Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Một số loại bệnh hại chính và biện pháp phòng trừ (cà phê) pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.31 KB, 3 trang )

Một số loại bệnh hại chính và biện pháp
phòng trừ (cà phê)

1. Bệnh gỉ sắt: Bệnh gây hại trên lá
cà phê, làm rụng lá, giảm sản lượng.
Bệnh nặng có thể làm rụng hết lá dẫn
đến hiện tượng khô cành, cây chết.
Chính bệnh gỉ sắt với cây cà phê chè
đã là một nhân tố hạn chế việc phát
triển cà phê chè ở nhiều nước trên thế
giới và ở nứơc ta khi chưa tìm được giống có khả năng chống bệnh này.
Nấm kí sinh tạo thành các vết bệnh hình tròn với một lớp bột phấn màu vàng nhạt
sau đó là màu da cam ở dưới mặt lá. Ở các nông trường Phủ Quỳ trước đây, người
ta vẫn thường phun thuốc phòng là dung dịch Boócđô vào hai thời kì là mùa xuân
và mùa thu mà anh em vẫn nói vui là “xuân, thu nhị kì”
Ở Tây Nguyên, bệnh phát sinh từ đầu mùa mưa (tháng 4,5) phát triển trong suốt
mùa mưa, phát triển mạnh mẽ vào tháng 7, 8 và đạt đỉnh cao vào tháng 9, 10 sau
đó giảm dần.
Cách phòng trừ: Biện pháp hữu hiệu nhất là trồng giống chống bệnh. Với cà phê
chè người ta trồng giống Catimor có thể coi là an toàn.
Có thể dùng một số loại thuốc hoá học sau: Anvil 5SC (0,2 %), Tilit 250 EC
(0,1%), Validacin 3DD (0,3%) phun 2 – 3 cách nhau 1 tháng ngay từ khi bệnh mới
xuất hiện.
2. Bệnh khô cành khô quả: Đây là một loại bệnh khá phổ biến ở các vùng cà phê,
ở nhiều nơi tác hại của bệnh không kém bệnh gỉ sắt.
Bệnh xuất hiện trên cả 3 bộ phận : Quả, cành và lá nhưng gây hại nặng trên quả.
Bệnh làm khô quả, khô cành cà chết cây. Nó xuất hiện trên cả cà phê chè và cà
phê vối.
Nguyên nhân gây ra bệnh khô cành, khô quả có thể do nấm hoặc do sinh lý: Cà
phê cho quả sớm, nhiều, dẫn đến kiệt sức khô cành Ở Đắc Lắc thường thâý ở các
vườn cà phê năng suất cao (trên 4 tấn/ ha) mà lượng phân bón lại thấp.


Biện pháp phòng trừ: Trồng giống chống bệnh; Bón phân cân đối; Phun 1 trong
các loại thuốc sau: Derosal 50SC (0,2%), Tilit 250EC (0,1%), Viben C50BTN (0,2
%), Bendazol 50Wp (0,2%)…Phun thuốc khi bệnh mới xuất hiện, phun 2 – 3 lần,
mỗi lần cách nhau 1 tháng.
3. Bệnh tuyến trùng hay còn gọi là bệnh vàng lá thối rễ: Lọại bệnh này khá
nguy hiểm, có thể gây cho cà hê chết hàng loạt. Các loại tuyến trùng chích hút rễ
gây vết thương hay các nốt sưng trên rễ tạo diều kiện cho các loại nấm xâm nhập
gây hiện tượng thối rễ vàng lá.
Vào mùa mưa ở Tây Nguyên đã có hàng trăm hecta cà phê vối bị bệnh, lá cây bị
vàng và rụng, rễ bị tuyến trùng và nấm phá hoại nên có thể dùng tay nhổ lên dễ
dàng.
Cà phê trồng lại trên các vườn cà phê già cỗi thường bị tuyến trùng và nấm phá
hoại. Cây có triệu chứng vàng lá lúc giao mùa, mới dứt mưa, bắt đầu mùa khô.
Ở các vừơn cà phê đã bị bệnh, việc xáo xới, vét bồn tưới cà phê có thể làm đứt rễ,
tạo điều kiện cho bệnh phát triển vì tạo vết thương cho rễ. Biện pháp tưới tràn cho
vườn cà phê cũng tạo điều kiện cho tuyến trùng di chuyển, lan rộng.
Biện pháp phòng trừ: Với bệnh tuyến trùng biện pháp hoá học không phải là chủ
yếu vì tốn kém và hiệu quả không cao.
Các vườn cà phê già cỗi, vườn bị bệnh, sau khi phá đi không được trồng lại cà phê
ngay mà phải tiến hành rà rễ nhiều lần, nhặt sạch các rễ cà phê cũ còn sót lại rồi
trồng luân canh cây phân xanh, cây họ đậu… 2 -3 năm trước khi trồng cà phê.
Thường xuyên kiểm tra phát hiện kịp thời cây bị bệnh, đào cây đem đốt, tưới
thuốc BenlateC hay Bendazol 0,5% tưới 5 lít dung dịch 1 hố, 2 lần cách nhau 15
ngày cho các cây xung quanh vùng bệnh.
Bón phân đầy đủ cân đối, tăng cường bón phân hữu cơ, Hạn chế xới xáo vườn cà
phê tránh làm tổn thương bộ rễ.

×