Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Các thuốc bảo vệ cơ tim trong nhồi máu cơ tim pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.1 KB, 5 trang )

Các thuốc bảo vệ cơ tim trong
nhồi máu cơ tim

Nhồi máu cơ tim (NMCT) là tình trạng hoại tử một vùng cơ tim,
thường gây ra bởi sự hình thành cục máu đông trong lòng động mạch.
Nhồi máu cơ tim (NMCT) là tình trạng hoại tử một vùng cơ tim,
thường gây ra bởi sự hình thành cục máu đông trong lòng động mạch.
Việc điều trị NMCT phải nhằm tới 3 mục tiêu chính:
- Ngăn chặn sự hình thành và lan rộng của cục huyết khối (các thuốc
chống đông, chống kết vón tiểu cầu). Làm tái lưu thông động mạch vành bị
tắc bằng: thuốc tiêu sợi huyết, can thiệp động mạch vành qua da hay mổ bắc
cầu nối.
- Làm giảm nhu cầu tiêu thụ ôxy của cơ tim, tăng cung cấp máu cho
cơ tim (các dẫn xuất nitrat, các thuốc chẹn thụ thể bêta giao cảm, chẹn kênh
calci).
- Phát hiện sớm các biến chứng như rối loạn nhịp tim, suy tim, sốc
tim, vỡ tim để xử trí kịp thời.
Trong điều trị NMCT, các thuốc làm giảm nhu cầu tiêu thụ ôxy cơ
tim, tăng cường tưới máu cho vùng cơ tim bị thiếu máu, hạn chế các biến
chứng trước mắt và lâu dài và các thuốc ngăn chặn sự tiến triển của quá trình
vữa xơ động mạch đóng vai trò hết sức quan trọng.
Các thuốc nhóm nitrat
Các thuốc này gồm có 2 loại tác dụng khác nhau, loại tác dụng nhanh
dùng ngậm hoặc xịt dưới lưỡi, tiêm tĩnh mạch như nitroglycerin viên 0,5mg
ngậm dưới lưỡi; natispray, lenitral spray dùng xịt dưới lưỡi; ống tiêm lenitral
10ml chứa 15mg nitroglycerin. Loại chậm dùng đường uống như viên
lenitral 2,5mg, viên nitromin 2,6mg Tác dụng chủ yếu của các thuốc nhóm
này là gây giãn tĩnh mạch ngoại vi dẫn đến giảm lượng máu về tim kết hợp
với giãn các tiểu động mạch dẫn đến giảm sức cản ngoại vi. Kết quả của 2
tác dụng này là giảm tiêu thụ ôxy của cơ tim. Đối với động mạch vành,
thuốc cũng có tác dụng giãn động mạch do vậy chống được hiện tượng co


thắt mạch vành; thuốc còn có tác dụng làm tăng cường tuần hoàn bàng hệ tới
các khu vực cơ tim bị thiếu máu. Khi bị NMCT, ngay khi xuất hiện đau thắt
ngực, cần dùng ngay loại xịt hoặc ngậm dưới lưỡi; tại bệnh viện, bệnh nhân
sẽ được sử dụng nitroglycerin dạng tiêm tĩnh mạch bằng bơm tiêm điện với
liều khởi đầu thấp và tăng dần tùy theo đáp ứng của bệnh nhân.
Các thuốc chẹn thụ thể bêta giao cảm
Đây là nhóm thuốc đối kháng cạnh tranh với các chất giao cảm, làm
giảm tần số tim, giảm sức co bóp của cơ tim, do đó làm giảm nhu cầu tiêu
thụ ôxy của cơ tim, tăng cường tưới máu cho động mạch vành do vậy góp
phần làm giảm sự lan rộng vùng hoại tử cơ tim. Ngoài ra, các thuốc này còn
có tác dụng phòng và làm giảm tai biến loạn nhịp ngoại tâm thu thất. Nhóm
thuốc này không được dùng trong các trường hợp: nhịp chậm, tụt huyết áp,
blốc nhĩ thất mức độ cao, hen phế quản, suy tim hoặc choáng tim. Thuốc có
thể dùng đường tĩnh mạch trong pha cấp của NMCT, hoặc dùng đường
uống.
Dạng hay dùng ngày nay là các thuốc chẹn thụ thể bêta có tác dụng
chọn lọc cao trên tim như atenolol (tenormin), metoprolol (betaloc),
bisoprolol (concor).
Thuốc chẹn kênh canxi
Ion calci có vai trò rất quan trọng trong co cơ, do vậy việc ức chế
kênh calci sẽ gây cản trở quá trình co cơ, hậu quả là làm giảm sức co bóp
của tim dẫn đến giảm tiêu thụ ôxy cơ tim và giãn động mạch vành, tăng
cường nuôi dưỡng cơ tim. Các thuốc này được chia làm 2 nhóm có chống
chỉ định khác nhau; đó là nhóm dihydropyridin (các biệt dược như nifedipin,
amlodipin, felodipin, isradipin ) và nhóm non dihydropyridin (gồm có
verapamin và diltiazem). Nhóm non dihydropiridin có tác dụng gây giảm
sức co bóp của tim, chậm nhịp tim (đặc biệt verapamin). Do vậy, cần tôn
trọng hết sức chặt chẽ các chống chỉ định của nhóm thuốc này.
Thuốc ức chế men chuyển
Các thuốc nhóm này không những có tác dụng hạ huyết áp mà còn có

tác dụng chống rối loạn chức năng thất trái; chức năng nội mạc mạch máu ở
bệnh nhân sau NMCT do vậy làm giảm được các biến cố suy tim, NMCT tái
phát. Do vậy thuốc được chỉ định sớm ngay khi bị NMCT. Nhược điểm hay
gặp nhất của các thuốc nhóm này là triệu chứng ho; nếu ho ít mà bệnh nhân
có thể chịu đựng được thì vẫn nên cho bệnh nhân dùng thuốc. Các thuốc hay
được dùng là perindopril (coversyl), lisinopril (zestril), enalaprin (renitec),
tanatril Thuốc nên được dùng bắt đầu bằng liều thấp sau đó tăng dần tùy
theo đáp ứng của từng bệnh nhân.
Các thuốc điều chỉnh rối loạn lipid máu
Vữa xơ động mạch là nguyên nhân chủ yếu gây nên NMCT,
cholesterol máu đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự hình thành và tiến
triển của mảng vữa xơ động mạch. Do vậy, việc điều chỉnh các rối loạn lipid
máu là không thể thiếu được trong điều trị NMCT. Một điểm mới cần phải
nhấn mạnh đó là: các thuốc này không những làm giảm các biến cố tim
mạch ở các bệnh nhân có rối loạn lipid máu, mà còn giảm các biến cố này ở
cả những bệnh nhân không bị rối loạn lipid máu. Do vậy, ngay cả khi các xét
nghiệm về mỡ máu cho giá trị bình thường thì việc sử dụng thuốc cũng là
hết sức cần thiết. Các thuốc thường được sử dụng hiện nay sau NMCT thuộc
nhóm statin, như rosuvastatin (crestor), simvastatin (zocor), atovastatin
(lipitor). Đặc biệt gần đây người ta đã chứng minh được crestor còn có khả
năng làm giảm kích thước của mảng vữa xơ động mạch vành. Thời gian
dùng thuốc càng kéo dài càng tốt, trừ khi xảy ra các tác dụng phụ không
mong đợi phải ngưng điều trị (tăng men gan, đau cơ ).

×