Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Bạn đang uống thuốc? Hãy nhớ kiêng rượu pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.27 KB, 4 trang )

Bạn đang uống thuốc? Hãy
nhớ kiêng rượu


Người bệnh không biết, không nhớ hết hoặc có khi xem nhẹ
không kiêng rượu khi dùng thuốc. Dưới đây là một số nhóm thuốc
thường dùng bắt buộc phải kiêng rượu (được sắp xếp lại cho dễ nhớ).
Rượu lúc đầu mới uống ít hoặc chưa ngấm sâu chỉ ức chế trung tâm
ức chế ở não, tạo ra hiện tượng giống như hưng phấn (nói nhiều, hoa chân
múa tay), sau đó do uống thêm hoặc do rượu ngấm sâu mà sự ức chế ấy lan
khắp não (không biết gì, ngủ như chết). Như vậy, trong mọi giai đoạn rượu
là chất ức chế. Vì vậy không dùng rượu khi dùng:
+ Thuốc ức chế hệ thần kinh trung ương: Thuốc an thần điều chỉnh rối
loạn quá trình hưng phấn- ức chế (vd:diazepam bd: seduxen ); thuốc ngủ
ức chế quá trình kích thích ( vd: phenobarbital, bd gardenal); thuốc động
kinh (tác dụng trên thụ thể NMDA* hay chất dẫn truyền GABA*) làm giảm
quá trình kích thích (vd: carbamazepin, bd: tegerton ); thuốc tâm thần phân
liệt (ức chế sự phóng thích tổng hợp dopamin, serotonin tự do, đồng thời
không cho chúng gắn vào thụ thể đặc hiệu của mình) làm giảm hiệu ứng dẫn
truyền thần kinh như (vd: chlopromazin, bd: aminazin ) các thuốc chống
trầm cảm (ức chế “sự nắm bắt” và “tái nắm bắt” neuron) chống lại trạng thái
bị ức chế (vd: amitriptylin ). Khi dùng chúng mà dùng rượu thì rượu làm
tăng tác dụng của chúng gây độc giống như dùng quá liều.
+Thuốc kích thích hệ thần kinh trung ương: Khi dùng các thuốc này
mà dùng rượu, thì rượu sẽ làm đảo ngược tác dụng của thuốc làm cho thuốc
giảm hiệu lực.
+ Thuốc có tác dụng phụ ức chế hệ thần kinh trung ương: Các kháng
histamin thế hệ cũ (chlopheniramin, alimemazin, promethazin,
cycloheptadin) thấm vào não gây ức chế. Khi dùng chúng mà dùng rượu thì
rượu làm tăng tác dụng của thuốc, gây độc.
Không thể biết hết các thuốc biệt dược (ở trên chỉ nêu vài thí dụ hay


gặp), khi người bệnh bị các bệnh này mà phải dùng các nhóm thuốc trên
thì mọi trường hợp dùng thuốc đều phải kiêng rượu.
Rượu khi uống làm giãn mạch, làm thoát nhiệt ra ngoài, mặt đỏ bừng
làm cho có cảm giác ấm nhưng thực chất là làm giãn mạch, làm thân nhiệt
hạ. Sự giãn mạch này đưa đến hạ huyết áp. Nếu dùng chung với thuốc làm
hạ huyết áp (dù với cơ chế làm hạ huyết áp như thế nào) thì rượu cũng làm
tăng tính hạ huyết áp của thuốc gây nên việc giảm huyết áp đột ngột, nguy
hiểm.
Rượu gây độc cho gan. Nếu dùng rượu chung với các nhóm thuốc gây
độc cho gan như thuốc chống lao (pyrazinamid), thuốc sốt rét (mepraquin),
thuốc chống nấm (griseopulvin), thuốc mạch vành (herhexilin), thuốc chữa
loạn nhịp (quinidin) thì rượu và thuốc cùng gây độc cho gan làm cho tính
độc cho gan tăng lên. Ngoài ra cần biết khi uống rượu, gan phải dùng
gluthation để giải hóa làm cạn kiệt chất này và những thuốc nào nhờ chất
này mà chuyển hóa thành chất không độc như paracetamol thì quá trình
chuyển hóa bị trở ngại và trở nên độc cho gan hơn.
Rượu làm tăng phản ứng hạ đường huyết. Khi dùng chung với các
thuốc hạ đường huyết trong bệnh tiểu đường týp II (chlopropamid,
glibenclamid, glipizid, tolbutamid) thì nó tác dụng như một chất hợp đồng
làm hạ dường huyết đột ngột, gây hôn mê.
Rượu còn bị một số kháng sinh gây ra phản ứng sợ rượu (gọi là phản
ứng altabuse) như các kháng sinh: nhóm cephalosporin, nhóm phenicol
(chloramphenicol), nhóm azol (metronidazol, ketocanzol.). Khi dùng các
nhóm kháng sinh này (hiện nay có rất nhiều) thì không được uống rượu.
Rượu còn gây ra một số phản ứng phức tạp trên các kháng viêm
không steroid thế hệ cũ. Các kháng viêm không steroid thế hệ cũ vừa ức
chế cyclo-oxydase II làm giảm đau, ức chế cả cyclo-oxydase I gây tác dụng
phụ trên đường tiêu hóa. Với tác dụng ức chế của mình, rượu làm tăng tác
dụng có hại nhiều hơn. Vì thế khi dùng các kháng viêm không steroid thế hệ
cũ (như aspyrin, paracetamol, ibuprofen ) phải kiêng rượu.

Rượu vốn có hại, dùng thuốc có tương tác không lợi với rượu càng
nguy hại hơn.

×