Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Các thuốc cần điều chỉnh ở bệnh nhân có bệnh thận mạn tính potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.98 KB, 6 trang )


Các thuốc cần điều chỉnh ở bệnh nhân
có bệnh thận mạn tính




Bệnh thận mạn tính có thể ảnh hưởng đến tất cả các khâu trong
quá trình hấp thu, phân phối, chuyển hóa và đào thải thuốc, đặc biệt là
quá trình đào thải.
Việc dùng sai liều thuốc ở các bệnh nhân có rối loạn chức năng thận
xảy ra tương đối phổ biến trong thực tế, điều này có thể gây tăng độc tính
hoặc giảm hiệu quả điều trị của thuốc, thậm chí dẫn đến tử vong cho người
bệnh. Khi sử dụng các thuốc được đào thải qua thận cho những bệnh nhân
có bệnh thận mạn tính, cần điều chỉnh liều thuốc dựa vào mức lọc cầu thận.
Phương pháp thường được sử dụng để điều chỉnh liều là giảm liều hoặc kéo
dài khoảng thời gian giữa các liều dùng hoặc cả hai. Giảm liều dùng nhưng
giữ nguyên khoảng cách giữa các liều dùng có thể duy trì được nồng độ
thuốc ổn định trong máu nhưng làm tăng nguy cơ gây độc nếu thuốc được
đào thải không kịp. Ngược lại, kéo dài khoảng thời gian giữa các liều dùng
giúp giảm nguy cơ gây độc nhưng có thể gây giảm nồng độ thuốc trong máu,
dẫn đến giảm hiệu quả điều trị.
Thuốc hạ huyết áp
Lợi tiểu thiazide là nhóm thuốc được lựa chọn hàng đầu trong điều trị
cao huyết áp, nhưng nên giảm liều hoặc tránh sử dụng các thuốc này ở
những bệnh nhân có suy thận mức độ trung bình đến nặng (mức lọc cầu thận
dưới 30ml/phút). Các thuốc lợi tiểu giữ kali (như spironolactone,
verospirone) cũng nên được dùng một cách hết sức thận trọng ở những bệnh
nhân có bệnh thận mạn tính do có nguy cơ gây tăng nồng độ kali trong máu.
Các thuốc ức chế men chuyển (như captopril, enanapril ) và chẹn
receptor angiotensin II (như losartan, irbesartan ) có thể gây giảm mức lọc


cầu thận khoảng 15% trong vòng 1 tuần sau điều trị, đặc biệt ở những bệnh
nhân dùng liều cao hoặc phối hợp với các thuốc chống viêm giảm đau và
thuốc lợi tiểu. Do đó, nên giảm liều hoặc tránh sử dụng các thuốc này ở
những bệnh nhân có suy thận mức độ vừa và nặng. Ngoài ra, trong quá trình
điều trị với 2 nhóm thuốc trên, nếu nồng độ kali máu tăng trên 5,6 mmol/ lít
hoặc nồng độ creatinine máu tăng hơn 30% so với trước điều trị, cần ngưng
dùng thuốc. Một số thuốc chẹn bêta giao cảm ưa nước như atenolol,
bisoprolol, nadolol và acebutolol được đào thải chủ yếu qua thận, do đó, cần
được điều chỉnh liều ở các bệnh nhân có bệnh thận mạn tính. Các thuốc hạ
áp khác như metoprolol, propranolol, labetalol, các thuốc chẹn alpha giao
cảm hoặc chẹn kênh canxi đều không cần điều chỉnh liều ở bệnh nhân có
bệnh thận mạn tính.
Thuốc hạ đường huyết
Metformin được đào thải 90-100% qua thận, do đó, nên tránh sử dụng
thuốc này cho các bệnh nhân có suy thận và những người trên 80 tuổi. Việc
dùng metformin ở những bệnh nhân suy thận mạn có thể làm tăng nguy cơ
nhiễm toan lactic trong máu, đặc biệt khi bệnh nhân có nhiễm trùng, nhồi
máu cơ tim, bệnh lý gan mật hoặc hô hấp kèm theo.
Một số thuốc hạ đường huyết trong nhóm sulfonylurea như
chlorpropamide, glyburide cũng nên tránh dùng ở các bệnh nhân có suy thận
độ 3 và 4, do thời gian bán thải của cả 2 thuốc đều bị kéo dài rõ rệt ở những
bệnh nhân này, dẫn đến tăng nguy cơ hạ đường huyết.
Các thuốc kháng sinh
Rất nhiều loại kháng sinh được đào thải qua thận và do đó cần được
điều chỉnh liều ở những bệnh nhân có bệnh thận. Tăng nồng độ của
penicillin G và carbenicillin trong máu quá mức cho phép có thể gây nhiễm
độc thần kinh cơ, rung giật cơ, co giật và hôn mê. Imipenem cũng có thể bị
tích luỹ ở những bệnh nhân suy thận và gây co giật nếu không được giảm
liều. Các dẫn xuất trong nhóm tetracycline, trừ doxycycline, đều có thể làm
nặng tình trạng suy thận nếu được dùng ở những bệnh nhân có bệnh thận

mạn tính. Nitrofurantoin có một chất chuyển hóa độc tính cao bị giảm đào
thải ở những bệnh nhân suy thận, dẫn đến viêm thần kinh ngoại vi. Các
kháng sinh aminoglycoside (như gentamycin, amikacin, streptomycin )
cũng nên tránh dùng ở những bệnh nhân có bệnh thận mạn. Nếu bắt buộc
phải sử dụng, cần tính liều khởi đầu dựa vào mức lọc cầu thận và theo dõi
chặt chẽ nồng độ thuốc trong máu.
Các dẫn xuất thuốc phiện: các chất chuyển hóa của các dẫn xuất thuốc
phiện như meperidine, dextropropoxyphene, morphine, tramadol và codeine
có thể bị giảm đào thải và tích lũy ở các bệnh nhân có bệnh thận mạn, gây ra
các tác dụng ở hệ thần kinh trung ương và hô hấp. Do đó, nên tránh sử dụng
nhóm thuốc này ở các bệnh nhân suy thận nặng. Ở những bệnh nhân suy
thận với mức lọc cầu thận < 50 ml/ phút, liều của morphine và codeine cần
giảm 50 - 75%, khoảng cách giữa các liều của tramadol cũng cần tăng lên 12
giờ và tramadol dạng phóng thích chậm nên tránh sử dụng.
Thuốc chống viêm giảm đau: các thuốc chống viêm giảm đau cổ điển
như diclofenac, ibuprofen, indomethacine có thể gây khá nhiều độc tính
trên thận như suy thận cấp, viêm cầu thận, viêm thận kẽ, hội chứng thận hư
hoặc suy thận mạn. Nguy cơ suy thận cấp ở những người có sử dụng các
thuốc này cao gấp 3 lần so với những người không dùng thuốc. Các thuốc ức
chế COX-2 chọn lọc như celecoxib, nimesulid cũng có nguy cơ gây độc thận
tương tự các thuốc cổ điển. Nói chung, nên tránh dùng các thuốc này ở
những bệnh nhân có bệnh thận mạn tính vì có thể làm tăng nặng tổn thương
thận.
Các thuốc khác: một số thuốc khác cũng đòi hỏi phải giảm liều khi sử
dụng ở những bệnh nhân có suy giảm chức năng thận là nhóm thuốc hạ mỡ
máu statin (simvastatin, atorvastatin ), nhân sâm và một số loại thảo dược
khác như cỏ linh lăng, bồ công anh

×