Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Kinh tế Fulbright - Cải cách nông thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh tế part 2 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.02 KB, 12 trang )

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
15
đảm bảo cuộc sống, dù chỉ ở mức tối thiểu. Đây là thực tế đã xảy ra ở vùng Đông Bắc
Thái Lan và đã có nguy cơ bò lặp lại ở Việt Nam, nhất là ở miền Bắc.
Các chính sách về ruộng đất trước đây được đề ra vì sự lo ngại rằng Việt Nam
sẽ có một giai cấp nông dân không có đất và sẽ phải gánh chòu hậu quả không hay như
vào những giai đoạn lòch sử trước đây. Do vậy, tại những vùng đông dân cư, đất được
giao cho xã và hợp tác xã để chia lại cho các nông hộ. Nơi nào đất khan hiếm, đất được
phân phối lại theo đònh kỳ để có thể chia thêm cho những hộ trước đó nhận được ít,
hoặc giao ruộng cho lớp thanh niên mới lớn lên muốn làm nông nghiệp. Đúng là biện
pháp này có lập lại một sự công bằng nào đó, nhưng mặt khác lại gây khó khăn cho
việc đầu tư vào đất và hạn chế sự chuyển hướng của nông dân sang những hoạt động
có mức sinh lợi cao hơn. Nói cách khác, biện pháp này được nhiều người ủng hộ và cho
phép chia sẻ sự nghèo đói, nhưng không giúp gì cho một nền nông nghiệp năng động.
Ổn đònh chế độ sử dụng ruộng đất và hỗ trợ việc lao động di chuyển giữa các vùng
cũng như các ngành trong một nền kinh tế tăng trưởng nhanh và cân đối sẽ có tác dụng
làm giảm bớt chứ không làm gia tăng sự nghèo đói. Vốn dó không thích rủi ro, chỉ
người dân mới biết rõ nên làm thế nào để tận dụng những cơ hội làm ăn tại đòa phương
mình. Tạo điều kiện cho họ mua bán đất dễ dàng sẽ có tác dụng tốt. Kinh nghiệm cũng
cho thấy, khi cho nông dân được quyền quản lý đất lâu năm, sản lượng đã tăng. Cũng
như vậy, nông dân sẽ chỉ đầu tư vào mảnh đất của mình khi biết chắc rằng họ sẽ được
gặt hái thành quả của việc đầu tư này.


Luật đất đai năm 1993 : một bước tiến
Giờ đây, Chính phủ Việt Nam đã có một chính sách rõ ràng, mặc dù đất đai
không phải là sở hữu của những người canh tác nó, những người này (nông dân) được
quyền sử dụng đất lâu dài. Luật Đất đai năm 1993 nói rõ rằng, thời gian sử dụng đất
trồng cây hàng năm là 20 năm. Thời gian sử dụng đất rừng là 40 năm. Luật pháp cho
phép thừa kế, chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng như dùng làm thế chấp để vay
vốn ngân hàng. Đây là một bước tiến, nhưng vẫn chưa đủ để khuyến khích đầu tư một
cách hữu hiệu nhất.
Hiện nay, các vụ chuyển nhượng đất vẫn phải được chính phủ đòa phương chấp
thuận, và trong thực tiễn thường gặp khó khăn nếu các bên muốn chuyển nhượng
không thuộc cùng một đòa phương. Ngay cả đối với nông dân Việt Nam ở cùng tỉnh
nhưng lại khác huyện, việc mua bán quyền sử dụng đất cũng không đơn giản. Thực tế
nay hạn chế khả năng áp dụng luật pháp và gây khó khăn cho các nhà đầu tư trong
việc gom đất. Nên tiến đến việc hiển nhiên công nhận các vụ chuyển nhượng ruộng
đất khi bên muốn mua và bên muốn bán đến đăng ký chính thức với chính quyền. Có
thể giải quyết sự lo ngại về những "người ngoài" đến mua đất bằng cách cho người của
đòa phương được quyền ưu tiên mua trước với mức giá do bên bán quy đònh, và mức giá
này cũng sẽ quyết đònh luôn mức thuế mà người bán phải trả.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
16
Nhà nước cũng vẫn quản lý phương thức sử dụng đất. Một khi đã đồng ý cho

nông dân được quyền sử dụng đất lâu năm, chính quyền không nên buộc họ phải xin
phép mỗi khi họ muốn thay đổi loại cây trồng. Trong kinh tế thò trường, quy hoạch
vùng thường không có nghóa là kiểm soát chặt chẽ cách sử dụng đất nông nghiệp, mà
chủ yếu là nhằm ngăn chặn các hoạt động công nghiệp hay thương mại ở những nơi
không phù hợp. Những trường hợp sử dụng đất không đúng (như khi trồng sắn trên
sườn đồi gây nên nạn xói mòn đất) rõ ràng là do người dân không an tâm về quyền sử
dụng đất của mình nên khai thác đất có tính chất bóc lột để kiếm lợi trước mắt. Trong
trường hợp này, công tác khuyến nông sẽ có hiệu quả hơn là ban hành quy chế. Tuy
nhiên, cần phải ban hành quy chế sử dụng đất ở những lưu vực cần được bảo vệ để
người có quyền sử dụng đất không gây nên xói mòn đất.
Tới một lúc nào đó, sẽ cần phải củng cố thời gian hưởng dụng đất thêm nữa,
có thể là bằng cách tái cấp quyền sử dụng đất theo đònh kỳ và một cách gần như tự
động. Thời hạn 20 năm là đủ đối với hầu hết các khoản đầu tư được thực hiện hôm
nay, nhưng khi thời gian sử dụng đất gần hết, cách xử thế người dân có thể sẽ khác đi
và có thể sẽ làm cho năng suất giảm sút. Do vậy, tiến dần đến việc giao cho nông dân
quyền sử dụng đất vónh viễn sẽ giúp họ an tâm đầu tư nhiều hơn vào mảnh đất của
mình và mức sinh lợi của các khoản đầu tư này cũng sẽ cao hơn.
Một trong những thử thách lớn đối với Nhà nước không phải chỉ là việc thay
đổi luật pháp (điều này đã được thực hiện phần nào qua Luật Đất đai năm 1993), mà
còn là việc thay đổi sự cảm nhận của người dân rằng, chính quyền đòa phương thực sự
có thay đổi và cho phép cũng như tôn trọng quyền sử dụng đất lâu năm của người dân.
Để củng cố niềm tin này, Nhà nước có thể trao cho nông dân giấy chứng nhận về
quyền sử dụng đất, trong đó có ghi rõ thời hạn có thể hiệu lực. Nếu các đòa phương
không từ bỏ chính sách cứ một vài năm lại phân chia lại ruộng đất, nông dân sẽ không
bao gkờ bỏ vốn vào những khoản đầu tư đòi hỏi nhiều thời gian hơn để sinh lợi. Do
vậy, việc thực thi luật pháp không kém phần quan trọng so với việc ban hành luật. Xây
dựng cơ chế pháp lý và cưỡng chế việc thực thi nó sẽ góp phần đảm bảo cho nông dân
được hưởng lợi từ các khoản đầu tư của mình, và không để họ mất các khoản đầu tư
này mà không được đền bù một cách xứng đáng. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất phải mang tính chắc chắn và dễ thực hiện. Các vụ tranh chấp phải được giải quyết

một cách công bằng và có thể dự báo được, và cách giải quyết phải mang tính pháp
luật chứ không nên để đòa phương tùy ý quyết đònh.
Một vấn đề có liên quan là vấn đề thuế và lệ phí đi kèm với đất đai. Thuế
nông nghiệp chính thức trước đấy không cao và gần đây đã được giảm xuống mức
tương đương khoảng 7% của giá trò sản lượng. Trên thực tế, còn một số lệ phí và phụ
phí khác làm cho tổng chi phí của nông dân cao hơn. Trong Bảng II, thuế đất đai và
các khoản phí nói trên được thể hiện như một phần của giá trí sản lượng.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
17

Bảng 7.2
Các khoản phí trả cho Hợp tác xã

(tính bằng % của Sản lượng)
Thuế đất 7% - 8%
Thủy lợi 5% - 10%
Làm đất 3% - 5%
Phân bón vô cơ 8% - 10%
Thuốc trừ sâu 3% - 5%
Các khoản phí khác 5% - 10%
Tổng cộng * 31% - 48%

* thêm 15-20 ngày công/năm. Chưa tính phí học đường, y tế và các khoản phí khác
Nếu các khoản phí được ấn đònh một cách tùy tiện và không được sự đồng tình
của tập thể hoặc không phải để chi trả cho dòch vụ nào đó, đầu tư sẽ mang nhiều tính
rủi ro hơn. Lúc ấy, quyển sử dụng đất ổn đònh không còn ý nghóa già vì một phần lớn
của giá trò sản lượng bò lấy đi mà không thể dự báo trước được là bao nhiêu. Ngay cả
hiện nay, phần bò lấy đi có thể tới một nửa của giá trò sản lượng, tuy con số này có bao
gồm một phần chi phí sản xuất.
Trái lại, cơ chế thuế lũy tiến
, với những mức thuế cao dần khi diện tích đất lớn
hơn, là cách hữu hiệu để hạn chế việc đầu cơ đất mà không cần phải ngăn cấm bằng
pháp luật. Cơ chế thuế lũy tiến sẽ giúp giữ thế cân bằng giữa hai mục tiêu là thực hiện
chủ nghóa quân bình và đạt được hiệu quả cao, và sẽ hạn chế tốc độ phát triển của các
nông trại thật lớn.
Tóm lại, những bước chính sách tích cực trong Luật Đất đai năm 1993 cần
được củng cố và mở rộng, để tác dụng của việc có quyền sử dụng và chuyển nhượng
đất ổn đònh được thực hiện đầy đủ. Các bước chính sách cần có trong tương lai gồm có:
1. Gia hạn quyền sử dụng đất một cách đònh kỳ và tự động.
2. Cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất một cách dễ dàng cho bất cứ
người nào muốn mua.
3. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có ghi rõ thời hạn.
4. Xây dựng cơ chế pháp lý nhằm bảo vệ quyền sử dụng đất.
5. Hạn chế các khoản phí tùy tiện hay tăng mức thuế.
6. Ban hành cơ chế thuế lũy tiến để hạn chế việc đầu cơ đất
Cơ sở hạ tầng nông thôn
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g

thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
18
Nhiều vùng nông thôn ở Việt Nam, kể cả hầu hết những vùng rất nghèo, hiện
ở trong tình trạng bò cách ly và thiếu cơ sở hạ tầng. (Có một số vùng đất rất nghèo do
đất cằn cõi và bò thiên tai liên tục nhưng không thể nói là bò cô lập do nằm không xa
các trục đường lớn). Cơ sở hạ tầng bao gồm đường sá, cầu, công trình thủy lợi, hệ thống
mương máng, hệ thống cấp điện cùng các phương tiện liên lạc khác như điện thoại. Khi
một vùng bò cách ly, việc vận chuyển vật tư nông nghiệp, như phân bón, đếùn cho nông
dân và ngược lại, vận chuyển nông sản đến thò trường là rất khó khăn và tốn kém. Kết
quả là nông dân phải mua vật tư với giá cao nhưng chỉ bán sản phẩm được với giá thấp,
ngay khi các trung gian thu mua không có lãi nhiều, vì chi phí vận chuyển đến các chợ
ở thành phố quá đắt.
Trước đây, ngân sách đầu tư cho cơ sở hạ tầng và nông nghiệp được phân bổ
theo các kinh tế tập trung ít quan tâm tới khả năng sinh lợi. Tình trạng này vẫn đang
tiếp diễn trong một số trường hợp. Hiện nay, vốn đầu tư vẫn tập trung nhiều vào các dự
án lớn về thủy lợi và phát triển cây công nghiệp, và phần ngân sách dành cho chúng
vẫn còn rất lớn. Trong khi đó, đường sá không được quan tâm tu bổ đúng mức. Sửa
chữa và bảo quản một con đường dù sao cũng ít tốn kém hơn làm mới hoàn toàn. Hiệu
suất kinh tế của việc sửa chữa đường sá thường rất cao, thậm chí trên 50%/năm. Có
nghóa là, ngay khi không có thu nhập từ lộ phí, chỉ việc giảm chi phí vận chuyển nếu
có đường sá tốt cộng với việc hàng năm không phải tốn kém nhiều để sửa chữa cơ bản
đã là một cái lợi rất lớn về mặt kinh tế. Tuy nhiên, kinh phí cho việc sửa chữa phải
được trích từ thu nhập thuế chung.
Vấn đề đường sá nói chung và sửa chữa đường sá nói riêng phải được ưu tiên
nhiều hơn so với hiện nay. Đồng thời, cũng cần phải xây dựng đường mới, với chất
lượng và mật độ tùy theo lượng giao thông sẽ có sau khi các con đường này được đưa
vào sử dụng. (Ở một số nơi, như một vài vùng tại đồng bằng sông Cửu Long, giao

thông đường sông có thể là một phương án tốt.) Tín dụng nông thôn hay thậm chí cả
công tác khuyến nông cũng sẽ không thành công nếu các nông trại bò cách biệt và gần
như phải tự cung tự cấp. Nối liền các vùng hẻo lánh với thò trường sẽ giúp nông nghiệp
đi vào thâm canh và được chuyên môn hóa đồng thời thúc đẩy các hoạt động phi nông
nghiệp phát triển, vì lúc ấy cả thương nghiệp lẫn chế biến nông sản cũng sẽ có điều
kiện phát triển dễ dàng hơn. Các thò trường lao động thường hoạt động tốt hơn khi nhân
lực được di chuyển từ vùng này sang vùng khác một cách dễ dàng và ít tốn kém.
Đường sá tốt cũng giúp cho việc thu thập thông tin và có thông tin kòp thời về giá cả,
công ăn việc làm, công nghệ sản xuất, v.v… Đây thường là những bước đầu tiên để
thoát khỏi cảnh đói nghèo. Quan trọng hơn hết, hệ thống đường sá tốt sẽ góp phần tạo
dựng một nền kinh tế quốc dân thống nhất thực thụ trong đó tất cả các đòa phương sẽ có
điều kiện giao thương với nhau.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
19
Khi mạng lưới đường sá đã được cải tiến, sẽ đến lượt tập trung nâng cấp các
công trình thủy lợi và thoát nước, nhất là tại các vùng đồng bằng sông Cửu Long và
sông Hồng. Cho đến nay, một số dự án đòi hỏi vốn đầu tư lớn của Nhà nước đã được
nghiên cứu và xác đònh ở mức tiền khả thi (tức là còn phải làm đề án thiết kế chi tiết
hơn, nhưng về sơ bộ, dự án đầu tư có tính khả thi về mặt kỹ thuật và có sức hấp dẫn về
mặt kinh tế). Tại đồng bằng sông Cửu Long, các dự án tưới tiêu nước và cơ sở hạ tầng
nông thôn có liên quan yêu cầu trên 500 triệu USD vốn đầu tư. Một danh mục tương tự

đang được đề ra cho đồng bằng sông Hồng, và tất nhiên, các đồng bằng nhỏ thuộc lưu
vực các con sông nhỏ ven biển miền Trung cũng cần được đầu tư. Trong nhiều trường
hợp ngay cả không phải trong các vùng châu thổ sông, xây dựng hồ chứa nước và các
hệ thống thủy lợi nhỏ cũng có hiệu quả kinh tế cao nếu đồng thời xây dựng đường sá
kèm theo. Nên kết hợp một số các hệ thống thủy lợi này với việc tái trồng rừng ở
thượng lưu nhằm ngăn chặn hiện tượng bối lắng kênh mương và ao hồ nhanh chóng,
cũng như làm giảm hiện tượng hạn hán và lũ lụt theo chu kỳ thường đi đôi với việc phá
rừng.
Những hệ thống thủy lợi có qui mô lớn thường gặp phải một số khó khăn đáng
kể. Các vấn đề như nước mặn xâm nhập tại hạ lưu, sốt rét, nước chua phèn ở cuối
nguồn, v.v… phải được xem xét trong đề án thiết kế để tránh hay để hạn chế bằng cách
đầu tư vào các biện pháp phòng chống ở nơi khác. Hơn nữa, thủy lợi phí quá thấp nên
thu nhập không đủ để đảm bảo ngay việc bảo quản máy móc chứ chưa nói đến trang
trải chi phí khấu hao hay chi phí lãi. Ít nước nào bắt nông dân phải trả thủy lợi phí đúng
mức, nhưng kinh nghiệm cho thấy, sự thiếu hụt trong thu nhập sẽ dẫn đến việc cung
cấp dòch vụ không đầy đủ và chất lượng dòch vụ giảm sút theo thời gian. Trong chừng
mức có thể làm được, nên rút kinh nghiệm của các nước khác trong việc thiết kế và
thực hiện các dự án loại này.
Trong nhiều trường hợp, vấn đề đáng quan tâm là tiêu chứ không phải tưới
nước. Hiện nay người ta dùng các máy bơm điện lớn tập trung để tiêu nước. Nên tìm
những phương án vẫn hữu hiệu nhưng ít tốn kém và linh hoạt hơn, như các máy bơm
điện cỡ nhỏ. Dù sao đi nữa, việc củng cố hệ thống cấp điện sẽ cho phép nông dân sử
dụng nhiều loại máy bơm điện để tiêu nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, giá
bơm nước có thể rất cao ở những vùng dễ bò ngập. Tuy mức giá điện cơ bản được áp
dụng cho hợp tác xã là khoảng 400 đồng/kw-giờ, trên thực tế, nhiều hộ nông dân sử
dụng điện cho sinh hoạt gia đình nhưng lại tính như chi phí bơm nước trong đồng hồ
điện của tập thể. Ngoài ra, không phải lúc nào các nông hộ cũng trả tiền đầy đủ cho
mức tiêu thụ điện của mình. Kết quả là giá điện ở nhiều nơi lên đến 1.000 đồng/kw-
giờ. Đây là mức giá rất cao đối với một số vùng.
Có nhiều việc cần phải làm ở đây. Tất nhiên, trước hết, trong việc đo lường

nên tách mức tiêu thụ điện sinh hoạt khỏi mức tiêu thụ điện dùng để bơm nước. Tập
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
20
thể không nên gánh chòu chi phí tiêu thụ điện cá nhân. Nếu chi phí biên tế
của việc sản
xuất và phân phối điện mùa mưa để hút nước chỉ là 300 đồng, thì giá điện phải được
quy đònh đúng mức như vậy, trừ phi Nhà nước muốn trợ cấp cho nông dân để hạ bớt giá
thành sản xuất thực tế của họ. Giá thành bình quân
của những nguồn cung cấp điện
mới tất nhiên là cao hơn nhiều, nhưng khi điện dồi dào trong mùa mưa, việc đònh giá
dựa trên giá thành bình quân là không cần thiết. Có thể áp dụng phương án để đòa
phương tài trợ một phần nào đó cho mạng lưới phân phối, còn người dân chỉ trả chi phí
biên tế của việc sản xuất điện. Ngoài ra. Nhất thiết phải cải tiến việc đo lường mức
tiêu thụ, tính tiền và thu phí. Nếu được thực hiện đồng bộ, những biện pháp trên sẽ
giúp cho việc bơm nước được thực hiện trên một diện tích lớn hơn và sản lượng nông
nghiệp sẽ cao hơn.
Quá trình phát triển nông thôn thường bắt đầu với việc nâng cấp đường sá,
tiếp theo là hệ thống tưới tiêu nước, rồi sau đó là các dòch vụ khuyến nông và tín dụng.
Tuy nhiên, có một số vùng đặc biệt hẻo lánh cách xa các trục lộ chính, thưa dân cư và
ở đòa thế trắc trở nên phải mất nhiều năm mới xây được đường sá đến đấy. Trong
trường hợp này, trước hết nên đầu tư sản xuất các loại cây lương thực thực phẩm hoặc

các loại cây công nghiệp có giá trò kinh tế cao so với trọng lượng (như cà phê, hồ tiêu…)
mà không phải tốn kém nhiều để vận chuyển. Nói chung, chính sách cấp tín dụng ở các
vùng nghèo chỉ trồng cây thực phẩm sẽ không thành công, vì người dân rất khó kiếm
tiền để hoàn trả. Những công việc làm mang tính công cộng như xây dựng hay sửa
chữa đường sá, làm thủy lợi ở quy mô nhỏ hay làm hồ chứa nước, trồng rừng có thể
được xem như những hoạt động kiếm tiền tạm thời ở những vùng đặc biệt hẻo lánh
này.
Công tác nghiên cứu khoa học và khuyến nông
Trước cải cách, kỹ thuật nông nghiệp được chuyển giao cho hợp tác xã nông
nghiệp qua hệ thống quản lý hành chính. Hệ thống này bao gồm Bộ Nông nghiệp và
các Sở và Phòng Nông nghiệp thuộc y ban Nhân dân các tỉnh và huyện. Lãnh đạo và
các kỹ thuật viên của hợp tác xã là người trực tiếp tiếp nhận kỹ thuật. Trên cơ sở đó, họ
đề ra kế hoạch thực hiện và hướng dẫn nông dân sử dụng những kỹ thuật này. Vào lúc
đó, những kỹ thuật được chuyển giao thường chỉ phù hợp với quy mô sản xuất lớn có
nguồn vật tư và lao động phong phú. Nông dân chỉ được huấn luyện về cơ bản ở mức
hạn chế, và cũng không có gì thúc đẩy họ tìm cách nắm bắt kỹ thuật mới. Do vậy, quá
trình áp dụng tiến bộ kỹ thuật thường diễn ra rất chậm. Cuối những năm 70, cuộc
"Cách mạng Xanh" đã thúc đẩy nhiều hợp tác xã đề ra kế hoạch áp dụng những giống
lúa mới, nhưng việc thực hiện rất chậm chạp và kém hiệu quả.
Sau khi nông dân được giao quyền sử dụng đất, họ bắt đầu quan tâm tìm hiểu
về những kỹ thuật mới do nhận thức được rằng họ sẽ được hưởng lợi trực tiếp từ thu
nhập gia tăng do việc áp dụng kỹ thuật mới. Nhiều nông dân (khoảng một phần ba),
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á


David O. Dapice and Cao Duc Phat
21
vẫn còn thiếu kiến thức canh tác thích hợp để áp dụng các giống mới. Đa số nông dân
sẽ được lợi nếu được cung cấp thêm thông tin dù họ đã biết một số điều cơ bản. Nông
dân ở những vùng hẻo lánh cho đến nay vẫn tiếp tục áp dụng các phương pháp canh
tác cổ truyền. Thông tin về các kỹ thuật mới lan truyền rất chậm vì lúc đó, ngoài hợp
tác xã ra không có cơ cấu nào thích hợp để chuyển giao thông tin đến các hộ gia đình.
Hậu quả là sản lượng nông nghiệp bò hạn chế. Nếu lúc đó có một hệ thống truyền bá
thông tin tốt hơn, những kỹ thuật mới hẳn đã có ảnh hưởng tích cực và rộng lớn hơn
nhiều.
Một tồn tại khác trong công tác khuyến nông là bản thân hệ thống này cũng
đang ở trong quá trình chuyển đổi. Hệ thống chuyển giao kỹ thuật như là một bộ phận
trong bộ máy hành chính nay đang bò co hẹp lại. Các tập đoàn sản xuất không còn tồn
tại ở phần lớn phía Nam, trong khi các hợp tác xã ở miền Bắc cũng không còn đóng vai
trò như trước đây. Hiện nay hết sức cần thiếc xây dựng một hệ thống chuyển giao kỹ
thuật mới. Hầu hết các nước đều có một hệ thống khuyến nông công cộng đóng vai trò
chuyển giao kỹ thuật từ các trung tâm nghiên cứu khoa học đến nông dân một cách dễ
tiếp thu nhất. Những hệ thống có hiệu quả nhất đều bao gồm việc thu thập những vấn
đề vướng mắc của nông dân rồi phản ánh lại cho các trung tâm nghiên cứu. Việt Nam
đã thảo luận nhiều về các thay đổi cần có trong hệ thống khuyến nông của mình. Vừa
qua, Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp Thực phẩm đã được giao trách nhiệm thiết kế và
xúc tiến việc xây dựng một hệ thống được sửa đổi và điều phối hoạt động của tổ chức
này. Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại phải được giải quyết.
- Cán bộ trong hệ thống khuyến nông kiểu mới này phải được đào tạo để
làm việc trực tiếp với nông dân thay vì chỉ báo cáo cho lãnh đạo các hợp
tác xã hay nông trường quốc doanh. Trong nền kinh tế thò trường, các
phương thức chuyển giao kỹ thuật trực tiếp cho nông dân rất khác so với
các phương thức được áp dụng trước đây. Thông tin phải phù hợp với trình
độ học vấn, văn hóa và tập quán của nông dân ở các đòa phương khác

nhau. Cần chuyển giao các kỹ thuật đa dạng để phù hợp với điều kiện kinh
tế của các nhóm nông dân khác nhau. Cần chuyển giao không những thông
tin về kỹ thuật mà cả về kinh tế lẫn thò trường.
- Các cơ chế hoạt động phù hợp, bao gồm cả cơ chế tài chính, phải được
thiết lập để hệ thống khuyến nông có thể hữu hiệu. Ở Việt Nam, công tách
khuyến nông dựa chủ yếu vào ngân sách Nhà nước dành cho nông nghiệp;
ngân sách này đã bò giảm nhiều trong những năm vừa qua nhưng gần đây
đang được phục hồi dần. Tuy vậy, chưa có tập quán sử dụng tiền quyên
góp, hay phí sử dụng, hoặc đóng góp quỹ lương từ các trường đại học hay
các viện nghiên cứu để hỗ trợ cho thu nhập của cán bộ khuyến nông.
Trước đây, công tác khuyến nông thường được kết hợp với việc cung cấp
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
22
vật tư và thậm chí cả với việc chế biến nông sản. Cần tách biệt các hoạt
động này, do hiện nay các hợp tác xã không còn làm mọi dòch vụ như
trước. Nếu để dòch vụ khuyến nông mang tính chất thương mại thuần túy
thì có rủi ro sẽ có những lời khuyên thiên lệch dẫn đến việc sử dụng quá
mức hoặc sử dụng sai lầm phân bón, thuốc trừ sâu, cũng như các vật tư
khác.
- Công tác khuyến nông trước đây chỉ mới chú trọng chuyển giao các kỹ
thuật nông nghiệp, thường là về sản xuất lương thực; nay cần phải chuyển

giao những thông tin đa dạng hơn. Cần cố vấn nông dân về các loại cây
trồng có giá trò hàng hóa cao, về các hệ thống canh tác, chất lượng, các kỹ
thuật sau thu hoạch và nhiều vấn đề khác có liên quan đến sinh hoạt ở
nông thôn nói chung. Sau khi đã phát triển, các tổ chức kinh doanh nông
nghiệp cũng sẽ có thể cung cấp nhiều thông tin, nhưng vẫn phải giúp đỡ
nông dân trong việc tiếp thu các thông tin này. Điều này có nghóa là chính
các cán bộ khuyến nông cần phải hiểu biết nhiều hơn và biết lý giải các
loại thông tin khác nhau. Phương thức khuyến khích nông dân tham gia
vào việc đánh giá các kỹ thuật nông nghiệp sẽ giúp thiết lập một chương
trình khuyến nông thích hợp và hướng cán bộ tập trung vào các vấn đề hữu
ích. Theo phương thức này, nông dân sẽ được tham khảo ý kiến và giúp
xây dựng những vấn đề kiến thức quan trọng nhất cần được bổ sung.
Tín dụng nông thôn và dòch vụ tài chính
Mọi người đều nhận thức được rằng nông dân cần phải có tín dụng để mua vật
tư nông nghiệp. Gần đây, Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đã triển khai chương trình
cấp tín dụng trực tiếp cho nông dân, với quy mô nhỏ (khoảng 150 USD mỗi một
khoản). Chương trình đã phát triển rất nhanh và đến cuối năm 1993, có khoảng hai
triệu nông dân đã được vay tín dụng. Thời hạn vay từ ba đến sáu tháng, đủ thời gian để
trồng và trữ thóc qua mùa lúa khi giá giảm sút. Lãi suất vay từ 2,5% đến 3%/tháng.
Trước đây, các khoản tín dụng được đưa về đòa phương và sau đó, đòa phương lại phân
phối vật tư nông nghiệp. Hiện nay, mỗi huyện có ít nhất một chi nhánh ngân hàng, có
huyện có nhiều hơn.
Cách tiếp cận này là đáng mừng và có ích, nhưng đây chỉ là bước đầu trong
việc đảm bảo các dòch vụ tài chính thích hợp cho nông thôn với chất lượng cao. Trước
hết, phải tạo điều kiện cho nông dân được gửi tiền dễ dàng vào ngân hàng. Ví dụ, ngân
hàng không nên quá xa thì mới khuyến khích được việc nông dân gửi tiền tiết kiệm.
Phải tạo điều kiện cho các nông hộ tích lũy thu nhập dư dã của mình không phải bằng
thóc hay vàng như trước, mà là dưới dạng các tài khoản ngân hàng. Tuy nhiên, học
phải có quyền trên các tài khoản này, tức là được rút tiền bất cứ lúc nào cần và không
phải trả lời bất cứ câu hỏi nào. Giá trò thực tế của số tiền tiết kiệm phải được duy trì,

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
23
ngoài ra, nên có một ít lãi thực tế. (Năm 1993, lãi suất gửi tiết kiệm là 1% đến
2%/tháng trong khi tỷ lệ lạm phát dưới 10%/năm, do vậy, lãi suất trên tiền gửi đã cao
hơn mức lạm phát). Chúng tôi xin lặp lại, ngân hàng không nên ở quá xa do các khoản
tiết kiệm thường không lớn và nông dân phải thường xuyên đến ngân hàng. Nếu ngân
hàng biết sử dụng các khoản tiết kiệm này làm vốn cho vay và các khoản vốn vay này
được trả lại đầy đủ, cả ngân hàng và xã hội đều sẽ có lợi.
Đối với vấn đề vay, nên gia tăng cả số lượng và thời hạn được vay. Do cách
suy nghó cũ, phần nào vẫn còn tồn tại ngày nay, tín dụng vẫn được xem như một món
hàng quý hiếm phải được phân phối bằng biện pháp hành chính thay vì bằng giá cả. Do
vậy, các ngân hàng thường thích cho các công ty thương nghiệp hay hợp tác xã vay một
khoản lớn hơn là cấp cho nông dân những khoản tín dụng nhỏ có lãi suất thấp hơn (mà
việc quản lý lại rất tốn kém). Ngân hàng cấp tín dụng cho nông dân do chỉ thò của Nhà
nước chứ không phải vì đây là hoạt động có lãi. Do lãi suất tiền gửi gần 2%/tháng trong
khi lãi suất tiền vay chỉ có 2,5%, ngân hàng không đủ thu nhập để trang trải chi phí cấp
tín dụng cho nông dân, ngay cả khi hầu hết các khoản tín dụng đều được hoàn trả. Hơn
nữa, hiện nay tín dụng ngân hàng chỉ được cấp chủ yếu cho sản xuất nông nghiệp hoặc
để lưu trữ thóc chứ chưa được dành cho những mục tiêu khác như sản xuất công
nghiệp nhỏ.
Tín dụng nông thôn đã được thực hiện tại nhiều nước trên thế giới và có một

số bài học kinh nghiệm có thể rút ra từ đấy. Kinh nghiệm thứ nhất là, tín dụng phải
phục vụ việc phát triển nông thôn chứ không chỉ nông nghiệp. Đặc biệt tại những vùng
đất khan hiếm, hầu hết các nông hộ đều phải có những hoạt động nông nghiệp và phi
nông nghiệp để kiếm sống và để có được mức thu nhập cao cũng như ổn đònh hơn. Do
vậy, không thể nào biết được tín dụng được sử dụng cho những mục đích gì trong một
gia đình có nhiều nghề, và điều này cũng không quan trọng. Chính khả năng chuyển
vốn từ hoạt động này sang hoạt động khác là một lợi thế giúp nông dân giảm bớt nhu
cầu về tín dụng dài hạn. Vấn đề quan trọng nhất đối với một ngân hàng cho vay với lãi
suất thương mại là, liệu các khoản vay có được hoàn trả hay không. Nếu có khả năng
được hoàn trả, nên quy đònh một mức tối đa nào đó (như một hay vài nghìn USD) và
cho vay, bất kể khoản vốn vay sẽ được sử dụng trong lónh vực nào miễn là mang lại
hiệu quả cao. Không cần phải có phân tích dự án phức tạp. Đối tượng xin vay phải là
người lương thiện, phải có vật thế chấp (có thể là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
trong tương lai) và nên có uy tín trong việc hoàn trả nợ cũ cũng như có triển vọng trả
nợ mới.
Kinh nghiệm thứ hai là, lãi suất tín dụng nên là lãi suất thương mại chứ không
nên được trợ cấp hay ở mức quá thấp. Điều này có vẻ không hợp lý cả về mặt kinh
doanh cũng như về công bằng xã hội vì nông dân còn nghèo. Lẽ ra họ phải được nhận
tín dụng với giá rẻ mới đúng chứ? Thực tế là, một khi có lãi suất rất thấp thì nguồn tín
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
24

dụng lại rất hạn chế. Nếu lãi suất tiền vay thấp thì lãi suất tiền gửi thường cũng thấp,
do vậy tiền tiết kiệm gửi ngân hàng cũng không nhiều, và rốt cuộc nguồn tiền để vay
cũng rất hạn chế. Vì vậy, tín dụng "rẻ" cũng có nghóa là không có tín dụng. Thêm vào
đó, nhu cầu vay với giá rẻ thường rất lớn trong khi quỹ cho vay lại không lớn, nên cầu
vượt cung. Lúc ấy, Nhà nước lại áp dụng biện pháp phân phối, tức là dùng những tiêu
chuẩn hành chính để quyết đònh đơn xin vay nào "xứng đáng" và "không xứng đáng".
Do vậy mà việc kiểm soát công dụng của khoản vay trở nên phổ biến và lượng cho vay
cũng không lớn. Trong trường hợp tốt nhất, Nhà nước vẫn có thể cấp được những khoản
tín dụng nhỏ và rẻ một cách rộng khắp, nhưng chi phí hành chính sẽ cao. Trong trường
hợp xấu nhất, chỉ một số nhỏ đối tượng xin vay "an toàn" (tức là giàu có) hay có thế lực
là được hưởng tín dụng rẻ, còn hầu hết nông dân chỉ được vay rất ít hoặc không rẻ. Mặt
khác, do áp lực phải giữ lãi suất tín dụng ở mức thấp, khoảng "chênh lệch" giữa lãi suất
vay và lãi suất gửi cũng không được lớn và do vậy, ngân hàng không đủ lợi nhuận để
trang trải chi phí hoạt động của mình. Cũng do vậy mà ngân hàng không muốn mở
nhiều văn phòng, không muốn thuê nhiều nhân viên và tránh không muốn cấp nhiều
khoản tín dụng nhỏ để đỡ tốn kém. Kết quả cuối cùng là, đối với đa số nông dân, tín
dụng với giá rẻ có nghóa là không có tín dụng, hay rất ít tín dụng.
Kinh nghiệm thứ ba là, nông dân thường trả nợ sòng phẳng hơn khi biết rằng
đó là điều kiện để được vay thêm trong tương lai. Đa số nông dân đều nhận thức được
tính quan trọng của việc được vay và hết sức bảo vệ khả năng này. Nếu ngân hàng
đồng ý cấp những khoản tín dụng khá lớn bất kể được sử dụng ra sao miễn là có sinh
lợi mà không đòi hỏi nhiều thủ tục và với lãi suất cao (khoảng 3% hay 4% trong tình
hình hiện nay), thì có nhiều triển vọng rằng nợ sẽ được hoàn trả. Nếu ngân hàng chỉ
cấp những khoản tín dụng nhỏ và không thường xuyên, đòi hỏi nhiều thủ tục và chỉ với
mục đích sản xuất nông nghiệp, áp lực để nông dân trả nợ sẽ ít hơn nhiều. Do vậy, sự
tồn tại của hệ thống tín dụng phụ thuộc rất nhiều vào việc duy trì khả năng cấp tín
dụng của nó.
Trong hệ thống tín dụng lý tưởng, các ngân hàng nông thôn cạnh tranh nhau
để cung cấp cho khách hàng cả dòch vụ gửi tiền tiết kiệm cũng như cho vay. Tất cả mọi
đối tượng có triển vọng trả nợ tốt sẽ được cấp tín dụng dễ dàng mà không phải qua các

thủ tục quan liêu, quy mô tín dụng sẽ không bò cắt giảm do lãi suất thấp hoặc việc sử
dụng tín dụng sẽ không bò giới hạn như hiện nay. Tuy nhiên, trước mắt, sẽ không có
nhiều ngân hàng thương mại quan tâm đến việc hoạt động tại nông thôn, vì vậy Ngân
hàng Nông nghiệp (ngân hàng này nên hoạt động như một Ngân hàng Nông thôn thì
đúng hơn, nhằm tài trợ cho mọi hoạt động sản xuất có hiệu quả tại nông thôn) sẽ phải
có vai trò lớn lúc ban đầu. Mỗi chi nhánh của Ngân hàng Nông nghiệp phải chòu trách
nhiệm về tình hình lỗ lãi của mình, và khi bò thua lỗ thì không được dựa vào chế độ trợ
cấp quá lâu. Cơ chế kế toán, giám sát và điều hành của ngân hàng phải được cải tiến
để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn về điện cũng như về quy mô của các khoản
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
25
cho vay. Lúc ban đầu, đa số tín dụng sẽ được dành cho các vùng có tiềm năng kinh tế
cao, nhưng một khi mạng lưới đường sá đã tốt hơn, cả mức tích lũy lẫn mức tín dụng sẽ
tăng lên ở khắp mọi nơi. Ngân hàng Nông nghiệp có nhiệm vụ cấp tín dụng nông thôn
một cách rộng khắp và với giá càng rẻ càng tốt nhưng vẫn phải có lãi.
Phối hợp các chính sách ngành và liên ngành
Trong các phần trên, chúng tôi đã trình bày về những yêu cầu bức xúc nhất.
Trước hết là về xây dựng đường sá, nâng cấp hệ thống thủy lợi và đảm bảo quyền sử
dụng đất; kế tiếp là về trồng rừng và nghiên cứu cũng như công tác khuyến nông; sau
đó là về thiết lập và phát triển dòch vụ tổng hợp về tài chính nông thôn. Không làm
được những bước này thì nhiều vùng nông thôn sẽ rất khó có thể phát triển được. Nông

dân sẽ không có động lực để đầu tư vào đất, mà có muốn đầu tư cũng không có vốn,
hoặc không có kiến thức để biết phải đầu tư như thế nào. Họ sẽ bò khó khăn khi đi vào
chuyên môn hóa do chi phí vận chuyển cao. Mức thu nhập tại nông thôn sẽ cứ thấp
mãi, và hiện tượng di dân ra thành phố sẽ làm cho dân số đô thò tăng nhanh. Tuy nhiên,
tất cả các bước nêu trên không thôi vẫn chưa đủ. Cần phải làm nhiều hơn nữa, vì sự
thành công của công cuộc phát triển nông thôn phụ thuộc phần lớn vào một số chính
sách nằm ngoài nông nghiệp. Sau đây chúng tôi xin trình bày về các chính sách đó.
Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái (TGHĐ) vô cùng quan trọng vì có thể nói, đây là yếu tố quyết
đònh sự thành công của nông nghiệp về lâu dài. Một số nước, nhất là các nước có nhiều
mỏ dầu, đã để cho TGHĐ Thực tế bò nâng giá và do vậy đã phương hại đến khu vực
nông thôn trong nước. (TGHĐ Thực tế là TGHĐ Danh nghóa đã được điều chỉnh để
phản ánh mức lạm phát trong nước và trên thế giới. Nếu mức lạm phát trong nước cao
hơn mức lạm phát trên thế giới, trong khi đó TGHĐ Danh nghóa vẫn giữ nguyên, thì
người ta nói rằng TGHĐ Thực tế bò nâng cao). Đây là một điều bất ngờ đối với nhiều
người, vì họ không thấy được mối liên quan giữa hàng triệu nông dân nhỏ, mà sản xuất
thường chỉ phục vụ cho chính gia đình họ và một tỷ giá tài chính dường như có liên
quan nhiều hơn hết đến Ngân hàng Trung ương và các công ty xuất nhập khẩu. Tuy
vậy, mối liên quan giữa nông dân và TGHĐ là có thật, và cần phải hiểu tại sao một
TGHĐ Thực tế bò cao giá sẽ gây tác hại đến phát triển nông thôn.
Nông sản là những mặt hàng thường được xuất khẩu và giá cả của chúng
thường bò ảnh hưởng sâu sắc của thò trường xuất khẩu. Nếu giá một tấn gạo trên thò
trường quốc tế là 200 USD, giá bán buôn nội đòa cũng sẽ thể hiện mức giá này. Điều
này không có nghóa là hai mức giá quốc tế và nội đòa bằng nhau - do chất lượng gạo
khác nhau và chi phí vận chuyển qua cảng - nhưng các khoản phí bổ sung được phản
ánh trong giá xuất khẩu chứ không phải trong giá nội đòa. Trong giá giao hàng tận nơi
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc

Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
26
cho nước mua còn có phí vận chuyển đường biển và chi phí kinh doanh. Vì vậy, giá
bán buôn trong nước có thể thấp hơn giá xuất, mà giá xuất này lại thường thấp hơn giá
nhập từ 10% đến 20%. Hơn nữa, tại Việt Nam, rủi ro bò đình trệ ở cảng và khả năng
hợp đồng kinh doanh không được tôn trọng càng làm cho giá xuất khẩu thấp hơn nữa.
Tuy nhiên, sau khi đã tính đến tất cả các yếu tố nêu trên, các công ty thương nghiệp
tính giá bán bằng cách lấy giá bằng đôla nhân lên theo tỷ giá hối đoái. Với mức giá
như vậy, họ sẽ bán gạo cho bất cứ thò trường nào trả giá cao hơn, dù là nước ngoài hay
trong nước. Như vậy, đối với họ, giá gạo trên thò trường coi như ngang nhau, mà mức
giá này lẽ ra phải khác nhau vì chất lượng gạo không giống nhau. Và nếu lấy giá bán
buôn trừ đi chi phí kinh doanh, ta sẽ được giá thu mua nông sản. Do vậy, rõ ràng là một
trong những yếu tố quyết đònh số tiền mà nông dân nhận được khi bán thóc là tỷ giá
hối đoái. Những số liệu sau đây minh họa điều này.
Giá thóc Thực tế - Vai trò của Tỷ giá hối đoái

Tháng 12, 1990 Tháng 12, 1993 % dao động
TGHĐ Danh nghóa 7.150 10.800 + 51%
Chỉ số giá cả 1,00 2,05 +105%
Giá thóc (đồng/kg) 1.000 1.000 0%
Giá thóc thực tế 1.000 488 - 51%
TGHĐ Thực tế 7.150 5.268 - 26%
* Nếu mức lạm phát trên thế giới là 0, TGHĐ Thực tế = TGHĐ Danh nghóa chia cho chỉ
số giá cả. Khi 1 USD = ít Đồng hơn, thì TGHĐ Thực tế bò nâng cao. Chỉ số giá cả được
sử dụng ở đây, bằng mức 1.00 ở thời điểm tháng 12 năm 1990.

Trong bảng nêu trên, nếu TGHĐ Thực tế đứng nguyên, thì TGHĐ Danh nghóa
đã phải tăng thành 1 USD = 14.658 đồng, và giá thóc đã phải tăng lên 1.357 đồng/kg
thay vì vẫn ở mức 1.000 đồng/kg. Như vậy, giá thóc thực tế chỉ phải giảm một phần ba
thay vì hơn một nửa. Giá trong nước suy giảm một phần còn vì giá gạo quốc tế xuống
thấp. Tác động này đã có thể được xoa dòu phần nào nếu như TGHĐ Thực tế ổn đònh
hơn. Thay vào đó, giá cả ngày càng suy giảm hơn.
Giá cà phê, cao su, chè, tơ tằm và một số cây trồng xuất khẩu khác rõ ràng và
trực tiếp ngang với giá bằng đôla của mỗi mặt hàng nhân với TGHĐ. Các nhà chăn
nuôi lợn và cá cho xuất khẩu cũng sẽ cảm nhận được mối quan hệ ngày càng chặt chẽ
giữa giá nội đòa và giá xuất khẩu. Tất cả những người này đều đã bò ảnh hưởng vì sự
nâng giá quá cao của đồng Việt Nam.
Khi một nước đột nhiên được nguồn viện trợ lớn của nước ngoài hay thu nhập
cao về đầu và bắt đầu có đầu tư của nước ngoài, phản ứng tất nhiên của nước ấy là tìm
cách sử dụng những nguồn tài nguyên này. Phần ngoại tệ được chi tiêu để mua hàng
nội đòa thường làm cho giá cả trong nước tăng trong chừng mực nào đó, nhưng không

×