Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Luận văn : NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN PHÚ BÌNH part 3 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.64 KB, 10 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-20-

* Khách hàng vay v ốn là dân cư và doanh nghiệp có hai loại mục đích chính:
- Vay vốn phục vụ đời sống, sinh hoạt.
- Đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh.
Tuỳ theo từng mục đích mà CBTD phân tích và thẩm định khách hàng
vay vốn theo những nội dung sau:
* Thời hạn cho vay:
Ngân hàng và khách hàng thoả thuận về thời hạn cho vay căn cứ vào:
- Chu kỳ sản xuất kinh doanh
- Thời hạn thu hồi của dự án đầu tư
- Khả năng trả nợ của khách hàng
- Nguồn vốn cho vay của ngân hàng
Từ đó Ngân hàng sẽ quyết định dựa theo đề nghị của khách hàng cho vay
với các thể loại là ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn.
* Lãi suất cho vay:
- Mức lãi suất cho vay do ngân hàng nơi cho vay và khách hàng thoả
thuận phù hợp với quy định của ngân hàng và Ngân hàng Nhà nước
- Mức lãi suất áp dụng đối với khoản nợ gốc quá hạn do ngân hàng cho
vay ấn định nhưng không vượt quá 150% lãi suất cho vay áp dụng trong thời
hạn cho vay đã được ký kết hoặc điều chỉnh trong hợp đồng tín dụng, theo
quy định của NHNN Việt Nam và hướng dẫn của mỗi ngân hàng.
* Mức cho vay:
- Việc xác định mức cho vay căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách
hàng, giá trị tài sản làm đảm bảo tiền vay (Ngân hàng sẽ cho vay tối đa bằng
75% giá trị tài sản bảo đảm), khả năng hoàn trả nợ của khách hàng, khả năng
nguồn vốn của ngân hàng. Mức cho vay tối đa đối với một khách hàng không
quá 15% vốn tự có của Ngân hàng. Xác định đúng, cho vay đầy đủ hợp lý số



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-21-

tiền vay sẽ giúp hộ sử dụng vốn có hiệu quả, độ an toàn vốn cao, đảm bảo
chất lượng tín dụng.
- Quy định về vốn tự có:
+ Đối với cho vay ngắn hạn: khách hàng phải có vốn tự có tối thiểu 10%
trong tổng nhu cầu vốn
+ Đối với cho vay trung, dài hạn: khách hàng phải có vốn tự có tối thiểu
15% trong tổng nhu cầu vốn
- Riêng đối với hộ sản xuất hoặc những khách hàng có tín nhiệm thì
được vay đến 10 triệu đồng mà không phải bảo đảm bằng tài sản; nếu vốn tự
có thấp hơn quy định trên, giao cho Giám đốc Ngân hàng nơi cho vay quyết
định.
- Đối với những hộ vay trên 10 triệu thì phải thực hiện bảo đảm bằng tài
sản theo quy định hiện hành của Chính phủ, của Thống đốc NHNN Việt Nam,
của từng ngân hàng.
* Đối tượng cho vay: chủ yếu là giá trị vật tư hàng hoá, máy móc thiết bị
và các khoản chi phí thực hiện các dự án, phương án sản xuất kinh doanh,
các vật dụng cần thiết cho sản xuất
* Nguồn vốn cho vay : Vốn của Ngân hàng là giá trị tiền tệ mà Ngân
hàng tạo lập hay huy động được từ các nguồn nhàn rỗi để sử dụng vào hoạt
động kinh doanh. Nó được hình thành từ 4 nguồn cơ bản sau:
- Vốn tự có: là vốn thuộc sở hữu riêng của Ngân hàng.
- Vốn huy động: được hình thành thông qua việc sử dụng các phương
tiện nhằm thu hút vốn nhàn rỗi trong dân chúng, bao gồm tiền gửi thanh toán,
tiết kiệm, phát hành giấy tờ có giá
- Vốn đi vay: vay NHNN hoặc các tổ chức tín dụng khác.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-22-

- Vốn khác: được hình thành từ hoạt động tham gia làm đại lý, uỷ thác
cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước từ việc cung cấp các phương
tiện thanh toán.
* Phương thức cho vay:
Tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và số tiền mà khách hàng cần vay mà
Ngân hàng áp dụng các phương thức cho vay thích hợp. Các phương thức cho
vay có thể sử dụng là cho vay trực tiếp, cho vay bán trực tiếp (như cho vay theo
tổ hợp tác, theo tổ liên doanh), cho vay gián tiếp qua các tổ chức trung gian
1.1.5. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng thương mại
1.1.5.1. Các đặc trưng chung
- Tính thời hạn: nhu cầu vốn của các chủ thể chỉ diễn ra vào một thời
điểm nhất định phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, mùa vụ. Từ nhu cầu
đó khách hàng sẽ định ra một thời hạn để đề nghị ngân hàng cấp tín dụng. Thời
hạn cấp tín dụng cho khách hàng phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh doanh
của khách hàng và cả đối tượng khách hàng xin vay. Trong thời hạn cấp tín
dụng, khách hàng có quyền sử dụng tài sản bằng tiền, tài sản của ngân hàng.
- Tính hoàn trả: xuất phát từ yêu cầu duy trì hoạt động của ngân hàng,
cho vay để tồn tại, ngân hàng cấp tiền vay cho khách hàng và sau một thời
gian nhất định như đã thoả thuận thì người đi vay phải có trách nhiệm thanh
toán cả gốc và/hoặc lãi cho ngân hàng.
- Sự tín nhiệm: tín dụng ngân hàng dựa trên sự tín nhiệm, tin tưởng lẫn
nhau giữa ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng giao tiền, tài sản của mình
cho khách hàng sử dụng với sự tin tưởng rằng sau này khách hàng sé thực
hiện nghĩa vụ hoàn trả theo quy định.
- Tính rủi ro: hoạt động ngân hàng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro vì đây là một

hoạt động rất nhạy cảm về tiền tệ. Có thể có rủi ro do nguyên nhân chủ quan
và khách quan.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-23-

+ Về phía ngân hàng: rủi ro về thông tin không cân xứng, rủi ro lựa
chọn đối nghịch, rủi ro đạo đức của cán bộ tín dụng.
+ Về phía khách hàng: rủi ro đạo đức hoặc do hoạt động sản xuất kinh
doanh không mang lại hiệu quả, thiên tai dẫn đến mất khả năng trả nợ.
1.1.5.2. Đặc trưng đối với tín dụng trong lĩnh vực nông nghiệp
- Mang tính chất thời vụ rõ nét vì sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ,
liên quan đến chu kỳ sinh trưởng của cây lúa, con giống Đặc điểm này
quyết định đến việc ngân hàng cùng với khách hàng lập kế hoạch giải ngân,
phương thức giải ngân hay xác định và thoả thuận về kỳ trả nợ gốc và lãi cho
phù hợp.
- Đối tượng cho vay đa dạng và phong phú về ngành nghề nhưng chủ
yếu là cho vay để chăn nuôi và một số dịch vụ liên quan đến ngành nông
nghiệp. Ví dụ như vay để mua máy tuốt lúa, máy cày, Đây là những đối
tượng chủ yếu của NHNo&PTNT & PTNT.
- Chi phí tổ chức cho vay cao vì giá trị các món vay thấp mà thủ tục không
đổi. Điều này xuất phát từ tính chất sản xuất nhỏ lẻ của hộ sản xuất, mỗi hộ sản
xuất là một đơn vị kinh tế, do đó số vốn mà họ cần và mức vốn tối đa dựa trên
tài sản bảo đảm của họ không cao nên chi phí khi phân bổ tăng cao. Mặt khác,
số lượng khách hàng đông, phân bố ở khắp nơi nên mở rộng cho vay thường
liên quan tới việc mở rộng mạng lưới cho vay, thu nợ (mở chi nhánh, bàn giao
dịch, tổ vay vốn tại xã, ). Đây cũng là yếu tố làm tăng chi phí.
Ngành nông nghiệp cũng là ngành có độ rủi ro tương đ ối cao (do đặc
điểm của sản xuất nông nghiệp là chịu nhiều tác động của tự nhiên như thời

tiết, khí hậu, thiên tai, đất đai ) nên chi phí cho dự phòng rủi ro là tương đối
lớn so với các ngành khác. Từ đó làm chi phí cho một đồng vốn cao. Vì vậy,
phải tìm mọi biện pháp để đưa đồng vốn vào kế hoạch có chi phí thấp nhất.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-24-

- Môi trường tự nhiên có ảnh hưởng đến thu nhập và khả năng trả nợ
của khách hàng. Đối với hộ sản xuất thì nguồn trả nợ vay Ngân hàng chủ yếu
là tiền bán lúa và các sản phẩm khác có liên quan cùng một số ngành nghề
phụ khác (chiếm tỷ lệ không đáng kể). Như vậy kết quả của việc trồng lúa và
chăn nuôi là yếu tố quyết định trong việc xác định khả năng trả nợ của khách
hàng. Mà hiệu quả của sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên
rất lớn, nó có thể chi phối trực tiếp đến nông nghiệp. Bên cạnh đó yếu tố tự
nhiên cũng tác động tới giá cả của các sản phẩm nông nghiệp. Nếu được mùa
thì giá cả thấp làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng đi vay.
Biết được đặc điểm này giúp người cho vay đưa ra các biện pháp phòng ngừa
rủi ro.
1.2. Chất lượng tín dụng
1.2.1. Khái niệm
Chất lượng tín dụng là tính hiệu quả của một dự án hay phương án xin
vay, chính là khả năng sinh lời của đồng vốn mà Ngân hàng đầu tư để thực
hiện dự án hay phương án đó.
Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ một loại sản phẩm nào sản xuất ra
cũng phải là những sản phẩm mang tính cạnh tranh, điều này có nghĩa là mọi
sản phẩm sản xuất ra đều phải đảm bảo yêu cầu về chất lượng. Các nhà kinh
tế đã nhận xét rằng: "Chất lượng phù hợp với mục đích của người sản xuất và
người sử dụng về một loại hàng hoá nào đó" hay "Chất lượng chính là sản
phẩm hoặc dịch vụ đó thoả mãn nhu cầu khách hàng".

Tín dụng là một trong những sản phẩm chính của Ngân hàng, đây là
hình thức sản phẩm mang hình thái phi vật chất, là dịch vụ đặc biệt. Sản phẩm
này chỉ có khả năng đánh giá được chất lượng sau khi khách hàng đã sử dụng.
Do vậy, có thể quan niệm chất lượng tín dụng Ngân hàng là việc đáp ứng nhu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-25-

cầu của khách hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển Ngân hàng và mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội.
Như vậy, chất lượng tín dụng Ngân hàng thể hiện qua các điểm sau :
- Đối với khách hàng: Tín dụng Ngân hàng đưa ra phải phù hợp với yêu
cầu của khách hàng về lãi suất (giá cả sản phẩm), kỳ hạn, phương thức thanh
toán, hình thức thanh toán, thủ tục đơn giản thuận tiện nhưng luôn đảm bảo
nguyên tắc tín dụng.
- Đối với Ngân hàng: Ngân hàng đưa ra các hình thức cho vay phù hợp với
phạm vi mức độ, giới hạn phù hợp với bản thân ngân hàng để luôn đảm bảo tính
cạnh tranh, an toàn, sinh lời theo nguyên tắc trả đầy đủ và có lợi nhuận.
1.2.2. Vai trò của việc nâng cao chất lượng tín dụng
Cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín dụng ngày
càng phát triển nhằm cung cấp thêm các phương tiện để giao dịch đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng trong toàn xã hội. Trong điều kiện đó nâng cao chất
lượng tín dụng ngày càng được quan tâm vì: Đảm bảo chất lượng tín dụng là
điều kiện để Ngân hàng làm tốt chức năng trung gian thanh toán, tín dụng.
Khi chất lượng tín dụng được đảm bảo, vòng quay vốn tín dụng tăng, với một
khối lượng tiền như cũ có thể thực hiện được số lần giao dịch lớn hơn, tạo
điều kiện tiết kiệm tiền trong lưu thông, củng cố sức mua của đồng tiền.
Tín dụng ngân hàng là một tổng thể những công cụ để thực hiện các chủ
trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế xã hội theo từng ngành,

từng lĩnh vực. Mặt khác, thông qua sự phân tích đánh giá khả năng phát triển
của các đối tượng định đầu tư để có quyết định đầu tư đúng đắn nhằm khai
thác khả năng tiềm tàng về tài nguyên, lao động, tiền vốn, tăng cường năng
lực sản xuất, cung cấp nhiều sản phẩm, hàng hoá cho xã hội, giải quyết việc
làm, tăng thu nhập cho người lao động. Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ góp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-26-

phần tăng hiệu quả sản xuất xã hội, đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các
ngành, các vùng trong cả nước.
Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, đi lên nền kinh tế thị trường
từ nền kinh tế tập trung quan liêu với nhiều thách thức, khó khăn. Mặt khác,
sản xuất hàng hoá ở nông thôn chưa phát triển, đơn vị sản xuất chủ yếu là
kinh tế hộ gia đình, năng suất sản lượng còn thấp, quy mô sản xuất nhỏ lẻ,
việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn nhiều hạn chế, trình
độ dân trí thấp. Mà hoạt động tín dụng là hoạt động sống còn, tạo ra lợi nhuận
cho Ngân hàng, vì vậy để có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh
tranh ngày càng gay gắt, các NHTM phải hoạt động có hiệu quả.
1.2.3. Rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng
1.2.3.1. Khái niệm, các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
- Khái niệm rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng đóng vai trò hết sức quan trọng đối với các khoản lỗ
tiềm tàng về phía ngân hàng. Theo đó, rủi ro tín dụng là loại rủi ro do khách
hàng không trả được nợ, nghĩa là không hoàn thành được nghĩa vụ trả nợ của
họ. Khách hàng không có khả năng hoặc không sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ
trả nợ của mình. Khả năng không trả được nợ của khách hàng gây ra toàn bộ
hay một phần lỗ của khoản tiền cho vay của ngân hàng. Rủi ro tín dụng rất
nguy hiểm, khi một vài khách hàng quan trọng không trả được nợ có thể gây

nên những khoản lỗ lớn cho ngân hàng và có thể dẫn ngân hàng tới tình trạng
mất khả năng thanh toán vì vậy chất l ượng tín dụng của ngân hàng đương
nhiên bị ảnh hưởng và suy giảm.
Khi khả năng không trả được nợ của khách hàng là chưa chắc chắn và
khả năng thu hồi tiềm n ăng chưa thể dự báo trước thì rủi ro tín dụng được
chia thành ba loại:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-27-

+ Rủi ro không trả được nợ: là việc khách hàng không thực hiện nghĩa
vụ thanh toán, khách hàng vi phạm các điều khoản cam kết trong hợp đồng,
trường hợp khách hàng bị pháp luật xét xử hoặc khả năng kinh tế không trả
được nợ.
+ Rủi ro tiềm ẩn: là rủi ro không dự báo trước được do cơ chế chính
sách thay đổi, do thiên tai, địch hoạ hay do biên động lớn của thị trường trong
và ngoài nước.
+ Rủi ro thu hồi vốn: quá trình thu hồi vốn vay của ngân hàng không
phát hiện việc trả lãi, gốc chậm trễ hoặc không đủ theo các kỳ hạn đã cam kết.
Nguyên nhân cơ bản dẫn đến rủi ro tín dụng là sự mất khả năng trả nợ
của khách hàng do gặp phải bất trắc trong sản xuất kinh doanh như: khả năng
sinh lời thực tế thấp và giảm sút; phát triển ngành nghề, sản phẩm không
thích hợp và không phải là thế mạnh; giảm giá trị trong cơ cấu tài chính của
hoạt động kinh doanh, nghĩa là thường luân chuyển các nguồn vốn ngắn hạn
cho đầu tư dài hạn; khách hàng khó kiểm soát đối với nhiều hoạt động trên
các khu vực địa lý cách xa nhau; công tác quản lý của khách hàng về tài
chính, vốn lưu động hay nhân sự thiếu chặt chẽ
1.2.3.2. Quản lý rủi ro tín dụng
Nguyên tắc cơ bản của quản lý rủi ro tín dụng là mở rộng tín dụng phải

đảm bảo an toàn và nâng cao chất lượng tín dụng. Theo đó các quy định của
các ngân hàng thương mại phải luôn phù hợp với quy định của Ngân hàng
Nhà nước và thông lệ quốc tế, cụ thể:
* Quản lý khách hàng vay: khách hàng vay được xác định rộng rãi
nhưng chặt chẽ hơn, có đủ cả 2 điều kiện:
+ Điều kiện cần: có nhu cầu vay.
+ Điều kiện đủ: có đủ điều kiện vay, có khả năng trả nợ lãi, gốc theo
cam kết.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-28-

* Xử lý nợ vay: khách hàng vay phải trả nợ gốc, lãi theo đúng thời hạn,
kỳ hạn đã cam kết trong hợp đồng tín dụng song trường hợp khách hàng có lý
do hợp lý về việc giãn việc trả nợ thì sẽ được ngân hàng cơ cấu lại thời hạn
trả nợ bằng hình thức điều chỉnh kỳ hạn trả nợ và gia hạn thời hạn nợ. Nếu
không được ngân hàng cơ cấu lại thời hạn trả nợ thì khoản vay của khách
hàng sẽ bị chuyển nợ quá hạn và chuyển vào các nhóm nợ thích hợp để tiện
theo dõi. Trường hợp các khoản nợ vay khó có khả năng, mất khả năng thu
hồi sẽ được ngân hàng hàng dùng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý, chuyển hạch
toán sang ngoại bảng để theo dõi, thu nợ và nhằm làm lành mạnh tài chính
của ngân hàng. Tuy nhiên, các ngân hàng không được xoá nợ cũng như thông
báo cho khách hàng biết về việc xử lý rủi ro vì bản chất của việc xử lý nợ là
trích thu nhập của ngân hàng để xử lý.
* Kiểm tra, giám sát khoản vay: đánh giá được khả năng hoàn trả nợ
gốc, lãi tiền vay của khách hàng là việc làm thường xuyên, có tính chất quyết
định để phân loại nợ vay theo các nhóm thích hợp và làm căn cứ cho việc cấp
tín dụng cho khách hàng ở các lần tiếp theo.
* Phân loại nợ: theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì

các khoản nợ được phân loại thành 5 nhóm và có 2 phương pháp (định tính và
định lượng):
+ Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn: là các khoản nợ trong hạn và được Ngân
hàng đánh giá là có khả n ăng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn. Tỷ lệ
trích dự phòng cụ thể cho khoản vay thuộc nhóm 1 là: 0%.
+ Nhóm 2: Nợ cần chú ý: bao gồm các khoản nợ được ngân hàng đánh
giá là có khả n ăng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách
hàng suy giảm khả n ăng trả nợ. Tỷ lệ trích dự phòng cụ thể cho khoản vay
thuộc nhóm 2 là: 5%.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-29-

+ Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn: bao gồm các khoản nợ được tổ chức tín
dụng đánh giá là không có khả n ăng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn. Các
khoản nợ này được ngân hàng đánh giá là có khả n ăng tổn thất một phần nợ
gốc và lãi. Tỷ lệ trích dự phòng cụ thể cho khoản vay thuộc nhóm 3 là: 20%.
+ Nhóm 4: Nợ nghi ngờ: bao gồm các khoản nợ được ngân hàng đánh
giá là có khả n ăng tổn thất cao. Tỷ lệ trích dự phòng cụ thể cho khoản vay
thuộc nhóm 4 là: 50%.
+ Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn: bao gồm các khoản nợ được ngân
hàng đánh giá là không còn khả n ăng thu hồi, mất vốn. Tỷ lệ trích dự phòng
cụ thể cho khoản vay thuộc nhóm 5 là: 100%.
* Quỹ dự phòng rủi ro: do ngân hàng tính toán và trích lập theo các quy
định của Ngân hàng Nhà nước từng thời kỳ, bao gồm:
+ Dự phòng chung: là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những
tổn thất chưa xác định được trong quá trình phân loại nợ, trích lập dự phòng cụ
thể và trong các trường hợp khó khăn về tài chính của ngân hàng khi chất
lượng các khoản nợ suy giảm. Tuỳ từng thời kỳ, ngân hàng sẽ trích lập dự

phòng chung theo một tỷ lệ nhất định cho các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4.
+ Dự phòng cụ thể: là khoản tiền được trích lập trên cơ sở phân loại cụ
thể các khoản nợ để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra và được tính
theo công thức sau:
R=max{0,(A-C)}x r
Trong đó:
R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: số dư gốc của khoản nợ
C: giá trị khấu trừ của tài sản bảo đảm
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
* Xếp hạng tín dụng đối với khách hàng

×