Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tăng acid uric máu và thuốc điều trị pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.06 KB, 6 trang )


Tăng acid uric máu và thuốc điều trị




Hiện nay có một thực tế là rất nhiều người, kể cả các bác sĩ không
thuộc chuyên khoa khớp, cho rằng cứ tăng acid uric máu là bệnh gút và
chỉ định điều trị gút.
Đây là quan niệm sai lầm vì chỉ coi là có bệnh gút khi tăng acid uric
máu đi kèm với sự lắng đọng acid uric và gây tổn thương ở khớp hay những
tổ chức khác.
Bình thường lượng acid uric trong máu luôn được giữ ổn định ở nồng
độ dưới 70mg/l (420 micromol/l) đối với nam; 60mg/l (360 micromol/l) đối
với nữ và được giữ ở mức độ hằng định do có sự cân bằng giữa quá trình
tổng hợp và đào thải chất này. Bất kỳ nguyên nhân nào làm mất cân bằng
quá trình này (tăng tổng hợp hoặc giảm thải trừ) đều làm tăng acid uric trong
máu.
Được coi là tăng acid uric máu khi lượng acid uric trong máu tăng cao
hơn giới hạn bình thường. Vậy câu hỏi đặt ra là nguyên nhân của tình trạng
tăng acid uric máu là gì, và khi nào thì phải điều trị tình trạng tăng acid uric
máu không triệu chứng.
Nguyên nhân
Về nguyên nhân tăng acid uric máu người ta thấy có một số nguyên
nhân chính sau đây:
Nhóm suy giảm khả năng bài xuất acid uric ở ống thận tiên phát đa
nguyên nhân, đặc biệt trong trường hợp ăn nhiều thức ăn chứa nhân purin,
nghiện rượu. Loại này thường có tính chất gia đình, khởi phát thường do
uống quá nhiều rượu. Đây là nhóm hay gặp nhất (90% các trường hợp).
Nhóm tăng tạo acid uric nguyên phát (bẩm sinh). Đây là nhóm nguyên
nhân hiếm gặp (dưới 1%) do có các bất thường về enzym: thiếu hụt hoàn


toàn hoặc một phần enzym hypoxanthine guanine phosphoribosyltransferase
(HGPRT), hoặc do tăng hoạt tính của enzym phosphoribosylpyrophosphate
(PRPP).
Nhóm nguyên nhân còn lại (chiếm khoảng 10%) là tình trạng tăng
acid uric thứ phát: tăng sản xuất acid uric do ăn uống nhiều thức ăn có nhân
purin (đặc biệt các thịt màu đỏ như chó, bò, dê, cá biển ); uống nhiều rượu;
tăng hủy tế bào gặp trong bệnh đa u tuỷ xương, thiếu máu tan máu, bệnh
bạch cầu (leucemie), dùng hóa chất gây độc tế bào trong điều trị ung thư;
bệnh vẩy nến Tăng acid uric thứ phát còn do giảm bài tiết acid uric ở thận.
Nhóm này có các nguyên nhân như nghiện rượu, suy thận mạn tính, tăng
huyết áp, tình trạng nhiễm toan ceton trong bệnh đái tháo đường hay nhịn
đói lâu ngày, tình trạng nhiễm toan lactic ở người nghiện rượu.
Một trong những nguyên nhân gây giảm bài tiết acid uric là do sử
dụng thuốc. Các thuốc thường gặp là aspirin liều thấp; phenylbutazone liều
thấp; đa số các thuốc lợi tiểu dùng kéo dài (trừ nhóm spironolactone) như
thiazide, furosemide; thuốc điều trị lao như ethambutol, pyrazinamid; các
thuốc acid ethacrynic, acid nicotinic
Điều trị
Lợi ích của việc điều trị tình trạng tăng acid uric máu ở những bệnh
nhân đã bị cơn gút là điều đã được chứng minh. Nó góp phần hạn chế,
ngừng các cơn gút cấp tái phát cũng như biến chuyển bệnh thành gút mạn
tính có hạt tophi, sỏi thận - suy thận do gút. Tuy nhiên trong trường hợp tăng
acid uric máu không triệu chứng thì còn nhiều tranh cãi. Có nên điều trị hạ
acid uric hay không, điều trị như thế nào? Qua nhiều nghiên cứu cho thấy
không có những bằng chứng mạnh mẽ ủng hộ việc dùng thuốc hạ acid uric
trong trường hợp này. Ngược lại với lợi ích ít ỏi thu được là việc bệnh nhân
phải mất nhiều chi phí cho điều trị cũng như tăng nguy cơ mắc nhiều biến
chứng do dùng thuốc.
Trong trường hợp tăng acid uric không triệu chứng nên tuân theo chỉ
dẫn sau: chỉ dùng thuốc khi nồng độ acid uric máu quá cao, trên 10-12mg/dl

(khoảng 700 mmol/l) hoặc khi có sự sản xuất acid uric cấp tính, ví dụ trong
điều trị hoá trị liệu trong bệnh ung thư gây hủy tế bào nhiều. Có thể dùng
liệu pháp dự phòng tình trạng tăng acid uric máu ở những trường hợp dự
đoán trước là sẽ có tình trạng tăng acid uric nhiều, cấp tính như trên. Khi đó
lợi ích thu được chủ yếu là tránh được tình trạng suy thận cấp do tăng lắng
đọng tinh thể urat ở ống thận. Thuốc lựa chọn hàng đầu trong các trường
hợp này là thuốc ức chế xanthine oxidase như allopurinol (zyloric),
tisopurine (thiopurinol) hoặc thuốc tiêu acid uric (enzym uricase).
Các trường hợp xét nghiệm thường xuyên có tình trạng tăng acid uric
trên 10 mg/dl mà kháng với các biện pháp điều chỉnh chế độ ăn uống, hoặc
có tiền sử gia đình bị gút, bị sỏi thận kèm tăng acid uric máu, có dấu hiệu
tổn thương thận đều cần phải dùng các thuốc giảm acid uric. Lưu ý không
dùng thuốc nhóm tăng thải acid uric như probenecid qua thận ở những bệnh
nhân có một trong các biểu hiện sau: tiền sử hoặc đang có sỏi thận, suy thận,
có hạt tophi và giảm bài tiết urat qua thận.
Tất cả các trường hợp tăng acid uric máu không có triệu chứng khác ở
mức độ trung bình (dưới 10mg/dl) đều cần thực hiện các chế độ ăn uống
sinh hoạt hợp lý như với các bệnh nhân bị gút mà chưa cần dùng thuốc hạ
acid uric máu.
Tóm lại, nếu như trong thực tế gặp các trường hợp xét nghiệm máu
mà có tăng acid uric nhưng không có biểu hiện bệnh gút trên lâm sàng, bạn
nên đến chuyên khoa cơ xương khớp để có được tư vấn thích hợp.

×