, ống lọc
đảm bảo giếng khoan khai thác bền vững), lắp đặt thiết bị khai thác (máy
bơm, ống dẫn, đường điện) để đưa nước trong lỗ khoan lên bể chứa, bàn giao
cho địa phương quản lý, khai thác phục vụ nhân dân.
Theo tài liệu tại phòng Địa chất cho biết: Cục Địa chất và Khoáng sản
đã có nguồn tài liệu phong phú về địa chất - địa chất thuỷ văn trên toàn lãnh

thổ Việt Nam, đó là thuận lợi cơ bản giúp Nhà nước giảm thiểu chi phí đầu tư.
Ngoài ra, với đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật có trình độ cao và được đào
tạo cơ bản cả trong và ngoài nước, có nhiều kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt
động điều tra địa chất , chắc chắn dự án sẽ thành công và mang lại hiệu quả
kinh - tế xã hội đáp ứng lòng mong mỏi của đồng bào các dân tộc miền núi.
Kết quả dự án còn giúp các nhà chuyên môn nắm được quy luật hình thành và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
vận động của nước dưới đất cũng như quy mô khai thác có thể áp dụng, giúp
các cơ quan quản lý điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế khu vực.
Đựơc biết, đến năm 2006 dự án sẽ hoàn thành, khoảng 250.000 người
dân thuộc các tỉnh miền núi đặc biệt khó khăn được tiếp cận và sử dụng nước
sạch, khoảng hơn 100 vùng dân cư, đô thị, di dân được dùng nước trên một
diện tích gần 2.000km2. Đây là một đóng góp không nhỏ trong công cuộc
phát triển kinh tế - xã hội ở 6 tỉnh miền núi phía Bắc đặc biệt khó khăn. Số
vốn đề nghị để thực hiện dự án là hơn 25 tỷ đồng.
1.1.2.2. Tình hình nguồn nước của tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn là nguồn của 5 con sông lớn chảy sang các tỉnh lân cận, đó là
sông Phó Đáy, sông Năng chảy sang tỉnh Tuyên Quang về phía Tây, sông Bắc
Giang chảy sang Lạng Sơn về phía Đông, sông Bằng Giang chảy sang tỉnh Cao
Bằng về phía Bắc và sông Cầu chảy về tỉnh Thái Nguyên.
Theo thống kê sơ bộ của Trung tâm nước sinh hoạt và vệ sinh môi
trường nông thôn, tỉnh Bắc Kạn hiện có hơn 400 công trình cấp nước tập
trung qui mô vừa và nhỏ, thiết kế theo hệ tự chảy tại các địa bàn đông dân cư,
các trường học nơi vùng sâu vùng xa và khoảng 10.000 lu bể chứa, thiết bị
tích trữ nước sạch và hệ thống giếng khoan đạt chuẩn vệ sinh, chưa kể các
giếng nước do dân tự khơi. Với sự đầu tư của Nhà nước, các tổ chức phi
chính phủ, các nhà hảo tâm và sự đóng góp của nhân dân, Bắc Kạn đã nhanh

chóng đảm bảo cung cấp nhu cầu nước sạch hợp vệ sinh cho hơn 70% dân số,
tăng 59% so với năm 1999, trong đó hơn 18.000 nhân khẩu nơi định canh
định cư không còn thiếu nước sinh hoạt [10].
Là tỉnh vùng cao, dân trí thấp, kinh tế chậm phát triển, dân cư sống
thưa thớt theo các lũng núi cao, nước sinh hoạt luôn là nhu cầu cấp thiết với
người dân nơi đây. Hơn nữa, thổ nhưỡng tại Bắc Kạn phần nhiều là núi đá
vôi, mùa hè các khe núi còn có nước chảy, bước sang mùa Thu hoặc mùa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
Đông và Xuân thì nước các khe núi thường cạn kiệt, người dân các bản vùng
sâu phải đi bộ hàng km mới kiếm được nước về nấu ăn, còn tắm rửa, giặt rũ
thì “mạnh ai ấy làm”. Đối với thanh niên và người có sức khoẻ thì còn leo núi
đi xa bản làng tìm được khe nước để tắm giặt, còn trẻ em, người già thì rất ít
có điều kiện tắm giặt trong mùa khô cạn, vì gùi được nước về nấu ăn đã khó,
lấy đâu ra nước sạch đẻ vệ sinh cơ thể.
Trước hàng loạt khó khăn ở nơi vùng sâu, nhất là vùng khó khăn trong
việc tiếp cân nguồn nước, tỉnh Bắc Kạn đã ưu tiên đầu tư xây dựng hạ tầng
phục vụ sự ổn định vững chắc nơi vùng sâu từ; giao thông, thuỷ lợi, điện lưới,
trường học, trạm y tế đến chuyển giao khoa học kỹ thuật giúp bà con thay đổi
tập quán sản xuất, hình thành những thôn bản định canh định cư và dần
chuyển nếp sinh hoạt cũ theo nếp sống mới. Trong đó, Bắc Kạn đã giành hơn
100 tỷ đồng đầu tư các công trình nước sạch sinh hoạt, giúp nhân dân có điều
kiện thay đổi dần nếp sinh hoạt cổ truyền theo lối hợp vệ sinh. Phương thức
Nhà nước và nhân dân cùng làm đối với các dự án về nước sạch, bà con chỉ
đóng góp công sức và lao động thủ công, nhà nước cấp tiền mua vật tư, thiết
bị, nhân công kỹ thuật. Sau bàn giao công trình cho dân hưởng lợi tự quản lý,
duy tu và sử dụng, do đó đã phát huy tốt hiệu quả các công trình, nhất là hệ
thống nước tự chảy nơi tập trung khu cụm dân cư. Nhờ có sự phối kết hợp

nhịp nhàng gữa nhà nước và người dân hưởng lợi, hàng trăm công trình nước
sạch tập trung tại khu cụm dân cư và hàng nghìn công trình cấp nước nhỏ lẻ
hình thành nhanh chóng xây dựng xong tại hầu khắp các khu cụm dân cư
vùng sâu, nhất là những địa hình núi đá vôi và cát tơ thường xuyên thiếu
nước, góp phần cấp nước sạch đầy đủ cho hơn 18.000 nhân khẩu đã định canh
định cư, góp phần tăng số dân của toàn tỉnh có nước sạch từ hơn 11% năm
1999 lên trên 70% năm 2008.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
Có nước sạch sinh hoạt, ở các thôn bản vùng cao đã dần bắt nhịp theo
nếp sống mới như ăn ở hợp vệ sinh, góp phần loại bỏ tận gốc các mầm bệnh
ngoài da, đường ruột, sốt rét.
Là tỉnh đầu nguồn sông Cầu, Bắc Kạn đang phải đối mặt với tình trạng
ô nhiễm môi trường đang gia tăng, lưu lượng nước ở đầu nguồn ngày càng
cạn kiệt, tốc độ đô thị hóa ngày càng nhanh, gây ra những tác động xấu tới
môi trường và cảnh quan lưu vực sông Cầu
Tình hình ô nhiễm nguồn nước
Qua điều tra, khảo sát tổng quan hiện trạng ô nhiễm Arsenic (thạch tín)
nguồn nước của Bắc Kạn do Trung tâm Thông tin Kỹ thuật tài nguyên môi trường
tỉnh tiến hành đã cho thấy, tình trạng nhiễm thạch tín đang ở mức báo động
Hàm lượng thạch tín tại sông, suối cao
Theo tài liệu của Phòng Môi trường (Sở TN & MT) khi phân tích mẫu
nước tại vị trí đuôi nước thải gần các xí nghiệp chế biến khoáng sản. Kết quả
cho thấy, nguồn nước tại các sông suối đều ô nhiễm thạch tín. Điều này cũng
khẳng định, ở những vùng nhiều khoáng sản như Chợ Đồn, Ngân Sơn nguy
cơ nhiễm thạch tín càng cao. Một vài xã ở cuối nguồn nước thải từ khu vực
khai thác quặng ở xã Bằng Lãng như Tủm Tó, Bản Lắc hàm lượng Arsenic
khi thử nhanh đều cao hơn mức quy định.

Đoàn Trung tâm Thông tin Kỹ thuật TN - MT đã tiến hành điều tra ở 8
huyện thị với 72/122 xã, phường, tập trung vào giếng khoan, giếng đào và
những mạch lộ mà người dân sử dụng làm nước sinh hoạt. Cụ thể, 277 công
trình lấy nước từ khe, mạch lộ, 3 vị trí lấy nước mặt, 306 giếng đào và 114
giếng khoan. Đoàn sử dụng bộ dụng cụ phân tích tại hiện trường, phiếu điều
tra và gửi mẫu về phòng thí nghiệm Kết quả là chỉ có duy nhất xã Bằng
Lãng (Chợ Đồn) có hàm lượng thạch tín 0,05mg/l (vượt quá tiêu chuẩn quy
định là 0,01mg/l). Những tài liệu nghiên cứu trước đó cũng khẳng định, tại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
một số huyện, nguồn nước mặt, nước sinh hoạt đều nhiễm thạch tín ở nhiều
mức độ, qua thời gian chúng sẽ ngấm vào mạch nước ngầm và lại được dùng
làm nước sinh hoạt.
Bắc Kạn có nhiều sông suối như Sông Cầu, sông Năng, sông Phó Đáy,
sông Bắc Giang, sông Na Rì, sông Hiến, sông Bằng Khẩu chưa kể hàng
trăm con suối, khe lạch khác.
Hiện nay, nguồn nước một số vùng trên địa bàn đã chịu ảnh hưởng của
các chất thải, gây hiện tượng ô nhiễm, nguyên nhân gây ô nhiễm được các
khoa học khẳng định, một phần do cấu tạo địa chất. Tuy nhiên, nguyên nhân
chính vẫn do các nhà máy xả thải không qua xử lý, người dân sử dụng nhiều
chất bảo vệ thực vật trong nông nghiệp, đào lấp giếng không đúng tiêu chuẩn.
Quan trọng hơn nữa là do hoạt động khai thác khoáng sản ngày càng phát
triển trên địa bàn tỉnh.
Một trong những biện pháp được Trung tâm Thông tin Kỹ thuật Tài
nguyên và môi trường phổ biến, là dùng phương pháp lọc bằng cách cho
nước thô đi qua khối vật liệu bằng cát, than hoạt tính, vải lọc. Phương pháp
này có thể lọc bớt các chất bẩn nhìn thấy như mănggan, kết tủa sắt, vi khuẩn
và cả Arsenic. Điều này đặc biệt hữu dụng với rất nhiều hộ dân đang sử dụng

giếng đào, giếng khoan ở các thị trấn, thị tứ của tỉnh.
Mặc dù, tình trạng nguồn nước nhiễm arsenic tại Bắc Kạn chưa quá
nghiêm trọng như tại Hà Nam, An Giang nhưng nếu người dân sử dụng
trong thời gian dài thì khả năng mắc bệnh là không tránh khỏi. Cần phải có
các giải pháp và chính sách hợp lý để xử lý tình trạng nhiểm asenic.
* Tình hình thuỷ lợi và phát triển nông nghiệp Miền Núi
Thuỷ lợi là một thuật ngữ, tên gọi truyền thống của việc nghiên cứu
khoa học công nghệ, đánh giá, khai thác sử dụng, bảo vệ nguồn tài nguyên
nước và môi trường, phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
Hệ thống thuỷ lợi được xây dựng ở các tỉnh miền núi còn rất ít so với nhu
cầu của sản xuất. Hầu hết mới chỉ phục vụ tưới tiêu cho lúa và một ít cho cây
trồng cạn và hoa màu. Tưới cho cây ăn quả, cây công nghiệp chưa được đề cập,
còn yếu. Năng lực tưới mới chỉ đáp ứng 20% - 30% đất nông nghiệp hiện có.
Đồng thời mới đạt 40% - 60% công suất thiết kế của các công trình thuỷ lợi [5].
Chi phí đầu tư ban đầu cho công trình thuỷ lợi ở miền núi gấp 2 - 3 lần ở đồng
bằng cho 1 ha canh tác nông nghiệp. Địa hình miền núi phức tạp, lượng mưa
không nhiều, lại phân bố không đều, bốc hơi lớn, đất có tính thấm mạnh, hệ số
dòng chảy nhỏ, diện tích canh tác phân tán và không bằng phẳng nên rất khó
khăn về nguồn nước và bố trí hệ thống tưới mặt ruộng. Các công trình thuỷ lợi
ở Tây Nguyên được xây dựng sau giải phóng Miền Nam mới đảm bảo tưới
30.000 ha lúa đông xuân, 46.000 ha lúa mùa và 44.000 ha cà phê (khoảng 50
diện tích hiện có) và 15% so với diện tích đất ở 5 tỉnh Tây nguyên [5].
Mục tiêu phát triển kinh tế nông nghiệp chính ở các tỉnh miền núi và
Tây Nguyên là ổn định về lương thực, phát triển lợi thế về sản xuất hàng hoá,
đó là phát triển cây ăn quả, cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao. Phấn đấu
đến năm 2010 tổng sản lượng cây cà phê, cây điều các tỉnh miền núi tăng gấp

3 lần. Diện tích cây ăn quả tăng gấp 5 lần, cây công nghiệp tăng gấp 5 lần,
cây hoa màu tăng gấp 2,5 lần so với hiện nay. Yêu cầu về nước tưới và các
biện pháp thâm canh khác cũng phải đầu tư rất lớn [5].
1.1.2.3. Tình hình phát triển của hệ thống thuỷ lợi ở tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn là tỉnh thượng nguồn của lưu vực sông Cầu, có địa hình phức
tạp chủ yếu là núi cao. Hệ thống sông Cầu nằm trên địa bàn tỉnh có độ dốc
lớn, rừng đầu nguồn và thảm phủ thực vật bị thoái hoá, khai thác mạnh nên
hàng năm vào mùa mưa thường xảy ra lũ quét gây thiệt hại lớn về người và
nhà cửa, hoa màu, tài sản, đất đai của nhân dân. Vào mùa khô mực nước trên
các nhánh sông thường cạn gây khô hạn, thiếu nguồn nước cho sản xuất và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23
sinh hoạt của nhân dân. Với tỉnh Bắc Kạn, phần lớn nhân dân sống bằng nghề
nông nghiệp do vậy nguồn nước trên các nhánh sông có ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống của nhân dân.
Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các Bộ
ngành trung ương, tỉnh Bắc Kạn đã được đầu tư xây dựng nhiều công trình
thuỷ lợi để chủ động nguồn nước trong sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt và
giảm nhẹ thiệt hại do lũ gây ra. Với các nguồn vốn ngân sách Nhà nước, tài
trợ, dân đóng góp đến nay toàn tỉnh đã xây dựng được hơn 500 công trình
gồm hồ chứa, đập dâng, hệ thống kênh mương, tưới chủ động bằng công trình
5.780 ha ruộng lúa.
a. Kết quả công tác thuỷ lợi phục vụ sản xuất của tỉnh Bắc Kạn trong 6
tháng đầu năm 2006
Từ đầu năm 2006 Sở Nông nghiệp và PTNT đã cùng các địa phương
kiểm tra, chỉ đạo nạo vét các hệ thống công trình thuỷ lợi, tích luỹ nước trong
các ao hồ, bảo dưỡng các máy bơm trên địa bàn, chủ động tốt công tác cày ải
trước vụ xuân, hoàn thiện thủ tục XDCB để tiến hành thi công một số công

trình trong thời gian tới và tiếp tục khảo sát thiết kế các công tình theo kế
hoạch đầu tư của tỉnh.
b. Tình hình thiên tai và biện pháp khắc phục của địa phương
Về hạn hán: Trong 6 tháng đầu năm 2006 trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn tình
hình thời tiết diễn biến phức tạp, tình trạng khô hạn xảy ra trên diện rộng.
Việc xảy ra khô hạn đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất vụ xuân. Trước tình hình
đó, chính quyền địa phương đã chỉ đạo nhân dân tích nước vào các ao hồ, nạo
vét tu sửa kênh mương để đảm bảo nguồn nước tưới, mặt khác chỉ đạo nhân
dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng cho phù hợp với nguồn nước và kịp thời vụ.
Về lũ và công tác PCLB-TKCN: UBND tỉnh Bắc Kạn đã ban hành Chỉ
thị số 08/2006/CT - UBND ngày 10/5/2006 về công tác PCLB - TKCN và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

24
giảm nhẹ thiên tai; đã phê duyệt phương án PCLB - TKCN năm 2006 tại
Quyết định số 913/QĐ - UB ngày 10/5/2006, kiện toàn BCH PCLB - TKCN
của tỉnh và chỉ đạo các ngành, các cấp. Ngày 28/4/2006, tổ chức hội nghị tổng
kết công tác PCLB - TKCN giai đoạn 2001 - 2005 và triển khai công tác
PCLB -TKCN năm 2006. Phối hợp với Trung tâm dự báo khí tượng thuỷ văn
tỉnh kiểm tra các hệ thống đo mưa, đo mực nước đảm bảo hoạt động tốt để
phục vụ cho công tác PCLB trên địa bàn tỉnh [10].
c. Các vấn đề phát sinh trong lưu vực, khó khăn, tồn tại và kiến nghị của
địa phương
Các vấn đề phát sinh trong lưu vực: Hiện nay diện tích rừng, thảm phủ
thực vật mỏng, địa hình dốc khả năng giữ nước kém nên mùa mưa thường
ngập úng, lũ quét, vào mùa khô các sông suối cạn kiệt ảnh hưởng đến sản
xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân. Ngoài ra hiện nay các cơ sở công
nghiệp khai thác khoáng sản do công tác xử lý chất thải kém nên gây ô nhiễm
nguồn nước trên một số nhánh sông suối (huyện Chợ Đồn, Na Rì, Ngân Sơn).

Khó khăn, tồn tại: Công tác quy hoạch thuỷ lợi chưa được thực hiện
toàn diện trên địa bàn toàn tỉnh do vậy việc hoạch định, cân đối sử dụng
nguồn nước lâu dài, đa mục tiêu chưa được tận dụng tối đa. Hiện nay tỉnh
đang tiến hành lập quy hoạch phát triển thuỷ lợi toàn tỉnh, dự kiến hoàn thành
cuối năm 2006.
d. Yêu cầu phối hợp đa ngành và liên tỉnh trong phát triển lưu vực
Để ổn định lưu vực sông sự phối hợp đa ngành, liên tỉnh là yếu tố cần
thiết. Trong công tác quản lý nguồn nước cần có sự phối hợp giữa các ngành,
các tỉnh để đảm bảo chất lượng nước và môi trường. Có các giải pháp công
trình và phi công trình để ổn định lâu dài, cân bằng môi trường sinh thái. Về
tổ chức quản lý, có chế chính sách phải có sự thống nhất, phù hợp với điều
kiện tổng thể của lưu vực.

×