Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Thuốc chữa hen phế quản pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106 KB, 6 trang )

Thuốc chữa hen phế quản

Hen phế quản (HPQ) là một bệnh lý đường hô hấp hay gặp và
đang có chiều hướng tăng mạnh, trở thành một trong những bệnh
không nhiễm trùng phổ biến nhất hiện nay.
Theo số liệu của Tổ chức Kiểm soát hen toàn cầu, do hiện tượng ô
nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng, tần suất bệnh hen cũng đang tăng
nhanh, dao động từ 10-25% dân chúng ở các nước phát triển và từ 8-20% tại
các nước đang phát triển. Tại Hoa Kỳ, người ta thấy từ 5-10% trẻ em bị
HPQ và hàng năm có đến hơn 500.000 trẻ phải nhập viện vì cơn HPQ nặng,
trong đó hơn 4.000 trẻ tử vong do cơn hen ác tính dù điều kiện khám chữa
bệnh ở trình độ cao. Ở Việt Nam, theo một số chuyên gia về bệnh hen, tỷ lệ
người mắc bệnh có thể lên tới 10-15% dân số.
HPQ là bệnh mạn tính có từng đợt kịch phát, cấp tính nặng như cơn
HPQ gây khó thở đột ngột nặng làm ngăn cản sinh hoạt hay công việc, làm
giảm chất lượng cuộc sống, thậm chí gây tử vong đột ngột do cơn HPQ ác
tính (status asthmaticus) hay biến chứng tử vong do tràn khí lồng ngực đột
ngột và dữ dội.
HPQ là một bệnh dị ứng biểu hiện tại đường hô hấp, chủ yếu là tại các
phế quản nhỏ do các yếu tố gây bệnh xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp
(dị nguyên đường thở) gây các tổn thương viêm mạn tính đặc trưng theo cơ
chế dị ứng tại đường dẫn khí thấp (các phế quản gần túi khí) như: tăng sinh
các tuyến nhầy, tăng sinh các cơ trơn tại đường hô hấp dưới, phù nề quanh
đường dẫn khí thấp. Hậu quả là gây co thắt cơ trơn phế quản, viêm và phù
nề các phế quản nhỏ, tăng xuất tiết và ứ đọng các chất nhầy quánh dính. Hậu
quả cuối cùng là giảm lượng khí lưu thông tới phổi mà chủ yếu do tắc nghẽn
các phế quản nhỏ ở thì thở ra, làm kẹt khí chứa nhiều thán khí từ máu ra
phổi không được thải ra ngoài, đồng thời cũng cản trở lượng khí chứa nhiều
ô-xy từ ngoài vào phổi. Như vậy, việc điều trị bệnh HPQ đòi hỏi phải có
hiểu biết toàn diện về các cơ chế gây bệnh cũng như các rối loạn thứ phát để
điều trị nguyên nhân và xử trí thích hợp.


Điều trị HPQ gồm 3 khâu cơ bản: phát hiện và loại trừ hoặc tránh tiếp
xúc với tác nhân gây dị ứng (dị nguyên) và khống chế các yếu tố thuận lợi
phát sinh cơn hen; khống chế và dần dần loại bỏ quá trình viêm mạn tính tại
đường dẫn khí thấp (các tiểu phế quản); lập lại sự lưu thông của đường dẫn
khí bằng cách giải quyết các hậu quả viêm phù nề, xuất tiết dịch quánh và co
thắt hệ thống phế quản nhỏ.
Các thuốc điều trị HPQ
Các thuốc dùng trong điều trị HPQ bao gồm 2 nhóm chính: nhóm
khống chế và loại bỏ quá trình viêm do cơ chế dị ứng và các thuốc dùng để
lập lại sự lưu thông của đường dẫn khí bằng cách chống co thắt hệ thống phế
quản nhỏ.
Trong nhóm các thuốc chống viêm, hiện nay phổ biến nhất là các chế
phẩm corticoid. Các thuốc này điều hòa việc giải phóng các hoạt chất trung
gian gây viêm các cytokin (hay còn gọi là interleukin) để giảm sự lôi kéo
bạch cầu ái toan và các tế bào mast là loại sản sinh nhiều chất trung gian
miễn dịch IgE là chất làm tăng cường và duy trì phản ứng viêm. Ngoài ra,
corticoid còn có khả năng làm tăng độ nhạy cảm và số lượng các thụ thể bêta
2 (b2 receptors) nên có tác dụng gián tiếp làm giãn phế quản. Trong lâm
sàng thường sử dụng corticoid đường toàn thân như cortancyl, prednison,
prednisolon, solumédrol (uống hoặc tiêm liều cao từ 2-10mg/kg/24 giờ) để
khống chế cơn hen, nhất là cơn hen nặng và hen ác tính. Để giảm quá trình
viêm dị ứng tại đường hô hấp nhằm phòng cơn hen tái phát, trước đây người
ta phải dùng corticoid đường uống liều thấp. Nhưng vì thuốc này gây tác
dụng phụ quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển, chất lượng cuộc sống và
giảm sức đề kháng của cơ thể, nhất là khi phải dùng kéo dài và ở trẻ nhỏ.
Những năm gần đây, người ta đã sản xuất được các chế phẩm corticoid dạng
hít đơn thuần như béclomethason dipropionat (bécotid), budéssonid
(pulmicort), fluticason (flexotid) hay phối hợp như ventid (gồm bécotid và
salbutamol) hoặc seretid (fluticason và salbutamol). Các thuốc này chủ yếu
tác dụng tại đường hô hấp do không hoặc rất ít thấm vào máu nhờ cấu trúc

đặc biệt và phân tử lớn của thuốc vì vậy không gây các tác dụng phụ toàn
thân đáng kể, cho phép sử dụng lâu dài, an toàn, hiệu quả cao. Tác dụng phụ
chủ yếu của các thuốc này là nhịp tim nhanh, run tay chân, hạ kali máu và
tăng đường máu.
Ngoài ra, hiện nay trong điều trị hen, người ta bắt đầu chú ý đến các
thuốc chống viêm không phải corticoid. Các thuốc này cũng có tác dụng
ngăn cản quá trình viêm tại phế quản bằng cách ức chế tế bào sinh chất gây
viêm như cromoglycate (lomudal), nedocromil (tilade), các thuốc ức chế thụ
thể histamin H1 và ức chế yếu tố hoạt hóa tiểu cầu như ketotifen (zaditen),
hoặc các thuốc ức chế trực tiếp yếu tố hoạt hóa tiểu cầu như singulair. Các
thuốc này không có tác dụng phụ đáng kể. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất
của chúng là giá thành cao.
Các thuốc dùng để lập lại sự lưu thông của đường dẫn khí bằng cách
chống co thắt hệ thống phế quản nhỏ gồm 3 nhóm chính sau:
Nhóm 1 gồm các thuốc kích thích thụ thể b2 (làm tăng tổng hợp AMP
vòng, gây giãn phế quản) bao gồm các thuốc chủ yếu dùng trong điều trị cắt
cơn hen như: terbutalin (bricanyl) dạng uống (viên, xi-rô) hoặc tiêm bắp,
tiêm truyền tĩnh mạch và albuterol (ventolin, salbutamol) dạng uống (viên,
xi-rô) hoặc tiêm truyền tĩnh mạch.
Nhóm 2 gồm các thuốc nhóm methyl xanthin (theophylin và
aminophylin) gây giãn phế quản mạnh do ức chế dị hóa MP vòng qua cơ chế
ức chế men phosphodiesteras. Theophylin ít tan trong nước nên chỉ dùng ở
dạng uống. Aminophylin tan trong nước nên có thể tiêm tĩnh mạch phù hợp
với các tình huống cấp cứu, nhưng cần liều cao hơn (1mg aminophylin
tương đương 0,85mg theophylin). Các thuốc này có giới hạn an toàn điều trị
thấp, dễ có tác dụng phụ như nhịp tim nhanh, đau đầu, co giật, nhất là khi
phối hợp với kháng sinh thuộc nhóm macrolid.
Nhóm 3 là các thuốc làm giãn phế quản do ức chế guanosin mono-
phosphat vòng (GMPc) như các thuốc thuộc nhóm kháng cholin đơn thuần
như oxitropium bromure (tersigat) hay ipratropium bromure (atrovent) hoặc

phối hợp với các thuốc kích thích thụ thể b2 như bronchodual (gồm
fenoterol và ipratropium). Nhược điểm lớn nhất của các thuốc này là làm
khô miệng và kích thích họng.
Trên đây là các nhóm thuốc sử dụng trong điều trị HPQ nói chung.
Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc nào và phối hợp các thuốc ra sao còn phụ
thuộc vào lứa tuổi, tình trạng lâm sàng của bệnh nhân (cơn nhẹ hay nặng hay
cơn hen ác tính), mục đích điều trị (dự phòng hay cắt cơn).

×