Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Kinh tế Fulbright - Cải cách nông thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh tế part 3 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.96 KB, 12 trang )

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
27
làm cho TGHĐ Danh nghóa suy giảm do có lượng ngoại tệ được đổ vào. Nếu giá cả
quốc tế vẫn ổn đònh mà giá trong nước lại tăng gấp đôi trong khi TGHĐ Danh nghóa
vẫn đứng nguyên, thì nông dân cũng sẽ lâm vào tình cảnh như nêu trên, tuy quá trình
diễn biến có hơi khác. Theo tình huống này, giá bằng đôla của gạo và cà phê vẫn như
cũ, và TGHĐ vẫn đứng nguyên. Chỉ có chi phí lưu thông tăng lên do giá nhân công sẽ
đắt hơn. Tuy nhiên, nếu giá cả trong nước nói chung tăng gấp đôi, thì phải có giá cái gì
đó đã tăng lên. Có thể là hàng công nghiệp (vì mức thuế quan cao hơn), dòch vụ, hay
hàng hóa do nông dân mua bò đánh thuế. Kết quả cuối cùng là, thu nhập thực tế của
nông dân từ việc bán thóc chỉ còn khoảng một nửa so với trước. (Phần thóc mà chính
họ tiêu thụ không bò ảnh hưởng gì, ngoài việc giá thành sản xuất có thể cao hơn). Do
vậy, nông dân không có động lực cũng như khả năng để đầu tư thêm vào nông trại của
mình. Nếu có cơ hội, một số sẽ đi tìm cuộc sống khá hơn.
Có một số cách để làm giảm ảnh hưởng xấu của hiện tượng này. Một trong
những cách đó là đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông thôn để giảm giá thành sản xuất lúa
gạo hay các cây trồng khác. Nếu giá thành sản xuất hạ vừa đủ, mức suy giảm trong giá
bán thực tế sẽ không ảnh hưởng quá mạnh đến thu nhập của nông dân. Có thể cố gắng
thu mua thóc (hay các cây trồng khác) với mức giá cao hơn mức thò trường và chòu lỗ
khi bán lại, hoặc bán trên thò trường nội đòa với giá cao. Biện pháp này được áp dụng
vào những thời điểm khẩn cấp ở Thái Lan và thường xuyên ở Nam Triều Tiên và Nhật
Bản. Hầu hết các nước giàu có đều trợ cấp cho nông dân bằng cách thu mua sản phẩm


của họ với giá cao hơn mức giá trên thò trường quốc tế. Trong trường hợp như vậy,
ngân sách chi trực tiếp và người tiêu thụ phải trả mức giá cao hơn. Thà có những chính
sách nâng giá như vậy còn hơn không có gì cả, nhưng tại Việt Nam, những chính sách
này sẽ khó mà lý giải được vì nhiều người sống tại thành phố cũng nghèo (và cần phải
mua gạo) và đầu tư trực tiếp sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn so với trợ giá cho hàng nông
sản.
Tình hình hiện nay ở Việt Nam có nguy cơ phát triển theo hướng rõ ràng là bất
lợi cho nông nghiệp. Sản lượng có tăng thật, nhưng đó là do một vài yếu tố đặc biệt
hay nhất thời, như cơ chế khoán sản phẩm, khả năng mua được nhiều phân bón hơn
hay được cấp tín dụng nhiều hơn, và một số đầu tư vào nông nghiệp của nhà nước bắt
đầu có hiệu quả. Mặc dù vậy, ở các vùng ngoài đồng bằng sông Cửu Long, mức thò
trường sản lượng thóc bình quân trên đầu người rất khiêm tốn. So với cuối năm 1990,
giá thóc không thay đổi máy trong khi giá sinh hoạt đã tăng gấp đôi. Do mức thuế nông
nghiệp hiện đã thấp, có giảm thêm cũng không giúp được gì nhiều. Nếu như TGHĐ
Thực tế cứ tiếp tục bò nâng cao như hiện nay, các khoản đầu tư cho nông thôn sẽ mất
dần tác dụng và sản xuất ở nông thôn sẽ suy giảm.
Không phải chỉ có sản xuất nông nghiệp bò ảnh hưởng trong trường hợp này.
Nhiều nhà máy cũng khó mà cạnh tranh với hàng nhập vì phải trả lương cao hơn cho
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
28
công nhân (do giá sinh hoạt lên cao), trong khi giá hàng nhập đang cạnh tranh với họ

lại giảm xuống hoặc không tăng. Nếu có đủ vốn đầu tư và biết nâng cao hiệu quả, một
số nhà máy sẽ tiếp tục phát triển, nhất là khi giá vận chuyển cao sẽ có tác dụng hạn
chế khả năng cạnh tranh của hàng nhập. Chính các ngành sản xuất sử dụng nhiều lao
động, kể cả ở nông thôn, sẽ bò gặp khó khăn nếu TGHĐ Thực tế cứ tiếp tục bò nâng cao
như hiện nay. (Xem Bảng số liệu trước đây và Chương 5). Khi đó, nhiều ngành công
nghiệp sẽ đổ xô vào sản xuất hàng hóa phi thương mại hoặc không dễ trao đổi, hoặc sử
dụng rất nhiều vốn của nước ngoài và thiết bò, thay vì nhân công, vì như vậy sẽ có lời
hơn. Tóm lại, nếu như những xu hướng hiện nay vẫn cứ tồn tại, sự phát triển của nông
thôn có nguy cơ bò chậm lại hay sẽ đi theo hướng sai lệch.
Hệ thống giáo dục và y tế
Giáo dục và y tế thường không được xem là yếu tố quyết đònh sự tăng trưởng
của nông nghiệp hay của sản xuất nông thôn, tuy đó là sự thật. Nhiều công trình nghiên
cứu ở một số nước đang phát triển cho thấy rằng, đầu tư đúng mức vào giáo dục sẽ
mang lại hiệu quả cao trong nông nghiệp cũng như trong cả nền kinh tế quốc dân. Song
song với sự tăng trưởng kinh tế, ngày càng nhiều công nghệ tinh vi được sử dụng và
hiệu quả của giáo dục trung học ngày càng cao hơn. Đây là thực tế đối với ngành nông
nghiệp cũng như phi nông nghiệp. Mặc dù cho đến nay các công trình nghiên cứu về
đầu tư y tế chưa đưa ra kết luận thống nhất, nhiều người đã nhận đònh rằng, con người
có khả năng lao động với cường độ cao và dẻo dai hơn nếu có sức khỏe. Trẻ con khỏe
mạnh và đủ dinh dưỡng cũng học được nhiều hơn và nhanh hơn. Do vậy, đầu tư đúng
mức vào y tế và giáo dục có lợi cả trước mắt lẫn về lâu dài.
Ngoài ra, việc kết hợp những tiến bộ về giáo dục và y tế với việc tạo công ăn
việc làm nhiều hơn cho phụ nữ sẽ góp phần hạn chế mức tăng trưởng dân số. Thường
các gia đình trong đó người phụ nữ tương đối có học thức và có việc làm ngoài xã hội
có ít con và con cái khỏe mạnh. Do rất nhiều vấn đề trong nông nghiệp và nghèo đói là
hậu quả của sức ép dân số, mọi sự tiến bộ về giáo dục và y tế đều có thể góp phần làm
giảm những sức ép đó và thúc đẩy quá trình chuyển tiếp sang các hoạt động phi nông
nghiệp.
Do những đòi hỏi đầu tư vào y tế và giáo dục rất bức xúc như trình bày trong
phần trên, tình hình hiện nay là đáng lo. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước

đây, với sự giúp đỡ của Liên Xô, Việt Nam đã đạt được một số thành quả đáng kể về
giáo dục và y tế, nhưng từ khi ngân sách thực tế bò cắt giảm, các phúc lợi xã hội đã
phải gánh chòu khá nặng nề. Học phí ngày càng tăng kèm với chi phí học thêm quá
nặng và nỗi hoài nghi về công dụng thực tế của việc học tập đã dẫn đến sự suy giảm
trong số học sinh phổ thông. Một lý do khác là nông dân nay đã có mảnh đất riêng để
canh tác nên có động cơ để hướng những đứa con lớn bỏ học ở nhà làm nghề nông giúp
gia đình. Các câu chuyện được nghe và công trình nghiên cứu sơ bộ về thực trạng nền
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
29
y tế Việt Nam cho thấy rằng, hiện nay nhiều người không được cung cấp dòch vụ y tế
vì lý do tài chính (Ljunggren, Chương 9). Nếu tình hình này cứ tiếp diễn, nền giáo dục
và y tế nông thôn sẽ bò phương hại và điều này về lâu dài sẽ làm cho toàn bộ nền kinh
tế nông thôn bò trì trệ.
Đầu tư rộng khắp về y tế và giáo dục là một trong những việc mà Nhà nước có
thể làm nhằm xóa đói giảm nghèo và giảm bớt sự chênh lệch về phát triển giữa các
vùng, đồng thời có hiệu quả cao và giúp ích cho sự tăng trưởng chung. Một hệ thống y
tế và giáo dục ban đầu được điều hành tốt sẽ không quá tốn kém so với những lợi ích
mà chúng mang đến, và về sau cũng không khó phân phối các lợi ích này khắp mọi
vùng và cho mọi đối tượng dân cư. Chính phủ các nước thường có ít cơ hội để hành
động được lòng dân, mang tính công bằng và có hiệu quả cao. Việt Nam hiểu rõ điều
này, và nhờ thu nhập từ thuế ngày càng tăng nay có điều kiện cũng như trách nhiệm

nâng cao chất lượng và quy mô của hệ thống phúc lợi xã hội.
Những hạn chế trong chính sách thương mại
Một trong những yếu tố chủ yếu quyết đònh mức giá thu mua mà nông dân
phải chấp nhận là cơ cấu các công ty thương nghiệp mua bán với họ, và quy chế mà
các công ty này phải tuân theo. Nếu có sự cạnh tranh giữa các công ty thu mua và quy
chế được thoáng hơn, sự chênh lệch giữa giá thu mua từ nông dân và giá bán buôn tại
thành phố sẽ không lớn. Trái lại, nếu trong quá trình buôn bán có một công ty nào đó
được độc quyền hoặc nếu chỉ có một vài công ty được tham gia, thì nông dân sẽ bò ép
giá và công ty thương nghiệp sẽ được lãi nhiều hơn. Nới lỏng quy chế thương mại sẽ
giúp các công ty mới có điều kiện nhập cuộc, tăng cường sự cần thiết phải cạnh tranh
và nâng mức giá thu mua từ nông dân. Dường như hiện nay không phải ai cũng nhận
thức được điều này.
Đối với hàng nông sản xuất khẩu, Việt Nam thường than phiền rằng mình phải
chấp nhận mức giá thấp hơn các nước láng giềng cho những mặt hàng có chất lượng
tương tự. Hiện tượng này được đổ vạ cho sự cạnh tranh "quá ráo riết" giữa các đơn vò
xuất khẩu và sự thiếu thông tin của họ về thò trường xuất khẩu. Một trong những giải
pháp đã được đề xuất là giới hạn số công ty xuất khẩu nhằm giảm bớt "cạnh tranh có
tính chất phá hoại" và với hy vọng lập lại sự giám sát chặt chẽ trên các mức giá xuất
khẩu và trên các công ty có thò trường nước ngoài. Cách lập luận này là sai và chính
những giới hạn như vậy sẽ phương hại đến mục tiêu mà Nhà nước muốn đạt được khi
đề ra những biện pháp nói trên.
Mức giá mà một công ty xuất khẩu đạt được trên thò trường nước ngoài phụ
thuộc vào nhiều yếu tố. Một trong những yếu tố này là uy tín của công ty trong việc
giao hàng đúng hẹn cũng như có chất lượng cao và ổn đònh hơn, hoặc là khả năng dàn
xếp ổn thỏa các vụ bất đồng với khách hàng. Giá xuất cũng có thể cao hơn nếu công ty
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn

g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
30
xuất khẩu có được nhiều thông tin hơn hoặc khéo léo hơn trong việc thương lượng. Vì
chỉ là một nguồn cung tương đối nhỏ so với thò trường thế giới, đối với đa số mặt hàng
Việt Nam không có nhiều ảnh hưởng trên thò trường thế giới - Việt Nam đơn phương
không thể nào tác động đến các mức giá quốc tế (trừ giá gạo).
Gạo Việt Nam xuất khẩu chỉ được giá thấp do hàng thường được giao không
đúng hẹn (tức là hợp đồng không được tôn trọng) và chất lượng xay xát không tốt. Gần
đây, chất lượng xay xát đã được cải tiến phần nào nhưng việc giao hàng đúng hẹn vẫn
chưa đảm bảo. Ngoài ra, một số đơn vò xuất khẩu đã khai giá xuất gạo thấp đi để trốn
thuế hoặc để tìm cách chuyển ngoại tệ ra nước ngoài.
Không có lý do gì để nghó rằng, so với các công ty nhỏ, các công ty xuất nhập
khẩu lớn trung ương sẽ có lợi thế hơn về chất lượng, độ tin cậy, khả năng dàn xếp tranh
chấp, thu thập thông tin về thò trường nước ngoài hay có tài thường lượng hơn trong
kinh doanh. Luật Hợp đồng sẽ giúp tất cả các công ty vì sẽ tạo điều kiện cho khách
hàng đòi đền bù khi hợp đồng không được tôn trọng. Một khi đạo luật này ra đời, các
đảm bảo ngân hàng hoặc tín phiếu bảo hiểm sẽ góp phần trấn an khách hàng rằng các
nhà xuất khẩu sẽ tôn trọng trách nhiệm pháp lý của họ. Tuy nhiên, cách tốt nhất để
phát triển các kỹ năng cần thiết là thiết lập một cơ chế cởi mở cho phép mọi công ty
tham gia và cạnh tranh với nhau, thay vì giới hạn số công ty được phép xuất khẩu như
hiện nay. Thông thường, việc dành được giấy phép xuất khẩu có tác dụng hạn chế thay
vì nâng cao chất lượng hoạt động của một công ty, do việc cấp giấy phép tạo điều kiện
cho họ an tâm hưởng lợi mà không cần phải cạnh tranh.
Về vấn đề trang bò thông tin cho các công ty, cách giải quyết tốt nhất là tạo
điều kiện để thông tin được phổ biến một cách dễ dàng. Giá gạo hiện nay được truyền
thanh hàng ngày từ Bangkok. Ngoài ra, tự người dân có thể thành lập một trung tâm

buôn bán gạo từ Cần Thơ hoặc thành phố Hồ Chí Minh để các bên muốn mua và bán
gạo có thể tiếp xúc với nhau, và chính các vụ mua bán diễn ra hằng ngày sẽ là nguồn
thông tin tốt. Có nhiều cách đối phó với việc khai giá bán thấp đi, như kiểm soát giá cả
thay vì không cho phép các công ty tư nhân tham gia xuất khẩu. Nếu một công ty có ý
lừa đảo khách hàng và nguồn cung ứng của mình, công ty sẽ nhanh chóng mất uy tín
và gặp khó khăn trong việc vay tín dụng, thu mua hàng của nông dân và ký hợp đồng
với khách hàng. Công ty phải có uy tín mới lớn mạnh được. Thò trường tự do sẽ làm cho
các công ty yếu kém do hoạt động không hữu hiệu hay có hành vi lừa đảo phải chuyển
ngành hoặc bò phá sản. Chỉ những công ty lương thiện và có hiệu quả mới có triển vọng
thành công.
Tóm lại, xuất khẩu sẽ đạt kết quả cao hơn nếu có nhiều công ty cạnh tranh và
lượng thông tin được dồi dào hơn. Nông dân sẽ bán được nông sản với giá cao hơn nếu
khu vực tư nhân cũng được quyền xuất khẩu. Nếu vào vụ thu hoạch nông dân bò "buộc"
phải bán với giá thấp, hạn chế số đơn vò thu mua chỉ làm cho tình hình càng xấu hơn.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
31
Mặt khác, nên tăng tín dụng cho nông dân để họ có thể bán lúa một cách thong thả chứ
không chỉ vào lúc thu hoạch, khi giá cả ở mức thấp nhất. Để kết luận, có thể nói rằng
Việt Nam nên tăng số đơn vò được phép xuất khẩu thay vì thu hẹp lại như hiện nay. Chỉ
có thế mới giúp nông dân được thực sự và nâng cao kỹ năng buôn bán của các công ty
trong nước.

Khuyến khích nâng cao giá trò gia tăng
Một lý do khác để giới hạn hoạt động mua bán là tạo điều kiện cho việc xuất
khẩu hàng nông sản có "giá trò gia tăng cao hơn". Đúng là nhiều hàng nông sản được
xuất từ Việt Nam dưới dạng nguyên liệu hay mới qua chế biến sơ bộ, trong khi nông
sản được chế biến thường có giá trò cao hơn trên mỗi đơn vò trọng lượng. Đối với những
nhà làm kế hoạch tập trung, cách tốt nhất để tăng cường xuất khẩu nông sản là chỉ thò
cho một xí nghiệp quốc doanh xây dựng một nhà máy chế biến thực phẩm và đòi hỏi
nông dân phải bán nguyên liệu cho xí nghiệp này. Cách tư duy như vậy có thể là logic
nhưng cuối cùng cũng có nhược điểm.
Tất nhiên, nâng cao giá trò hàng nông sản qua việc chế biến có những lợi ích
nhất đònh mà các nước phát triển đều đang theo đuổi. Tuy nhiên, phải thấy rằng không
chỉ có lợi ích mà còn có chi phí. Xây dựng nhà máy, thuê nhân công, sử dụng nhiên
liệu và nguyên liệu đều rất tốn kém. Không phải xí nghiệp nào cũng biết cách khai
thác triệt để các mặt hàng chế biến để tạo đủ thu nhập nhằm trang trải các khoản chi
nói trên. Nếu xí nghiệp không có kỹ năng trên thì có buộc nông dân bán nguyên liệu
với giá rẻ cũng không giúp được gì, ngoài ra, như vậy là vô hình chung bắt nông dân
phải trợ cấp cho các xí nghiệp chế biến không hiệu quả. Đối với Việt Nam, vấn đề
chính sách ở đây là làm sao động viên các xí nghiệp chế biến thực phẩm hoạt động tốt,
biết làm ra nhiều giá trò hơn là chi phí. Đó là các xí nghiệp sẽ phát triển nhanh chóng
và đóng thuế cho Nhà nước thay vì yêu cầu trợ cấp.
Câu trả lời là tìm cách hạ chi phí sản xuất thay vì tạo nên độc quyền trong
việc thu mua nông sản. Chi phí sản xuất sẽ thấp hơn nếu đường sá tốt hơn, giá liên lạc
viễn thông và phí cầu cảng hợp lý hơn, điện năng được cung cấp một cách ổn đònh hơn.
Có thể thúc đẩy quá trình này bằng cách đầu tư nghiên cứu nông nghiệp và hoạt động
khuyến nông nhằm nâng cao chất lượng nguyên liệu và hạ bớt chi phí sản xuất. Ngoài
ra, các chương trình giáo dục, đào tạo về khoa học thực phẩm, công nghệ và quản lý
cũng rất cần thiết. Nói chung, mọi sự cải tiến trong môi trường kinh tế có tác dụng làm
hạ chi phí của các xí nghiệp đều có ích. Một khi ngành chế biến nông sản được cung
ứng đủ vật tư với mức giá hợp lý, phần lớn giá trò gia tăng sẽ tăng tự phát. Lúc đó, thò
trường sẽ làm cho mức giá trò gia tăng cao hơn nữa mà không cần phải được xếp đặt

bởi một kế hoạch tập trung nào cả. Do chính phủ thường không thể dự đoán hay khẳng
đònh những loại hình chế biến nào là cần thiết hoặc đòa điểm chế biến nào là tối ưu,
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
32
chính phủ chỉ nên hoạt động trong phạm vi tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư thay vì
cố đề ra những giải pháp chi tiết.
Kết luận cho phần này cũng giống như phần trên. Không thể căn cứ việc lựa
chọn các ngành sản xuất chỉ trên hy vọng "gia tăng giá trò" hàng hóa, vì như vậy dễ có
những chính sách sai lầm và lãng phí tài nguyên. Chiến lược tốt hơn là cố gắng giảm
chi phí sản xuất bằng nhiều cách đồng thời cho phép khu vực tư nhân hay các công ty
quốc doanh tự lực (không được trợ cấp) giành lấy những cơ hội kinh doanh có lợi nhất
cho họ. Tạo điều kiện để mọi thành phần kinh tế được tham gia kinh doanh là cách tốt
nhất để đảm bảo yêu cầu phải cạnh tranh. Và chính yêu cầu phải cạnh tranh sẽ thúc
đẩy mọi người tận dụng mọi cơ hội để xuất khẩu thực phẩm có giá trò cao. Đồng thời,
nông dân cũng sẽ có lợi vì họ sẽ có thể bán sản phẩm cho người trả giá cao nhất chứ
không phải bò buộc phải chấp nhận mức giá do một đơn vò độc quyền ấn đònh.
Phát triển nông thôn để xóa đói giảm nghèo

Nghèo đói tại Việt Nam không đồng đều ở tất cả các vùng và nguyên nhân của
nó cũng khác nhau tùy từng nơi. Để có thể xóa đói giảm nghèo trong điều kiện tăng
trưởng theo hướng thò trường, cần phải hiểu nạn nghèo đói đang diễn ra ở những nơi

nào và tại sao lại như vậy. Khi đã thấu hiểu được điều này, sẽ dễ dàng hơn trong việc
tìm cách đầu tư vào những phương thức chiến lược nhằm thúc đẩy nhòp độ tăng trưởng
chung có tính công bằng giữa các đòa phương cũng như trong phạm vi một đòa phương.
Trong hoàn cảnh gần một nửa dân số sống dưới mức thu nhập khiêm tốn như hiện nay,
rõ ràng là cái nghèo còn ở mức độ rất cao. Thật sai lầm nếu không nhìn nhận thực tế
này và tìm cách đối phó với nó. Nếu không, nhiều đòa phương và phần lớn dân cư sẽ bò
bỏ mặc với cuộc sống nghèo đói. Ngoài ra, hàng triệu người nghèo sẽ tràn vào các
vùng tăng trưởng nhanh hơn làm cho hệ thống dòch vụ phải hoạt động quá tải và cuộc
sống tại các đô thò trở nên khó khăn hơn. Mặc dù hiện tượng di dân từ nông thôn ra
thành thò là một hợp phần lành mạnh và cần thiết của quá trình tăng trưởng nhanh, điều
kiện tăng trưởng sẽ tốt hơn nếu mức thu nhập tăng đồng thời cả ở thành thò lẫn nông
thôn. Nếu thu nhập ở nông thôn giảm sút trong khi thu nhập ở thành thò tăng nhanh, thì
sự chênh lệch về mọi mặt trong cuộc sống sẽ ngày càng khó giải quyết.

Có thể đònh nghóa sự nghèo khó một cách tuyệt đối, tức là không có khả năng
mua một lượng sản phẩm tối thiểu để sống, hoặc một cách tương đối, tức là khi mức
thu nhập chỉ bằng một phần ba của mức thu nhập bình quân. Khi đất nước thònh vượng
hơn, đònh nghóa tương đối trở nên quan trọng hơn. Việt Nam là một nước nghèo theo
nghóa tuyệt đối lẫn tương đối, nhưng đònh nghóa tuyệt đối thường được nhắc đến hơn.
Theo Tổng cục Thống kê, 45.6% nông hộ thuộc diện “nghèo”, và 10% “rất nghèo”, có
nghóa là hơn 30 triệu người đang sống trong sự nghèo túng tại nông thôn. Tỷ lệ người
nghèo sống tại đô thò thường bằng khoảng một phần ba đến một nửa của tỷ lệ sống tại
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á


David O. Dapice and Cao Duc Phat
33
nông thôn. Giả sử rằng 25% của số 14 triệu dân đô thò thuộc diện nghèo, tổng số người
nghèo trong cả nước sẽ trên 34 triệu, tức là gần 50% dân cư.

Đây là mức độ nghèo rất cao, gần giống như Indonesia giữa những năm 1960.
Trung Quốc bắt đầu công cuộc cải cách kinh tế năm 1978 với 30% dân số thuộc diện
nghèo. Malaixia và Thái Lan đã có tỷ lệ dân nghèo tương tự một thế hệ trước đó,
nhưng trong việc đònh nghóa cái nghèo, hai nước này sử dụng những mức thu nhập cao
hơn do vào thời đó họ đã có mức thu nhập bình quân cao. Khi người dân rất nghèo
(đònh mức nghèo khổ được sử dụng tại Việt Nam là mức thu nhập tương đương với 27
kílô gạo/người/tháng, trò giá khoảng 60 USD/năm), họ gặp nhiều khó khăn hơn trong
việc giành lấy những cơ hội làm ăn, nếu có. Kinh tế thò trường thường thưởng công cho
những người hưởng ứng cơ hội mới một cách nhanh chóng, do vậy cần phải tạo điều
kiện cho người nghèo có khả năng hưởng ứng. Nói chung, những việc hữu hiệu nhất
mà Nhà nước có thể làm là cung cấp hạ tầng cơ sở nông thôn, giáo dục và dòch vụ y tế.
Nhà nước cũng có thể phổ biến những thông tin cần thiết mà cá nhân từng người dân
không thể thu thập dễ dàng. Trong một số trường hợp, đầu tư xây dựng công trình công
cộng sử dụng nhiều lao động cũng mang lại hiệu quả mong muốn. Cho dù biện pháp
trọn gói như thế nào đi nữa, nên bắt đầu giải quyết vấn đề với việc xác đònh mức độ
nghèo đói ở từng đòa phương và nguyên nhân của nó. Bảng 4 trình bày ước tính của
chúng tôi về vấn đề này.

Hầu hết các vùng thật nghèo đều có đặc điểm chung là thiếu cơ sở hạ tầng.
Mạng lưới đường nông thôn không được bảo dưỡng đúng mức, ngay cả ở đồng bằng
sông Hồng, và tại nhiều vùng đường sá còn quá thưa thớt cũng như không bao phủ một
cách rộng khắp. Không có đường sá, chi phí vận chuyển vật tư nông nghiệp hay nông
sản sẽ rất cao, buộc dân chúng sản xuất cốt để tự cung tự cấp hay chỉ bán một phần rất
nhỏ của sản lượng, có thể là các loại cây trồng có giá trò cao hơn. Kết quả là người dân

nghèo bò kẹt trong cái vòng lẩn quẩn thu nhập nông nghiệp thấp, ít điều kiện đi vào
chuyên môn hóa và có công nghệ mới, và không có khả năng tạo vốn để cải thiện cuộc
sống.


Bảng 4
Mức độ nghèo khó ở từng vùng tại Việt Nam
Vùng Mức độ Nghèo Ghi chú
Núi phía Bắc Rất cao Cơ sở hạ tầng kém, trình
độ học vấn thấp, rừng bò
tàn phá, dân tộc miền núi.
Đồng bằng sông Hồng Cao Mật độ dân cư cao, ruộng
đất bình
q
uân đầu n
g
ười
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
34
thấp, quyền sử dụng đất
không chắc chắn.

Bắc Trung bộ Rất cao Bão lụt, đường sá xấu, ít
đất trên đầu người ở đồng
bằng.
Nam Trung bộ Trung bình Giống như vùng Bắc Trung
bộ, ít bão lụt hơn.
Tây Nguyên Cao Giống như vùng núi phía
Bắc, nhưng mật độ dân cư
thấp.
Đông Nam bộ Thấp Mật độ dân cư cao, có
vùng có cơ sở hạ tầng và
đất xấu.
Đồng bằng sông Cửu Long Thấp Có vùng đông dân cư, có
vùng có đất hay cơ sở hạ
tầng xấu.
Các vùng đô thò lớn Trung bình Công việc làm không ổn
đònh, mức lương thấp, trình
độ học vấn thấp và kỹ
năng kém.

Có ý kiến cho rằng nâng cấp cơ sở hạ tầng quá tốn kém. Điều này là không
đúng. Sự thực là hiện nay, các công trình đồ sộ có vẻ được ưu tiên hơn, như dự án 500
triệu USD để mở rộng cảng gần thành phố Hồ Chí Minh thay vì nạo vét các đường
thủy sẵn có và tăng cường hệ thống chiếu sáng, có thể là một phương án ít tốn kém hơn
nhiều. (Nếu cần, chúng tôi có thể nêu một số ví dụ khác về những dự án lớn, có mức
sinh lợi thấp và không cấp bách tại Việt Nam). Theo kinh nghiệm của các nước đã đi
trước, thay vì tập trung đầu tư vào một số dự án “thế kỷ” có mức sinh lợi thấp, nên đầu
tư vào việc mở rộng và tu bổ mạng lưới đường sá nông thôn, xây dựng hệ thống thủy
lợi nhỏ, trồng rừng và xây dựng một số cơ sở hạ tầng khác. Đầu tư vào các mục tiêu
như vậy sẽ có hiệu quả kinh tế cao hơn và có tác dụng lớn hơn trong việc tạo công ăn
việc làm, xóa đói giảm nghèo và phát triển cân bằng giữa các đòa phương. Quyết đònh

không đầu tư rộng khắp tại nông thôn và không tính toán việc đầu tư cho có hiệu quả là
một vấn đề chính sách chứ không phải là vấn đề thiếu vốn hay thiếu khả năng lên kế
hoạch và thực hiện kế hoạch.
Để giải quyết vấn đề nghèo đói, cần phải có không những một mà là nhiều
chính sách và đầu tư đòa phương bổ sung cho nhau. Một số chính sách cấp quốc gia
cũng cần thiết và đã được trình bày ở phần trên. Những kiến nghò về đảm bảo quyền sử
dụng đất trong tương lai, áp dụng tỷ giá hối đoái hợp lý, cải tiến hệ thống tài chính
nông thôn và hoạt động khuyến nông và nâng cấp mạng lưới đường sá có thể an toàn
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
35
và có ích cho mọi vùng. Một số đòa phương đã có mật độ dân cư cao từ trước và không
còn nhiều tiềm năng để tăng sản lượng, nhưng nếu chuyển sang những loại cây trồng
và hoạt động nông nghiệp khác (như giảm lúa gạo và tăng sản xuất rau, hoa quả và
chăn nuôi) thu nhập nông dân có thể tăng trong chừng mực nào đó. Tuy nhiên, không
bao lâu nữa sẽ đến lúc phải chuyển hẳn sang hoạt động phi nông nghiệp. Một số vùng
khác vẫn còn đất trống (mặc dù loại đất này có thể sẽ phải bồi đắp, làm thủy lợi hay
cải tạo bằng cách nào đó), do vậy, tiềm năng phát triển nông nghiệp vẫn còn khá lớn.

Sau đây chúng tôi xin giới thiệu một số các dự án đầu tư mà Việt Nam có thể
thực hiện tại các đòa phương. Danh mục này chỉ có tính chất gợi ý và ít ra cũng có thể
giúp các chuyên gia Việt Nam xác đònh những dự án đầu tư và chính sách vừa có mức

sinh lợi cao vừa có hiệu quả trong việc xóa đói giảm nghèo. Ngoài số được nêu trong
danh mục, còn nhiều dự án nông nghiệp khác có tính khả thi, tuy không được nhắc đến
nhưng vẫn nên cho phép hay khuyến khích thực hiện. Danh sách dự án đầu tư chỉ nên
có mục đích gợi ý các lónh vực cần được nghiên cứu hay mở rộng thêm chứ không nên
có mục đích áp đặt hoặc thu hẹp những khả năng giành lấy cơ hội thò trường.

Phần trình bày trên cũng như phần lớn Bảng 5 nói về những dự án đầu tư thích
hợp với chiến lược dài hạn trong việc xóa đói giảm nghèo. Bão tố, lũ lụt và các thiên
tai khác có thể gây nên tình hình đói kém trong thời gian ngắn, khi ấy Nhà nước sẽ
phải có những biện pháp cứu trợ khẩn cấp. Trong chừng mực có thể làm được, các biện
pháp cứu trợ nên hỗ trợ cho các dự án đầu tư dài hạn, chứ không nên chỉ là những dự
án nhân đạo hay có mục tiêu nhất thời, mặc dù các chương trình nhân đạo cũng rất cần
thiết. – Ví dụ, nên giúp các đòa phương thường bò lũ lụt hay hạn hán bằng cách xây
dựng những công trình công cộng có tác dụng hạn chế tác hại của thiên tai, như trồng
rừng trên thượng lưu, xây dựng hồ đập chứa nước, xây dựng đê điều tốt hơn, v.v…
Những dự án như vậy sẽ có tác dụng tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho người
nghèo đồng thời hạn chế tác hại của thiên tai trong tương lai.
Bảng 5
Tiềm năng và đầu tư nông nghiệp theo vùng
Vùng Tiềm năng Nên Đầu tư vào
Núi phía Bắc Cây công nghiệp, lâm sản,
chăn nuôi gia súc
Đường sá, tín dụng, khuyến
nông, thủy lợi nhỏ, y tế &
giáo dục, trồng rừng
Đồng bằng sông Hồng Thâm canh lúa gạo, rau
quả, nuôi lợn, gia cầm
Nâng cấp đường sá & thủy
lợi, tín dụng, công nghiệp
nông thôn, khuyến nông

Duyên hải Trung bộ Cây công nghiệp, hoa quả,
chăn nuôi
g
ia súc, n
g
ư
Giống như đồng bằng sông
Hồng
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
36
nghiệp
Tây Nguyên Cà phê, cao su, hoa quả,
chăn nuôi gia súc
Thủy lợi nhỏ, đường sá, tín
dụng, chăm sóc sức khỏe,
giáo dục,trồng rừng
Đông Nam bộ Cà phê, cao su, hoa quả,
gia súc gia cầm, rau quả
Nâng cấp thủy lợi và
đường sá, công nghiệp
nông thôn, tín dụng,

khuyến nông
Đồng bằng sông Cửu Long Thâm canh lúa gạo, nuôi
lợn, gia cầm, ngư nghiệp
Thủy lợi, cấp tín dụng,
đường sá, khuyến nông

Giá cả lương thực

Từ trước đến nay, giá cả lương thực là một trong những công cụ dùng để hạn
chế nghèo đói. Tuy nhiên, liệu có nên khống chế giá gạo (chẳng hạn) dưới mức giá
quốc tế tính bằng tiền trong nước để giảm bớt nạn nghèo đói? Điều này còn tùy thuộc
việc số dân nghèo sống ở đâu và liệu họ phải mua lương thực hay có khả năng tự sản
xuất cho mình. Tất nhiên, dân nghèo sống tại đô thò phải mua lương thực nên khống
chế giá có thể là một cách giúp họ. Tuy nhiên, mặc dù gạo là lương thực chủ yếu tại
thành phố, dường như chỉ có khoảng dưới 20% tổng số gạo được bán ra là bán cho dân
nghèo. Do vậy, khống chế giá gạo tại đô thò không phải là cách hữu hiệu nhất để giúp
dân nghèo đô thò. Hơn nữa, họ chỉ chiếm khoảng 10% của tổng số người nghèo cả
nước. Đối với dân nghèo đô thò, có lẽ nên có chính sách trợ cấp theo đối tượng cụ thể
thì tốt hơn. Nên để số người còn lại trả mức giá không chênh lệch nhiều so với mức giá
quốc tế, mặc dù các nước xuất khẩu thường bán gạo cho thò trường nội đòa với mức giá
thấp hơn giá gạo nhập khẩu.

Nông dân thường sản xuất lương thực cho bản thân chứ ít khi nào phải mua. Do
vậy, giữ giá gạo ở mức thấp không có ích gì, nhất là khi nông dân bán gạo như một
hàng hóa. Có lúc nông dân buộc phải bán thóc ngay sau khi thu hoạch với giá thấp để
có tiền chi tiêu, nhưng rồi lại phải mua lại với giá cao. Có thể giúp số nông dân này
bằng cách hạn chế sự giao động của giá cả theo mùa vụ. Để làm được điều này, cần
phải đầu tư nhiều hơn vào đường sá và phương tiện bảo quản, cấp tín dụng nhiều hơn
cho nông dân cũng như cho các đơn vò thu mua, đồng thời nới lỏng các quy chế thương
mại cũng như xuất khẩu. Chỉ như vậy thì nông dân mới bán được thóc với giá cao hơn

vào vụ thu hoạch, và mua được gạo với giá thấp hơn vào lúc giáp hạt.

Chỉ có số nông dân nghèo không sản xuất mới được lợi từ việc khống chế giá
thực phẩm. Những người này thường mua nhiều sắn, ngô hay khoai lang. Tuy nhiên, có
lẽ cách tốt hơn để hỗ trợ mức thu nhập của họ là xây dựng các công trình công cộng tại
nông thôn thay vì thay đổi mức giá thực tế của lương thực thực phẩm không phải là
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
37
gạo. Trừ khi có hạn hán hay tình trạng khẩn cấp, khống chế giá lương thực thực phẩm
dường như là bất lợi chứ không phải có lợi cho đa số dân nghèo. Dù sao đi nữa, nên rất
thận trọng khi đeo đuổi chính sách hạ giá gạo trong nước với mục đích chống nghèo
đói. Giá gạo thấp thường không có tác dụng giúp số lớn dân nghèo và có những cách
tiếp cận khác hữu hiệu hơn. Chỉ trong trường hợp giá gạo trên thế giới giao động dữ
dội, như hai mươi năm trước đây, thì lúc ấy phải có sự can thiệp mạnh mẽ của chính
phủ để giảm hoặc ổn đònh giá gạo trong nước.


Tóm tắt nội dung

Việt Nam cần phải đầu tư vào những vùng nông thôn và tận dụng thời gian có
thể khai thác nông nghiệp một cách có hiệu quả tại mỗi một vùng này. Việt Nam cũng

cần phải tạo điều kiện cho từng nông dân đã được trao quyền sử dụng đất đầu tư nhiều
hơn vào mảnh ruộng của mình. Ngoài ra, Việt Nam cũng nên tự do hóa việc mua bán
nông sản nguyên liệu và nông sản chế biến. Nếu Nhà nước tập trung đầu tư vào các
lónh vực trọng điểm đã bàn ở trên, tức là đường sá, thủy lợi, nghiên cứu, tín dụng, dòch
vụ xã hội và trồng rừng, và kết hợp với chính sách kinh tế vó mô đúng đắn, nền kinh tế
nông thôn sẽ có điều kiện tăng trưởng và nạn nghèo đói sẽ giảm. Lúc ấy, sản lượng
cây trồng không phải gạo và sản lượng phi nông nghiệp ngày sẽ càng tăng.

Trong quá trình tăng trưởng, một số nông dân sẽ phải đối phó với chi phí cao và
sẽ gặp khó khăn trong việc bán sản phẩm đúng giá. Điều này không có nghóa là cơ chế
thò trường đã thất bại, mà chính là nó đang có hiệu quả. Không phải tất cả nông dân
đều phải trồng mọi loại cây trồng, và thậm chí, một số có lẽ không nên trồng gì cả. Cái
chính là phải giới thiệu cho mỗi nông hộ một loạt các phương án với đầy đủ chi phí sản
xuất thóc gạo hay các loại cây trồng khác.

Nếu theo con đường này, Việt Nam sẽ thấy rằng các đô thò trung tâm của mình
phát triển một cách lành mạnh hơn và dễ quản lý hơn, đồng thời sự tăng trưởng tại
nông thôn có khả năng hỗ trợ mức tăng trưởng nhanh và hữu hiệu của toàn bộ nền kinh
tế. Khu vực nông thôn cần phải phát triển một cách vững bền, không phải vì tự nó tốt
hơn hay xấu hơn phát triển công nghiệp hay phát triển đô thò, mà là vì khu vực nông
thôn lành mạnh sẽ góp phần làm cho đất nước vững mạnh. Nhận thức được điều này và
chọn lọc những dự án thể hiện được nhận thức này là vô cùng cần thiết để công cuộc
cải cách theo hướng thò trường có cơ hội thành công cả về mặt kinh tế lẫn chính trò.



i
Xem trang 24 của chương này và phần trình bày về tỷ giá hối đoái trong Chương 5.

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
38

ii
Tác giả Timmer cho rằng mối quan hệ này không bắt buộc phải là quan hệ nhân quả, vì các chính sách
kinh tế tốt, như kinh tế vó mô ổn đònh, vẫn có thể có lới cho cả hai khu vực. Tuy nhiên, ông gợi ý rằng
một sự tăng trưởng mạnh về nông nghiệp thường đi đôi, chứ không phải đi ngược lại, sự tăng trưởng
nhanh hơn trong các ngành phi nông nghiệp.
Xem: Nông nghiệp, Tăng trưởng Kinh tế và Xóa đói Giảm nghèo tại Việt Nam
, Peter Timmer (1993) và
Chính sách Lương thực cho Việt Nam,
Võ Tòng Xuân và Peter Timmer (1990). Cả hai tài liệu đều là tài
liệu tham luận của HIID.

×