Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Địa chất Và tài nguyên dầu khí Việt Nam - Chương 2 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.96 MB, 24 trang )

Chương
Hoạt động
điều tra
đòa chất,
thăm dò và
khai thác
dầu khí
2
13
Chương 2. Hoạt động điều tra đòa chất, thăm dò và khai thác dầu khí
Dụng cụ, di vật cổ bằng đá từ các thời
đại đồ đá cũ được tìm thấy ở núi Đọ (Thanh
Hoá), đồ đá giữa của văn hoá Hoà Bình rồi
đến đồ đá mới thuộc văn hoá Bắc Sơn cách
đây khoảng 100 nghìn năm… chứng tỏ người
Việt cổ đã biết khai thác chế biến nguyên
liệu khoáng (Trần Quốc Vượng, 1978).
Vào thời Hùng Vương cách đây hàng
nghìn năm, người Lạc Việt đã chuyển dần
sang thời đại đồ đồng thể hiện qua các di
chỉ ở Phùng Nguyên (Vónh Phú), Quy Đạt
(Quảng Bình), Hạ Long (Quảng Ninh)…
(Đào Duy Anh, 1964).
2. Thời kỳ phong kiến
Thời đại kim khí thời Hùng Vương
phát triển qua các giai đoạn đồ đồng, đồng
thau mà rực rỡ nhất là văn hoá Đông Sơn
khoảng thế kỷ 13 trước công nguyên, trong
đó có trống đồng nổi tiếng (Hà Văn Phùng,
1981).
Vào các triều đại phong kiến Đinh, Lê,


Lý, Trần, Lê… đến triều Nguyễn, tuy nhiều
năm liền phải chống ngoại xâm, nhưng
việc khai thác và sử dụng tài nguyên vẫn
được mở mang ngày càng nhiều. Số liệu
thống kê qua các triều đại đến thế kỷ 19 đã
có trên 150 mỏ được khai thác ở Việt Nam
gồm các kim loại cơ bản, sắt và hợp kim sắt,
nhiên liệu, khoáng chất công nghiệp (Phan
Huy Lê, 1963, Lê Văn Cự, 1979-1983).
Qua những sử liệu trên, các hoạt động
liên quan đến đòa chất, khai khoáng của
người Việt đã đạt được những trình độ nhất
đònh rất đáng tự hào.
3. Thời kỳ Pháp thuộc (1858-1945)
Từ khi thực dân Pháp đổ bộ vào Đà
Nẵng năm 1856 đến suốt thời kỳ đô hộ
Việt Nam, các tổ chức về mỏ và đòa chất
đã được thành lập, điều hành việc điều tra
đòa chất và khai thác tài nguyên khoáng
sản của nước thuộc đòa.
Sở Mỏ Nam Kỳ được thành lập vào
năm 1868, rồi đến Nha Mỏ Đông Dương-
1884, Công ty Than Bắc Kỳ - 1888, Sở Đòa
chất Đông Dương-1898 (trên giấy tờ là
năm 1894) thuộc Nha Canh nông và thương
mại Đông Dương, đến năm 1904 thuộc Ban
Công chính của Sở Mỏ, năm 1921 nhập
vào Nha Mỏ Đông Dương, năm 1939 thuộc
Ban Tổng Thanh tra Mỏ và Kỹ nghệ Đông
Lòch sử hoạt động liên quan đến đòa chất, thăm dò, khai khoáng, chế biến và sử dụng tài

nguyên khoáng sản ở Việt Nam ở những mức độ khác nhau gắn liền với quá trình phát triển
từ thời nguyên thuỷ đến nay đã được ghi nhận qua nhiều di tích khảo cổ và sử liệu.
1. Thời kỳ tiền sử
14
Đòa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
Dương (Saurrin E., 1951; Hoàng Thò Thân,
1973).
Trên thực tế, từ thế kỷ 16, 17 đã có
những nhà buôn, cha cố phương Tây đến
Việt Nam đã có những nhận đònh “đây là
một vò trí cần được chiếm lấy, vì chiếm
được vò trí này thì các thương gia châu
Âu sẽ thu được một nguồn lợi rất lớn với
một khả năng tài nguyên rất đỗi dồi dào”
(Alexandre de Rhodes, 1650]. Một số nhà
đòa chất Pháp như Arnoux E., 1852; Petiton
A., 1868-1895,… đã có những khảo sát thực
đòa và công bố một số công trình đòa chất
về Nam Kỳ, Đông Dương; Fuchs E., Saladir
E., 1882 ghi chép về thăm dò các điểm
nhiên liệu và kim loại ở Đông Dương,…
Sở Đòa chất Đông Dương đã nhanh chóng
xúc tiến việc điều tra cơ bản lập bản đồ đòa
chất ở các tỷ lệ 1:4.000.000 (1882, 1928);
1:2.000.000 (1928, 1931, 1937, 1952, 1971).
Tiếp theo là việc lập bản đồ đòa chất tỷ lệ
1:100.000 trên các tờ Thất Khê (1907), Tú
Lệ (1910), Bắc Hà, Hà Giang, Malipo, Yên
Minh (1915), Cao Bằng (1924), Hạ Lang
(1925), Vạn Yên (1929) nhưng do không

đạt được mục tiêu và kéo dài quá lâu nên đã
chuyển sang tỷ lệ 1:500.000 trên các tờ Hà
Nội (1927-1937), Vinh (1928), Cao Bằng
(1930), Huế (1935), Đà Nẵng (Tourane)
(1935), Nha Trang (1937), Sài Gòn (1937),
Quy Nhơn (1942), Khong (1942), Montzeu
(1942), Vónh Long (1962).
Ngoài công việc lập bản đồ đòa chất,
nghiên cứu cổ sinh, đòa tầng (Zeiller R.,
1886-1903; Mansuy H., 1908-1921; Colani
M., 1916-1927; Fontain H., 1954-1994),
thạch học (Lacroix A., 1893-1935); kiến tạo
(Deprat J., 1911-1917, Dussault L., 1921-
1929; Jacob CH., 1920-1932; Fromaget J.,
1927-1952; Saurine E., 1930-1970;…) đặc
biệt là công tác điều tra khai thác tài nguyên
khoáng sản được bắt đầu rất sớm (Arnoux
E., 1854-1855; Fuchs E., Saladin E., 1882;
Sarran E., 1888, 1898; Bel JM., 1898-1901;
Counilon H., 1899-1914; Beauverie E.,
1911; Bordeaux A., 1925-1928; Blondel F.,
1927-1952…)
Năm 1922 Viện Hải dương học Đông
Dương được thành lập. Từ năm 1923-1927
tầu De Lanesssan (Pháp) đã khảo sát độ
sâu đáy biển và thu thập mẫu đáy ở Biển
Đông. Năm 1930 người Pháp đã đo độ sâu,
khảo sát đòa hình các khu vực biển nông
ven bờ như vònh Bắc Bộ, vònh Thái Lan,
các đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Phú Quốc.

Các công trình chuyên sâu về đòa chất
dầu khí rất ít so với đòa chất khu vực nói
chung và khoáng sản rắn nói riêng. Tuy
nhiên các tài liệu còn để lại cũng ghi được
những thông tin về dầu khí ở Việt Nam và
Đông Dương đã biết được khá sớm.
Vào năm 1901 đã khoan một vài giếng
khoan tại Đà Nẵng nhưng không gặp khí
cháy tự nhiên. Năm 1910 đã khoan và đào
giếng ở vùng núi Lòch -Yên Bái. Trong
cuộc họp ngày 23-3-1914 của Viện Hàn
lâm Khoa học Pháp D. Launay đã trình bày
ghi chép của P. Durandin “Về sự có thể tồn
tại mỏ dầu khí ở Đông Dương thuộc Pháp
theo các chỉ dẫn đòa danh” [4].
Vấn đề dầu mỏ ở Bắc Bộ và những
vùng còn lại thuộc Đông Dương đã được
nêu rõ trong báo cáo chung về công nghệ,
nhân cuộc thanh tra các nước thuộc đòa vào
tháng 3/1922 gồm những vùng chính như
sau [8, 9,18]:
1. Bể trầm tích Đệ Tam Đồng Ho (Quảng
Ninh) chứa các vỉa than lignit đang
15
Chương 2. Hoạt động điều tra đòa chất, thăm dò và khai thác dầu khí
được khai thác và đá phiến dầu dày
khoảng 15 m, khi chưng cất cho 3-8%
dầu khoáng (huile minérale) bốc cháy
dễ dàng có thể sử dụng làm chất đốt khi
trộn với lignit.

2. Trầm tích Đệ Tam ở Tuyên Quang.
Trên mái lớp lignit còn gặp đá phiến
sét-vôi màu sôcôla, khi chưng cất cho
ra các dầu khoáng tỷ lệ khác nhau. Hai
thành tạo trên rất giống nhau, nhưng các
bể đó rất hạn chế nên trữ lượng các đá
phiến sơ bộ thấy rằng khó mà xây dựng
được một nhà máy dầu ở nước thuộc
đòa này. Tuy vậy, sự tồn tại các lớp đã
phiến chứa bitum không có nghóa là dấu
hiệu cho sự tồn tại khoáng dầu ở những
vùng này.
3. Trầm tích Paleozoi ở vùng núi Lòch,
hữu ngạn sông Hồng, phía Nam thò xã
Yên Bái 3-4 km có dải đá vôi nứt nẻ,
graphit hoá biểu hiện hydrocarbon xâm
nhiễm tạo thành móng của bể trầm tích
sông-hồ Đệ Tam dày khoảng 1.000 m
bò uốn nếp ở Yên Bái dọc thung lũng
sông Hồng (Viennot P., 1924, Sarran
E., 1899; Fromaget J., 1941)
Vào năm 1910, Nha Mỏ Đông Dương
đã tiến hành khảo sát đòa chất, thi công
một số công trình hào, hố ở thượng
nguồn Ngòi Ác, Ngòi Giao, đặc biệt là
khoan ở sườn phía Đông Núi Lòch đến
ngày 12/1/1911 đã tới độ sâu 52 m và
ở đoạn 35 m đã xuyên qua lớp cát kết
màu đen có mùi dầu mỏ nhưng sau đó
đã ngừng bỏ. (La question du pétrole,

1922; Viennot P., 1924). Sau đó vào
năm 1922 theo đề xuất của Guidon
Lavallée thuộc Sở Mỏ ở Hà Nội Piere
Viennot đã cùng với ông ta khảo sát lại
vùng Núi Lòch, Ngòi Ac, Ngòi Giao lập
bản đồ tài liệu thực tế tỷ lệ 1:50.000 và
mặt cắt đòa chất qua đỉnh Núi Lòch (242
m) và gửi mẫu phân tích tại Phòng thí
nghiệm của Sở Mỏ cho kết quả có các
hợp chất hydrocarbon [9]. Trong báo
cáo về “Nghiên cứu mỏ dầu Yên Bái ”
tại Hội nghò của Hội Đòa chất Pháp vào
ngày 1/12/1924 do F. Delafond làm
chủ toạ, P. Viennot, 1924 [19] đã điểm
qua các nghiên cứu về đòa chất của
Beauverie E., 1911, Zeiller R., 1893,
Dussault L., 1922, 1929 liên quan đến
Hình 2.1. Mặt cắt đòa chất qua vùng núi Lòch (theo Pierre Viennot, 1922)
16
Đòa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
vùng Yên Bái gồm các thành tạo biến
chất, các trầm tích Paleozoi và bể Đệ
Tam có nhận đònh sự xuất lộ dầu ở đây,
tuy không có khả năng tồn tại một mỏ
dầu nhưng có thể đây là dấu hiệu tốt
cho công tác tìm kiếm dầu mỏ ở xứ sở
này (Hình 2.1 và hình 2.2).
4. Vùng Tourane (Đà Nẵng) người ta đã
thông báo về sự tồn tại cát kết chứa
dầu mỏ và được xác nhận của nhà thăm

dò (Prospecteur) điều tra cho biết đã
có dầu khoáng rò rỉ trong 20 năm qua
từ khi làm các nền móng công trình ở
vùng này và trong mẫu cát được phòng
thí nghiệm cho kết quả có lẽ là hỗn hợp
của hydrocarbon [8].
Về phương diện đòa chất nếu sự tồn tại
hydrocarbon là có khả năng trong bể
Mesozoi Nông Sơn ở Tây Nam Đà Nẵng
thì nó lại ít có khả năng ở gần thành phố
này nơi người ta chỉ biết ngoài bồi tích
hiện tại là đá biến chất kết tinh, việc
kéo dài của bể này dưới những bồi tích
có lẽ khoảng 10 km ở phía Nam Đà
Nẵng.
5. Điểm lộ dầu ở vùng đầm Thò Nại ở Quy
Nhơn được phát hiện vào năm 1920 và
Saurin E., 1944 mô tả ở làng Hội Lộc,
chân phía Tây núi Eo Vược nơi bờ biển
dốc đứng có dầu rỉ lộ ra loang trên bề
mặt bùn, cát lấp đầy các khe nứt trong
đá granit khi thuỷ triều rút xuống. Dầu
thu được do chưng cất dung dòch màu
nâu, nặng có thuộc tính Parafin và chỉ
số khúc xạ là 1,425 ở nhiệt độ 28
0
C.
Ông ta cho rằng dấu hiệu giả đònh có
sự tồn tại dầu trong trầm tích vũng vònh
ở sâu dưới trầm tích hiện đại và không

nghi ngờ gì nó thuộc Neogen, hoặc có
thể là phần thấp của Đệ Tứ.
Tại đây, vào năm 1944, người Pháp
đã tiến hành khoan thăm dò các vùng
phía Tây Hội Lộc, Đông Kỳ Sơn thuộc
vònh Quy Nhơn đến độ sâu 40 m gặp đá
móng granit và trên đó là lớp bùn cát
biển màu xám nhưng không phát hiện
ra dầu. Sau đó vào năm 1945 người
Nhật cũng tiến hành khoan thêm một
số giếng nhưng cũng không cho điều gì
mới [5]. Đến năm 1957, Saurin E. trở
lại nghiên cứu điểm dầu này gần làng
Hội Lộc bên dưới lớp cát biển 20 cm là
lớp bùn cát màu đen, mùi thối có những
váng dầu loang trên lớp bùn sapropel
phong phú những mảng vụn thực vật
(tảo) như là đá mẹ của dầu phân tán,
rải rác ở vònh Quy Nhơn. Từ những kết
quả nghiên cứu mới này, cộng với tài
liệu thăm dò 1944, Saurin E., 1964 lại
có nhận đònh rằng dầu ở đây không
phải từ trầm tích Neogen hay Đệ Tứ cổ
mà chính là lớp bùn Sapropel giàu mùn
thực vật ở vònh Quy Nhơn.
4. Thời kỳ từ Cách mạng tháng 8 (1945)
đến nay
4.1. Giai đoạn 1945-1954
Cách mạng Tháng 8 (1945) đã đưa Việt
Nam từ một nước thuộc đòa trở thành một

Hình 2.2. Mặt cắt đòa chất qua điểm lộ dầu núi
Lòch (theo Báo cáo Sở mỏ Đông Dương, 1922)
17
Chương 2. Hoạt động điều tra đòa chất, thăm dò và khai thác dầu khí
nước độc lập. Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà đã tổ chức lại ngành đòa chất và
mỏ.
Năm 1945 Nha Kỹ nghệ, Sở Tổng
Thanh tra Khoáng chất và Kỹ nghệ được
thành lập trực thuộc Bộ Quốc dân Kinh tế.
Năm 1946 Sở Đòa chất và Sở Khoáng chất
được tách ra nhưng vẫn nằm trong Bộ Quốc
dân Kinh tế.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945-1954) chỉ có một số hoạt động đòa
chất và mỏ với quy mô nhỏ được tiến hành
nhằm phục vụ trực tiếp cho quốc phòng và
dân sinh.
Trong vùng Pháp tạm chiếm, Sở Đòa
chất Đông Dương được đưa vào Trung tâm
nghiên cứu khoa học và kỹ thuật từ năm
1951, sau đó chuyển vào Sài Gòn từ năm
1954 đặt trong Tổng Nha Mỏ, Công nghiệp
và Thủ công nghiệp thuộc Bộ Kế hoạch
và sau thuộc Bộ Tài chính và Kinh tế quốc
dân. Hoạt động đòa chất không có gì nhiều,
ngoài việc một số nhà đòa chất Pháp như
Fromaget J., Saurin E.,… công bố một số
công trình nghiên cứu đòa chất ở Lạng Sơn,
Hải Phòng… và ở một số hòn đảo, … đáng

kể là việc tái bản công trình bản đồ đòa chất
Đông Dương tỷ lệ 1:2.000.000 do Fromaget
J., Saurin E., thành lập (1952).
4.2. Giai đoạn 1954-1975
a. Miền Bắc Việt Nam
Sau khi miền Bắc Việt Nam được giải
phóng (1954), Chính phủ Việt Nam đẩy
mạnh hoạt động đòa chất và mỏ với sự giúp
đỡ của Liên Xô (cũ), Trung Quốc và các
nước Đông Âu. Chính phủ đặc biệt quan
tâm đến việc đào tạo chuyên gia trong nước
và gửi đi đào tạo ở nước ngoài.
Một khối lượng to lớn các công trình
khảo sát đòa chất, tìm kiếm, thăm dò và khai
thác các khoáng sản đã được hoàn thành
trong giai đoạn này. Độc giả có thể tìm hiểu
trong “Thư mục đòa chất Việt Nam” (Cục
Đòa chất và Khoáng sản Việt Nam. Hà Nội
1998); chẳng hạn như “Đòa chất miền Bắc
Việt Nam” và bản đồ đòa chất miền Bắc
Việt Nam (1965) (do Dovjikov A.E. chủ
biên. 1965); “Bản đồ đòa chất Việt Nam
phần miền Bắc tỷ lệ 1:1.000.000” (do Trần
Văn Trò chủ biên. 1973)… Dưới đây chúng
tôi chỉ nêu các hoạt động liên quan đến đòa
chất dầu khí.
Năm 1956 Viện sỹ Griaznov N.K. (Liên
Xô cũ) nhận đònh miền Bắc Việt Nam có
triển vọng dầu khí. Từ 1959-1961 Kitovani
S.K. cùng với các đồng nghiệp Việt Nam

đã nghiên cứu tài liệu của các nhà đòa chất
Pháp, khảo sát 11 tuyến khoảng 25.000 km
lộ trình đã hoàn thành báo cáo “Đòa chất
và triển vọng dầu khí ở Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà” [13]. Đây là công trình tổng hợp
đầu tiên về đòa chất và đánh giá triển vọng
dầu khí ở Việt Nam. Theo tác giả, miền
Bắc Việt Nam có 4 vùng triển vọng (Hình
2.3):
1. Vùng trũng giữa núi tam giác châu
sông Hồng.
2. Vùng được cấu tạo bởi các trầm
tích lục nguyên Mesozoi trên nền
Caledoni bò biến chất Paleozoi sớm.
3. Vùng được cấu tạo bởi trầm tích lục
nguyên Mesozoi trên tầng Hercyni bò
lún chìm không sâu.
4. Vùng được cấu tạo bởi trầm tích lục
nguyên Paleozoi giữa-trên.
Ngày 27-11-1961 Đoàn Đòa chất 36 trực
thuộc Tổng cục Đòa chất được thành lập.
18
Đòa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
Ngày 9-10-1969 Chính phủ ký quyết đònh
số 203/CP thành lập Liên đoàn Đòa chất
36. Đây là đơn vò đòa chất đầu tiên được
tổ chức để tiến hành khảo sát, tìm kiếm và
thăm dò dầu khí ở Bắc Việt Nam. Bắt đầu
từ đây với sự quan tâm chỉ đạo của Chính
phủ, sự giúp đỡ của Liên Xô (cũ), hoạt

động tìm kiếm thăm dò dầu khí ở miền Bắc
Việt Nam được triển khai một cách mạnh
mẽ, đồng bộ với tổ hợp các phương pháp
đòa chất, đòa vật lý, đòa hoá, khoan vẽ bản
đồ, khoan cấu tạo, thông số, tìm kiếm thăm
dò ở vùng trũng Hà Nội và sau này là vùng
trũng An Châu. (Hình 2.4).
Hình 2.3. Bản đồ sơ lược về triển vọng dầu mỏ và khí thiên nhiên miền Bắc Việt Nam
19
Chương 2. Hoạt động điều tra đòa chất, thăm dò và khai thác dầu khí
Đã tiến hành khảo sát từ hàng không
tỷ lệ 1:200.000 trên toàn miền Bắc Việt
Nam (Ivanhiukov I.D. 1961). Đo trọng lực
tỷ lệ 1: 200.000 trên diện tích 12000 km
2

vùng trũng Hà Nội (Epstêin N.V. 1961-
1963); sau đó là tỷ lệ 1: 500.000 trên toàn
miền Bắc (Nguyễn Hiệp 1964-1973); tỷ lệ
1:200.000 ở vùng trũng An Châu và vùng
trũng Ninh Bình, tỷ lệ 1:50.000 và 1:25.000
ở Đông Nam vùng trũng Hà Nội (Nguyễn
Hiệp, Giang Công Thònh 1965-1973).
Công tác thăm dò đòa chấn bắt đầu từ
năm 1962 với phương pháp phản xạ được
tiến hành 2.260 km ở Đông Nam vùng trũng
Hà Nội (Macsiutova, Hồ Đắc Hoài, Trương
Minh), 232 km tuyến khúc xạ (Nguyễn Trí
Liễn).
Công tác thăm dò điện được bắt đầu

từ năm 1964 với trên 1.532 km tuyến chủ
yếu tập trung ở Đông Nam vùng trũng Hà
Nội (Pornhiagin M.A., Tăng Mười, Nguyễn
Tấn Kích…).
Công tác khoan cấu tạo được bắt đầu từ
năm 1962 tập trung chủ yếu ở vùng trũng
Hà Nội với chiều sâu các giếng khoan từ
150 m đến 1.200 m với tổng số khoảng 20
nghìn mét khoan. Công tác khoan sâu bắt
đầu từ năm 1970 với giếng khoan thông
số 100 tại Tiên Hưng (Thái Bình) đạt độ
sâu kỷ lục lúc bấy giờ (1970) là 3.303 m.
Cho đến năm 1975 đã khoan được 7 giếng
khoan sâu với tổng 17684 m khoan. Giếng
khoan 61 ở cấu tạo Tiền Hải “C” đã phát
hiện dòng khí lẫn condensat công nghiệp từ
cát kết thuộc hệ tầng Tiên Hưng.
Có thể nói rằng kết quả khảo sát đòa
chất, đòa vật lý và khoan trong giai đoạn
này đã cho thấy bức tranh toàn cảnh cấu
trúc đòa chất của miền Bắc Việt Nam liên
quan đến việc đánh giá triển vọng dầu khí;
và đặc biệt cấu trúc đòa chất sâu bên dưới
lớp phủ trầm tích Đệ Tứ khá dày của vùng
trũng Hà Nội lần đầu tiên được nghiên
cứu; đã phát hiện được những hệ thống
đứt gãy phức tạp (sông Chảy, sông Hồng,
sông Lô, Vónh Ninh…), các dải nâng Kiến
Xương-Tiền Hải, các vùng sụt lún Đông
Quan, Phượng Ngãi có chiều dày trầm tích

Hình 2.4. Khảo sát đòa chất tại vùng An Châu (ảnh tư liệu)
20
Đòa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
Đệ Tam vượt trên 3 km, cũng đã phát hiện
nhiều cấu tạo đa dạng chòu tác động của
các hoạt động kiến tạo mạnh mẽ…
Các nghiên cứu về thạch học, trầm tích,
cổ sinh (vi cổ sinh, bào tử phấn hoa…) đã
được triển khai (Trầm tích và điều kiện
thành tạo trầm tích Neogen-Đệ Tứ miền
trũng Hà Nội. Glovênok V.K., Lê Văn
Chân. 1966, ) trong đó phải kể đến công
trình tổng hợp tài liệu đầu tiên là báo cáo
“Cấu trúc đòa chất và triển vọng dầu khí
của miền trũng Hà Nội” của Kisliakov
V.N., Golovenok V.K. (1970). Trong giai
đoạn này đã hình thành dần quan điểm triển
vọng dầu khí ở vùng trũng Hà Nội tăng dần
về phía biển.
Ngoài vùng trũng Hà Nội, công tác
khảo sát đòa chất, đòa vật lý (trọng lực và
điện) và một vài giếng khoan cấu tạo tìm
kiếm cũng được triển khai ở vùng trũng
Mesozoi An Châu (Nguyễn Quang Hạp,
1965-1967; Nguyễn Hiệp, 1972; Trần Ngọc
Toản, 1974), các kết quả đã được tổng
hợp trong báo cáo “Cấu trúc đòa chất và
triển vọng chứa dầu vùng trũng An Châu”
(1967-1970) do Ngô Thường San chủ biên.
Song một số chuyên gia đòa chất (Makarov.

1972) lại cho rằng vùng này không có triển
vọng dầu khí vì cấu trúc đòa chất vùng này
không thuận lợi cho khả năng sinh, chứa,
chắn dầu khí.
b. Miền Nam Việt Nam
Trong khi ở miền Bắc Việt Nam hoạt
động đòa chất nói chung và tìm kiếm thăm
dò dầu khí nói riêng được đẩy mạnh thì ở
Hình 2.6. Giếng khoan thăm dò phát hiện khí
đầu tiên ở Tiền Hải C Miền Võng Hà Nội
(ảnh tư liệu)
Hình 2.5. Giếng khoan thăm dò ở châu thổ
sông Hồng (ảnh tư liệu)
21
Chương 2. Hoạt động điều tra đòa chất, thăm dò và khai thác dầu khí
miền Nam Việt Nam chính quyền Sài Gòn
không tiến hành gì nhiều hoạt động đòa chất
trên đất liền, ngoài việc một số nhà đòa chất
Pháp như Saurin E., Fontaine H. và một số
nhà đòa chất Việt Nam như Tạ Trần Tấn,
Nguyễn Lan Tú, Hoàng Thò Thân, Trần
Kim Thạch, Nguyễn An Cư… hoặc chỉnh
lý các nghiên cứu trước đây hoặc nghiên
cứu về kiến tạo, đòa tầng, hoá đá, suối nước
nóng… ở một số vùng trên đất liền và một
số hòn đảo. Cũng đã xuất bản một số tờ
bản đồ đòa chất tỷ lệ nhỏ 1:500.000 (các tờ
Nha Trang, Vónh Long, Sài Gòn…), đáng kể
nhất là công trình của Fontaine H., tái bản
lần thứ ba bản đồ đòa chất Đông Dương tỷ

lệ 1:2.000.000 do Fromaget J. và Saurin E.
thành lập, có hiệu đính phần Nam vó tuyến
17 (1971) và Từ điển đòa tầng Đông Dương
của Saurin E., 1956 [23].
Năm 1967, Sở Hải dương Hoa Kỳ đo từ
hàng không trên toàn miền Nam Việt Nam
tỷ lệ 1:250.000.
Năm 1968 Bộ Phát triển hải ngoại Anh
tiến hành khảo sát đòa chấn khúc xạ (khoảng
290 km tuyến) và phản xạ (370 km tuyến)
ngoài khơi khu vực đảo Thổ Chu, kết quả
cho biết chiều dày trầm tích Mesozoi ở đây
có thể tới 3-4 km [2]. Cùng năm công ty
Alpine Geophysical Corporation đo 19.500
km tuyến đòa chấn và lấy mẫu ở Biển
Đông.
Năm 1969-1970 công ty Ray
Geophysical Mandrel khảo sát 12.121 km
tuyến đòa chấn, từ và trọng lực ở thềm lục
đòa Nam Việt Nam.
Năm 1969 Hồ Mạnh Trung dựa trên
tài liệu từ hàng không công bố “Khảo lược
cấu trúc đồng bằng sông Cửu Long và thảo
luận về vấn đề dầu mỏ” [11]. Sau đó (1971)
Bosum W.E., Kind E.G., Hồ Mạnh Trung
nghiên cứu cấu trúc châu thổ Mêkông dựa
trên tài liệu từ hàng không cho rằng ở các
bồn trầm tích Cần Thơ, Cà Mau trầm tích
dày từ 3-5 km. Các trầm tích Lias, Trias và
có thể trẻ hơn cùng với đá vôi Permi có thể

có giá trò tìm kiếm dầu khí [1].
Ngày 1-12-1970 chính quyền Sài Gòn
ban hành đạo luật số 011/70 ấn đònh việc
tìm kiếm khai thác dầu mỏ cùng điều kiện
thuế khoá và hối đoái. Tháng 1-1971 Uỷ
ban Quốc gia dầu mỏ được thành lập theo
sắc lệnh số 003-SLKT ngày 7-1-1971. Sau
đó thành lập Tổng cuộc dầu hỏa và khoáng
sản.
Tháng 6-1971 Bộ Kinh tế công bố Nghò
đònh số 249/BKT/UBQGDH ngày 9-6-1971
về cấp quyền đặc nhượng tìm kiếm thăm
dò dầu mỏ tại thềm lục đòa Việt Nam Cộng
hoà và quy đònh cho đấu thầu đặc nhượng.
Tổng cộng có 61 lô được đưa ra đấu thầu.
Năm 1972 công ty GSI (Geological
Service Inc.) khảo sát 5.000 km đòa chấn
2D khu vực miền Trung và quần đảo Hoàng
Sa.
Tháng 6-1973 công ty Robertson
Research International Limited (Anh) và
BEICIP (Bureau d’Etudes Industrielles et
de Cooperation de l’Institut Francais du
Pétrole - Pháp) phối hợp làm báo cáo “Đòa
chất và khai thác hydrocarbon ở ngoài khơi
Nam Việt Nam” tập trung đánh giá khả
năng sinh, chứa, chắn, bẫy ở bể Cửu Long,
vònh Thái Lan và bể Sài Gòn [22].
Cùng thời gian này chính quyền Sài
Gòn tổ chức đấu thầu đợt 1 trên 8 lô cho

4 nhóm công ty: Pecten Việt Nam (lô 06,
07, 08. TLĐ); công ty Mobil Oil (lô 03, 04
TLĐ); công ty Sunningdale (lô 01, 02.TLĐ)
22
Đòa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
và công ty ESSO (lô 05 TLĐ) với tổng diện
tích 57.223 km
2
, trong đó 4 lô ở bể Cửu
Long, 4 lô ở bể Nam Côn Sơn (Hình 2.7).
Hình 2.7. Dự đònh đặc nhượng tìm kiếm
khai thác dầu khí (dùng trong nghò đònh
gọi thầu ngày 19/2/1974)
Tháng 4-1974 đấu thầu đợt 2 với 9 lô
cho 5 nhóm công ty: công ty Mobil-Keiyo
(lô 12A, 12B TLĐ); Pecten BHP (lô 09
TLĐ); IOL (lô 10 TLĐ) Marathon (lô 11
TLĐ), OMO (lô 10, 14, 19, 23 TLĐ) với
diện tích mỗi lô là 4.500 km
2
(Hình 2.8).
Hình 2.8. Khu vực hợp đồng giai đoạn 1973-1975
Sau khi trúng thầu các công ty đã tiến
hành đo đòa chấn với mạng lưới 8x8 km,
4x4 km trên toàn lô và 2x2 km trên các
diện tích có triển vọng. Tổng chiều dài đo
đòa chấn trong thời gian này lên tới 87.908
km.
Cuối năm 1974 đầu 1975 công ty Pecten
và Mobil đã khoan 6 giếng tìm kiếm trên

5 cấu tạo, trong đó có 4 giếng khoan và 1
giếng chưa kết thúc ở bể Nam Côn Sơn, 1
giếng khoan ở bể Cửu Long.
Giếng Hồng-1X (lô 8 TLĐ) đạt chiều
sâu 1640 m, phát hiện dầu trong lớp cát kết
nhưng không có giá trò thương mại.
Giếng Dừa-1X (lô 8 TLĐ) sâu 4.039 m
gặp dầu ở độ sâu 3.048-3.352 m thử vỉa cho
lưu lượng 1.514 barel (240 m
3
) dầu/ngày và
164.000 m
3
khí/ngày.
Giếng Bạch Hổ-1X (lô 04 TLĐ) sâu
3.026 m gặp nhiều lớp cát kết chứa dầu
ở độ sâu 2.750-2.860 m. Thử vỉa cho lưu
lượng 2.400 barel (380 m
3
) dầu/ngày và
25.000 m
3
khí/ngày.
Giếng Dừa-2X (lô 08 TLĐ) với độ sâu
3.652 m ngày 1-4-1975, bỏ dở khoan.
Giếng Mía-1X (lô 06 TLĐ) sâu 3.353 m
gặp áp suất cao không thử vỉa được.
Giếng Đại Hùng-1X khoan đến độ sâu
1.829 m (tháng 4/1975) thì bỏ dở khoan.
4.3. Giai đoạn từ 1975 đến nay

Sau khi Việt Nam thống nhất hai miền
Nam Bắc (30-4-1975), Chính phủ Việt Nam
đẩy mạnh công tác đòa chất, tìm kiếm thăm
dò khoáng sản nói chung và đặc biệt là tìm
kiếm thăm dò dầu khí trên cả nước.
Ngày 3-9-1975 Tổng cục Dầu mỏ và
Khí đốt Việt Nam được thành lập trực thuộc
Chính phủ. Tháng 8-1977 Công ty Dầu khí
quốc gia Việt Nam gọi tắt là Petrovietnam
được thành lập trực thuộc Tổng cục Dầu
khí. Tháng 4-1990 Tổng cục Dầu khí nhập
vào Bộ Công nghiệp nặng. Tháng 7-1990
23
Chương 2. Hoạt động điều tra đòa chất, thăm dò và khai thác dầu khí
thành lập Tổng công ty Dầu khí Việt Nam
có tên giao dòch quốc tế là Petrovietnam.
Tháng 4-1992, Tổng công ty Dầu khí Việt
Nam tách khỏi Bộ Công nghiệp nặng trực
thuộc Thủ tướng Chính phủ. Theo quyết
đònh số 330/TTG ngày 29-5-1995 của Thủ
tướng Chính phủ, Tổng công ty Dầu khí
Việt Nam là Tổng công ty Nhà nước có tên
giao dòch quốc tế là Vietnam Oil and Gas
Corporation viết tắt là Petrovietnam, có
các chức năng nhiệm vụ: nghiên cứu, tìm
kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí, chế biến,
tàng trữ, vận chuyển, dòch vụ dầu khí, xuất
nhập vật tư thiết bò dầu khí, dầu thô và sản
phẩm dầu khí; phân phối sản phẩm dầu khí
và các hoạt động kinh doanh khác phù hợp

với luật pháp Việt Nam và các nhiệm vụ
được giao khác.
Ở miền Bắc Việt Nam Tổng cục Dầu
khí tiếp tục chỉ đạo các đơn vò trong ngành
triển khai khảo sát trọng lực chi tiết (tỷ
lệ 1:50.000; 1:25.000) ở vùng Đông Nam
trũng Hà Nội và vùng nước nông ven biển
Thái Bình, Nam Đònh (Giang Công Thònh,
Phan Quang Quyết 1976-1982); khảo sát
đòa chấn phương pháp điểm sâu chung tỷ lệ
1:50.000 với 3.197 km tuyến ở Đông Nam
và Bắc trũng Đông Quan, Kiến Xương,
Tiền Hải, Đông Hoàng… và 223 km ở vùng
nước nông vònh Bắc Bộ (Đỗ Văn Lưu, Đào
Quang An, Phạm Dương, Đỗ Văn Hậu…
1975 - 1981). Cuối năm 1981 tiến hành
2.555 km tuyến đòa chấn mật độ quan sát
5x5 km trên diện tích 6.500 km
2
ở vònh Bắc
Bộ bằng tàu đòa chấn Bình Minh (Đỗ Văn
Hậu, 1981) (Hình 2.9). Trong giai đoạn này
đã tiến hành 32 giếng khoan với 78.842 m
khoan. Đã phát hiện được mỏ khí Tiền Hải
“C” (Hình 2.10).
Năm 1977, Sevostianov K.M., Lê
Trọng Cán và nnk. hoàn thành báo cáo
“Cấu trúc đòa chất, triển vọng dầu khí và
phương hướng công tác tiếp theo ở miền
trũng Hà Nội“ [20], năm 1983 Skorduli

Hình 2.9. Tàu đòa chấn Bình Minh (ảnh tư liệu)
24
Đòa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
V.D., Khuduk M.N., Nguyễn Ngọc Cư hoàn
thành báo cáo “Tổng kết nghiên cứu thăm
dò đòa chất dầu khí miền trũng Hà Nội từ
1962-1982“ [21]. Năm 1987 Nguyễn Văn
Đắc và nnk. hoàn thành báo cáo “Kết quả
công tác thăm dò đòa chất dầu khí miền
võng Hà Nội giai đọan 1980-1985“ [16].
Năm 1981 bắt đầu khai thác thử công
nghiệp mỏ khí Tiền Hải “C” phục vụ cho
phát điện (12MW) và công nghiệp đòa
phương tỉnh Thái Bình.
Tháng 11-1975 Tổng cục Dầu khí thành
lập Công ty Dầu khí Nam Việt Nam (sau đó
1978 chuyển thành Công ty Dầu khí 2) để
tiến hành tìm kiếm thăm dò dầu khí ở miền
Nam Việt Nam.
Dựa trên kết quả thu thập các tài liệu
đã thành lập báo cáo “Cấu trúc đòa chất và
triển vọng dầu khí thềm lục đòa Việt Nam”
(Hồ Đắc Hoài, Ngô Thường San. 1975) [10]
và báo cáo “Cấu trúc đòa chất trũng Cửu
Long và rìa kế cận, triển vọng dầu mỏ và
khí thiên nhiên” (Đoàn Thiện Tích. 1977)
[6].
Đã tiến hành khảo sát trọng lực tỷ lệ
1:200.000 vùng châu thổ sông Cửu Long;
đòa chấn phản xạ khu vực Long Toàn và

vùng biển Bạc Liêu. Thuê công ty CGG
(Pháp. 1975) khảo sát 12.109 km tuyến
đòa chấn theo các sông ở đồng bằng sông
Cửu Long và vùng ven biển Vũng Tàu Côn
Đảo. Thuê công ty GECO (Na Uy. 1978)
khảo sát đòa chấn gần 12 nghìn km tuyến
trên các lô 09, 16, 19, 20, 21 với mạng
lưới tuyến 8x8 km; 4x4 km; 2x2 km và 1x1
km. Năm 1978 tiến hành khoan giếng Cửu
Long 1 (CL-1) đạt độ sâu 2.120 m và tiếp
sau là giếng Hậu Giang 1 với độ sâu 813
m, các giếng khoan này đều khô (Nguyễn
Giao,1984) [15].
Cũng trong thời gian này Petrovietnam
đã ký hợp đồng thăm dò dầu khí với các
công ty Deminex (Đức) lô 15, AGIP (Ý) lô
4 và 12, Bow Valley (Canada) lô 28 và 29.
từ 1978-1980 các công ty trên đã tiến hành
khảo sát 11087 km tuyến đòa chấn, khoan
12 giếng trong đó 2 giếng phát hiện dầu
(15A.1X, 15B.1X), 3 giếng phát hiện khí
(12B-1X, 12C-1X, 04A-1X), 2 giếng gặp
sự cố kỹ thuật, 5 giếng khô (Hình 2.11).
Hình 2.11. Khu vực hợp đồng giai đoạn 1975-1980
Trên cơ sở tổng hợp các tài liệu Ngô
Thường San chủ biên báo cáo “Cấu trúc
đòa chất và triển vọng dầu khí thềm lục đòa
phía Nam Cộng hoà Xã hội Chủ nghóa Việt
Hình 2.10. Mỏ khí Tiền Hải (ảnh tư liệu)
25

Chương 2. Hoạt động điều tra đòa chất, thăm dò và khai thác dầu khí
Nam” (1975-1980) [14].
Ngày 3-7-1980 Hiệp đònh hợp tác giữa
Liên Xô (cũ) và Việt Nam về việc thăm dò
và khai thác dầu khí ở thềm lục đòa Việt
Nam được ký kết. Ngày 19-6-1981 Chính
phủ Việt Nam và Liên Xô (cũ) ký kết
Hiệp đònh thành lập Xí nghiệp liên doanh
dầu khí Việt-Xô (viết tắt là Vietsovpetro).
Ngày 7-11-1981 Vietsovpetro chính thức đi
vào hoạt động.
Khảo sát đòa vật lý (từ, trọng lực, đòa
chấn) được tiến hành trên thềm lục đòa Việt
Nam do Liên đoàn đòa vật lý Viễn Đông
Liên Xô thực hiện với các tàu POISK,
ISKATEL, Viện sỹ Gambuaxev, Malưgin
theo các mạng lưới từ khu vực đến chi tiết.
Trên cơ sở tài liệu đòa vật lý, đã phát
hiện được nhiều cấu tạo có triển vọng dầu
khí. Xí nghiệp liên doanh Vietsovpetro bắt
đầu tiến hành khoan tìm kiếm trên các cấu
tạo Bạch Hổ, Rồng (Hình 2.12).
Hình 2.12. Tàu khoan Mikhain Mirchin phát hiện
thấy dầu trong tầng Miocen tại giếng số 5 mỏ Bạch
Hổ (tháng 5-1984) (ảnh tư liệu)
Giếng BH-5 khoan ngày 31-12-1983
bằng tàu khoan Mikhain Mirchin ở phần
đỉnh vòm Nam cấu tạo có độ sâu 3.001
m, thử vỉa 2.782-2.826 m trong trầm tích
Miocen dưới cho lưu lượng 26,3 m

3
dầu/
ngày qua đường kính ống xả 7,9 mm (tháng
5 - 1984).
Giếng BH-4 khoan ở phần Đông Bắc
của đỉnh vòm phía Bắc cấu tạo, dừng ở độ
sâu 3.501 m, thử vỉa khoảng 2.519-2.845 m
trong trầm tích Miocen dưới cho lưu lượng
206,3m
3
dầu/ngày; thử 7 vỉa trong trầm tích
Oligocen khoảng 3.100-3.470,5 m cho lưu
lượng từ 90 đến 338 m
3
dầu/ngày.
Giếng Rồng-1X được khoan ở đỉnh cấu
tạo Rồng đã gặp móng biến chất ở độ sâu
2501 m, phát hiện 1 vỉa dầu với lưu lượng
53m
3
dầu/ngày.
Ngày 6-11-1984 chân đế giàn khoan cố
đònh đầu tiên của ngành dầu khí Việt Nam
được hạ thuỷ và sau đó giàn khoan cố đònh
(MSP-1) được hoàn thành xây lắp. Ngày
26-6-1986 từ giàn khoan này khai thác tấn
dầu đầu tiên tại mỏ Bạch Hổ (Hình 2.13).
Hình 2.13. Xây lắp giàn khoan đầu tiên
(ảnh tư liệu)
Nếu năm 1981 đánh dấu bằng sự kiện

khai thác mét khối khí thiên nhiên đầu tiên
ở Việt Nam từ mỏ khí Tiền Hải “C” (Thái
Bình) trên đất liền, thì năm 1986 đánh dấu
mốc khai thác tấn dầu thô đầu tiên của
mỏ Bạch Hổ ngoài khơi Việt Nam (Hình
2.14).
Tại giếng khoan BH-6 ngày 11-5-1987
đã phát hiện tầng dầu trong đá móng có tuổi
trước Kainozoi và sau đó tại giếng khoan
26
Đòa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
N
0
-1(MSP-1) đã khẳng đònh điều này với
lưu lượng trên 1.000 tấn dầu/ngày. Ngày
6-9-1988 bắt đầu khai thác dầu từ tầng
móng mỏ Bạch Hổ mở ra một triển vọng
mới không những tăng đáng kể sản lượng
khai thác ở mỏ Bạch Hổ mà còn thay đổi
rất lớn về đối tượng tìm kiếm và khai thác
dầu khí truyền thống ở bể Cửu Long nói
Hình 2.14. Tàu chở dầu mỏ Bạch Hổ (ảnh tư liệu)
Hình 2.15. Giàn công nghệ trung tâm mỏ Bạch Hổ (ảnh tư liệu)
27
Chương 2. Hoạt động điều tra đòa chất, thăm dò và khai thác dầu khí
riêng, ở thềm lục đòa Việt Nam nói chung
(Hình 2.15).
Ngoài phát hiện mỏ Bạch Hổ và Rồng,
ngày 18-7-1988 giếng khoan ĐH-1 tại cấu
tạo Đại Hùng cũng đã phát hiện thấy dầu,

và ngày 14-10-1994 barel dầu đầu tiên đã
được khai thác tại đây.
Từ năm 1988 Chính phủ Việt Nam thực
hiện đường lối đổi mới. Luật Đầu tư nước
ngoài ở Việt Nam được ban hành (1987),
sau đó là Luật Dầu khí (1993) được bổ sung
và sửa đổi vào năm 2000 và nhất là khi
có Nghò quyết 15 (1988) của Bộ Chính trò
Đảng Cộng sản Việt Nam về phương hướng
Hình 2.16a. Số lượng hợp đồng và tổng chi phí
28
Đòa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
và nhiệm vụ phát triển ngành dầu khí thì
hoạt động dầu khí được triển khai một cách
mạnh mẽ bao gồm tất cả các lónh vực từ
thượng nguồn, trung nguồn và hạ nguồn.
Lần đầu tiên ở Việt Nam hợp đồng
tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí dưới
dạng Hợp đồng chia sản phẩm (PSC-
Production Sharing Contract) được ký kết
Hình 2.16b. Hoạt động dầu khí ở Việt Nam
29
Chương 2. Hoạt động điều tra đòa chất, thăm dò và khai thác dầu khí
giữa Petrovietnam và công ty dầu khí quốc
gia Ấn Độ ONGC vào ngày 18-5-1988 ở
lô 06 và 12E thuộc bể Nam Côn Sơn; sau
đó có sự tham gia của công ty dầu khí Anh
BP và công ty dầu khí Nauy Statoil. Ngày
15-6-1988 ký hợp đồng với công ty Shell
tại lô 112, 114 ở bể sông Hồng… Sau này

Petrovietnam càng ngày càng tham gia tích
cực trong việc triển khai các hợp đồng cho
nên ngoài các hợp đồng dạng PSC, hợp
đồng hợp tác kinh doanh (BCC – Business
cooperation contract) còn ký các hợp đồng
thành lập các công ty cùng điều hành (JOC-
Joint Operating Company).
Từ 1988 đến nay Petrovietnam đã ký
trên 50 hợp đồng PSC, BCC và JOC đã tiến
hành trên 250 nghìn km đòa chấn 2D, gần
12 nghìn km
2
đòa chấn 3D, khoan 419 giếng
tìm kiếm, thăm dò, thẩm lượng và khai thác
có tổng chiều dài trên 1,5 triệu km (Hình
2.16a, 2.16b).
Kết quả đã phát hiện hàng trăm cấu tạo
có triển vọng và hàng chục mỏ dầu khí đã
và đang chuẩn bò đưa vào khai thác.
Năm 2002 Vũ Văn Kính, Nguyễn Văn
Đắc và nnk hoàn thành báo cáo “Tổng hợp
đánh giá kết quả tìm kiếm, thăm dò dầu khí
ở Việt Nam giai đoạn 1988-2000 và phương
hướng tìm kiếm thăm dò tiếp theo “. Đây là
một công trình tổng hợp có tác dụng quan
trọng thúc đẩy sự phát triển ngành dầu khí
Việt Nam. [25].
Hình 2.18. Nhà máy khí hóa lỏng LPG Dinh Cố
(ảnh tư liệu)
Năm 1993 Petrovietnam bắt đầu triển

khai xây dựng hệ thống thu gom và vận
chuyển khí đồng hành từ mỏ Bạch Hổ vào
đất liền phục vụ cho nhà máy điện Bà Ròa-
Vũng Tàu và Phú Mỹ. Hệ thống gồm giàn
nén khí trung tâm, đường ống 16 inches
(40,64 cm) dài trên 110 km ngoài biển và
trên 50 km trên bờ (đến Phú Mỹ) có công
suất 5,5 triệu m
3
/ngày. Tháng 1 năm 1999
nhà máy khí hoá lỏng LPG Dinh Cố bắt
đầu hoạt động cung cấp mỗi ngày gồm 4
triệu m
3
khí khô, 400 tấn condensat, 530
tấn butan và 410 tấn propan đáp ứng 1/2
Hình 2.17. Giàn nén khí trung tâm mỏ Bạch Hổ
(ảnh tư liệu)
30
Đòa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
nhu cầu LPG hiện nay của cả nước (Hình
2.17, 2.18, 2.19).
Sản lượng khai thác dầu thô và khí thiên
nhiên hàng năm đều tăng (xem Hình 3.14,
3.19, Chương 3), nhất là khi công ty BP,
ONGC và Petrovietnam đưa mỏ khí Lan
Tây, Lan Đỏ vào khai thác và vận hành hệ
thống đường ống Nam Côn Sơn 26 inches
(76,02 cm) dài trên 370 km ở biển và đường
ống 30 inches (76,2cm) từ bờ biển đến Phú

Mỹ với công suất 20 triệu m
3
khí/ngày
(2002) để cùng với khí đồng hành mỏ Bạch
Hổ, Rạng Đông cung cấp khí cho các nhà
máy điện ở Bà Ròa, Phú Mỹ (3.000 MW)
và nhà máy đạm Phú Mỹ (gần 0,8 triệu tấn/
năm) (Hình 2.19, 2.20, 2.21).
Hiện nay Petrovietnam đang xúc tiến
việc xây dựng nhà máy lọc dầu ở Dung
Quất (Quảng Ngãi) với công suất 6,5 triệu
tấn/năm và lập luận chứng khả thi khu lọc
hoá dầu Nghi Sơn (Thanh Hoá), đồng thời
đang đẩy mạnh xây dựng hệ thống đường
ống dẫn khí từ các mỏ ở khu vực PM3-CAA
(chồng lấn giữa Việt Nam và Malaysia) về
Hình 2.20. Trạm phân phối khí Nam Côn Sơn (ảnh tư liệu)
Hình 2.19. Hệ thống đường ống dẫn khí Rạng
Đông-Bạch Hổ-Phú Mỹ và Lan Tây-Phú Mỹ
31
Chương 2. Hoạt động điều tra đòa chất, thăm dò và khai thác dầu khí
khu công nghiệp nhà máy đạm, nhà máy
điện sử dụng khí ở Cà Mau.
Hình 2.21. Nhà máy đạm Phú Mỹ (ảnh tư liệu)
Petrovietnam cũng đã xây dựng các căn
cứ dòch vụ dầu khí (bến cảng, bãi lắp ráp,
kho chứa sản phẩm ) các đơn vò làm dòch
vụ dầu khí trong nhiều lónh vực (thiết kế,
thi công, lắp ráp các giàn khoan, giàn khai
thác, các tàu dòch vụ và các tàu chứa nổi

FSO… kể cả các đơn vò bảo vệ an toàn và
chống ô nhiễm môi trường do hoạt động
dầu khí gây nên, Hình 2.22).
Hoạt động nghiên cứu khoa học công
nghệ, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và
đào tạo nguồn nhân lực dầu khí cũng không
ngừng được tăng cường.
Ngoài hàng trăm các báo cáo chuyên đề
phục vụ trực tiếp cho sản xuất kinh doanh
do các đơn vò và chuyên gia của Tổng công
ty Dầu khí Việt Nam, do các công ty dầu
khí nước ngoài thực hiện, Tổng cục Dầu
khí trước đây và Tổng công ty Dầu khí Việt
Nam sau này đã chủ trì hoặc tham gia phối
hợp triển khai nhiều chương trình nghiên
cứu khoa học công nghệ dầu khí cấp Nhà
nước và cấp ngành như:
1. Chương trình trọng điểm cấp Nhà nước
mã số 22, 01 (1981-1985): “Đặt cơ sở
khoa học cho phương hướng công tác
tìm kiếm và đánh giá tài nguyên dầu
khí trên lãnh thổ Việt Nam” do Lê Văn
Cự chủ nhiệm. Chương trình có 45 đề
tài.
2. Chương trình nghiên cứu khoa học kỹ
thuật trọng điểm dầu khí cấp Nhà nước,
mã số 22A (1986-1990): “Nghiên cứu
đánh giá và phân vùng tiềm năng dầu
khí, lựa chọn và ứng dụng khoa học kỹ
thuật và công tác tìm kiếm, thăm dò,

khai thác, vận chuyển và chế biến dầu
khí ở Việt Nam” do Nguyễn Hiệp chủ
nhiệm. Chương trình có 17 đề tài và 2
đề tài độc lập.
3. Chương trình nghiên cứu khoa học công
nghệ dầu khí cấp Nhà nước mã số KT-
01 (1991-1995); “Dầu khí và tài nguyên
khoáng sản” do Tổng công ty Dầu khí
phối hợp với Cục Đòa chất khoáng sản
thực hiện. Ông Phạm Quốc Tường là
chủ nhiệm chương trình…
Và một loạt các chương trình nghiên
cứu khác của Petrovietnam và các đơn vò
của Petrovietnam tham gia (Viện Dầu khí)
Hình 2.22. Căn cứ dòch vụ dầu khí của
Vietsovpetro (ảnh tư liệu)
32
Đòa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
như:
1. Hợp tác với Uỷ ban điều phối các
chương trình đòa chất ngoài khơi và
đới duyên hải khu vực Đông và Đông
Nam Á (CCOP) các chương trình Đánh
giá tài nguyên dầu khí (WGRA) 1986-
1990; Chương trình quản lý tài nguyên
(OGRM) 1991-1996; Chương trình đánh
giá tài nguyên và kế hoạch hoá (REP-
II) 1996-1999…
2. Hợp tác với Cục Đòa chất Đan Mạch và
Greenland (GEUS) nghiên cứu bể sông

Hồng, Phú Khánh; Viện Đòa chất Nhật
(JGI) nghiên cứu bể Phú Khánh.
3. Chương trình nghiên cứu khoa học công
nghệ biển mã số KT-03 (1996-2000);
Chương trình KHCN-09 (1996-2000):
“Phát triển năng lượng bền vững đến
năm 2020”; Chương trình trọng điểm
cấp Nhà nước KC.09 (2001-2005):
“Điều tra cơ bản và nghiên cứu ứng
dụng công nghệ biển”…
Hình 2.23. Phòng thí nghiệm Viện Dầu khí
(ảnh tư liệu)
Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã
đầu tư nhiều tiền của để nâng cấp các đơn
vò nghiên cứu khoa học công nghệ (Viện
nghiên cứu và thiết kế biển trực thuộc
Vietsovpetro, Viện Dầu khí, Trung tâm
nghiên cứu và phát triển chế biến dầu khí,
Trung tâm an toàn và bảo vệ môi trường,
Trung tâm thông tin tư liệu dầu khí… Hình
2.23).
Tổng công ty Dầu khí đã gửi hàng nghìn
lượt người đi học trong nước và nước ngoài,
hàng trăm sinh viên, nghiên cứu sinh sau
đại học được gửi đào tạo ở các trường đại
học nước ngoài. Hiện nay nhiều công nhân
kỹ thuật, chuyên gia Việt Nam đảm nhiệm
các chức danh trước đây phải thuê người
nước ngoài .
5. Đóng góp của hoạt động tìm kiếm,

thăm dò, khai thác dầu khí vào kinh
tế xã hội Việt Nam
Kể từ năm 1959 khi bắt đầu triển khai
hoạt động khảo sát đòa chất dầu khí cho
đến năm 1986 tấn dầu thô đầu tiên được
khai thác từ mỏ Bạch Hổ, Chính phủ Việt
Nam (có sự giúp đỡ của chính phủ Liên
Xô (cũ)) phải đầu tư mọi chi phí và chưa
có nguồn thu từ dầu khí. Nhưng từ khi sản
lượng khai thác dầu khí tăng thì nguồn thu
cho ngân sách Nhà nước (nhất là ngoại tệ)
từ việc xuất khẩu dầu thô càng ngày càng
lớn. Tuỳ theo giá cả của dầu thô trên thò
trường mà hàng năm nguồn thu từ xuất
khẩu dầu thô chiếm từ 20%-24% tổng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam, và từ 22%
đến 25% tổng thu ngân sách của Nhà nước.
Nhất là vào những năm 1987-1993 kinh tế-
xã hội Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn,
môi trường thế giới không thuận lợi (Liên
Xô tan rã, nguồn cung cấp sản phẩm dầu từ
Liên Xô bò giảm hẳn…), khai thác và xuất
khẩu dầu thô của Việt Nam đã góp phần
quan trọng đưa Việt Nam thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội vào cuối những năm
80 của thế kỷ trước.
33
Chương 2. Hoạt động điều tra đòa chất, thăm dò và khai thác dầu khí
Hiện nay, ngoài việc khai thác và
xuất khẩu dầu thô, việc khai thác và chế

biến khí thiên nhiên (đồng hành và không
đồng hành) ngày càng tăng, cũng như các
hoạt động dầu khí khác (sản xuất xăng từ
condensat, phân đạm, PVC, các loại dòch
vụ dầu khí, các sản phẩm lọc hoá dầu ) sự
đóng góp của hoạt động dầu khí vào nền
kinh tế-xã hội Việt Nam lại càng to lớn
hơn. Ngành dầu khí Việt Nam xứng đáng
là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn
của đất nước. Tổng công ty Dầu khí Việt
Nam sẽ càng ngày càng phát triển để trở
thành một Tập đoàn kinh tế mạnh của đất
nước [24].
34
Đòa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
Tài liệu tham khảo
1. Bosum W.E., Kind E.G., Ho Manh
Trung. 1971. Interpretation of the
aeromagnetic map covering the Mekong
delta (Giải thích bản đồ từ hàng không
vùng tam giác châu Mêkông). CCOP.
Tech. bull. Vol 4. june-1971; pp. 93-
102.
2. Dash B.P., Ahmed K.O., Hubral P
1970. Seismic investigation in the
region of Poulo Pajang, offshore from
southwestern Vietnam (Khảo sát đòa
chấn trong khu vực Poulo Panjang ngoài
khơi tây nam Việt Nam).CCOP. Tech.
bull. Vol. 3. May 1970 pp.37-54.

3. Durandin P., 1914. Le pétrole
dans l’Indochine francaise. Indices
minéralogique et toponymiques de
l’existence de gisement pétrolifères
(Dầu mỏ ở Đông dương. Các chỉ dẫn
về khoáng vật và đòa danh của sự tồn
tại các mỏ dầu khí). CR. Assoc. franc.
Av. Sci. 43 sess., 1914. pp. 1029-1035.
Paris.
4. Durandin P., 1914. sur l’existence
possible de gisement pétrolifères dans
l’Indochine francaise d’après les indices
toponymique (Khả năng có mỏ dầu khí
ở Đông Dương dựa theo các chỉ dẫn về
đòa danh). CR. Acad. Sci. France, 158,
pp. 900-903. Paris.
5. Đoàn Thiên Tích. 2001. Dầu khí Việt
nam. Nhà xuất bản đại học Quốc Gia.
Tp. Hồ chí Minh.
6. Đoàn Thiên Tích. 1977. Cấu trúc điạ
chất trũng Cửu Long và rìa kế cận, triển
vọng dầu mỏ và khí thiên nhiên. Lưu
trữ Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam.
7. Golovenok V.K., Lê Văn Chân. 1966.
Trầm tích và điều kiện thành tạo trầm
tích Nêogen - Đệ Tứ miền trũng Hà
Nội. Lưu trữ Viện Dầu khí Việt Nam.
8. Gouvernement général de
l’Indochine. Service des mines. La
question du pétrole au Tonkin et dans

le reste de l’Indochine. Extrait de raport
genéral sur l’industrie minière établi
pour l’inspection des colonies (Mars
1922). (Vấn đề dầu mỏ ở Bắc kỳ và
vùng còn lại của Đông Dương. trích báo
cáo tổng quát về công nghiệp mỏ thành
lập để thanh tra các thuộc đòa (tháng 3-
1922)].
9. Gouvernement général de
l’Indochine. Service de mines. 1922.
Note sur un prélèvement d’echantillons
effectué dans la region pétrolifères de
Nui – Lich (province de Yen bai) (Ghi
chép về chiết xuất từ các mẫu trong
vùng dầu mỏ núi Lòch tỉnh Yên Bái).
10. Hồ Đắc Hoài, Ngô Thường San. 1975.
Cấu trúc đòa chất và triển vọng dầu khí
thềm lục đòa Việt nam. Lưu trữ Tổng
Công ty Dầu khí Việt Nam.
11. Hồ Mạnh Trung. 1969. Esquisse
structural du Delta du Mekong.
Discussion du problèm pétrolier (Phác
thảo cấu trúc tam gíac châu Mêkông.
Bàn về vấn đề dầu khí). Archieves
Géologique du Vietnam, Saigon, No
12, pp. 195-211.
12. Kisliakov V.n., Golovenok V.K., 1970.
Cấu trúc đòa chất và triển vọng dầu khí
35
Chương 2. Hoạt động điều tra đòa chất, thăm dò và khai thác dầu khí

của miền trũng Hà Nội. Lưu trữ Viện
dầu khí Việt Nam.
13. Kitovani S.K., 1959-1961. Đòa chất và
triển vọng dầu khí ở Việt Nam Dân chủ
Cộng Hoà. Lưu trữ Viện dầu khí Việt
Nam.
14. Ngô Thường San (chủ biên), 1976-
1980. Cấu trúc đòa chất và triển vọng
dầu khí thềm lục đòa phía Nam Cộng
Hoà Xã Hội Chủ Nghóa Việt Nam. Lưu
trữ Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam.
15. Nguyễn Giao,1984. Cấu trúc đòa chất
và tiềm năng dầu khí trầm tích Đệ tam
đồng bằng Cửu Long. Lưu trữ Tổng
Công Ty Dầu Khí Việt Nam.
16. Nguyễn Văn Đắc và nnk.,1987. Kết
quả công tác thăm dò đòa chất dầu khí
miền võng Hà Nội giai đọan 1980-
1985. Lưu trữ Tổng Công Ty Dầu Khí
Việt Nam.
17. Piere Viennot. 1924. Etude du gisement
pétrolifère de Yen Bai et de ses environs
(Tonkin) (Nghiên cứu mỏ dầu ở Yên
Bái và các vùng phụ cận (Bắc Kỳ)).
Bull. Soc. Geol. Fr. 1924. pp. 592-603.
18. Pierre Viennot. 1924. Etude du
gisement pétrolifère de Yen Bai et
de ses environs (Tonkin). Extrait du
compte rendu sommaire des seances
de la societé géologique de France.

Seance du 1
er
Decembre 1924. P.179
Presidence de M. Delafond, President.
(Nghiên cứu mỏ dầu ở Yên Bái và các
vùng phụ cận (Bắc Kỳ). Trích báo cáo
tóm tắt các phiên họp của Hội đòa chất
Pháp. Phiên họp ngày 1 tháng 12 năm
1924. trang 179. Dưới sự chủ toạ của M.
Delafond; Chủ tòch).
19. Rapport sur l’activité du bureau
d’études géologique et minieres
coloniales. 1934-1935.
20. Sevostianov K.M. 1977. Cấu trúc đòa
chất, triển vọng dầu khí và phương
hướng công tác tiếp theo ở miền trũng
Hà Nội. Lưu trữ Viện Dầu khí Việt
Nam.
21. Skorduli V.D., Khuduk M.N., Nguyễn
Ngọc Cư, 1983. Tổng kết nghiên cứu
thăm dò đòa chất dầu khí 1962-1982
miền trũng Hà Nội. Lưu trữ Viện Dầu
khí Việt Nam.
22. The geology and hydrocarbon
prospects of offshore Vietnam. 1973.
Technical report prepared by Robertson
Research International Limited (UK)
in association with Bureau d’Etudes
Industrielles et de Cooperation de
l’Institut Francais du Pétrole (France).

June 1973.
23. Thư mục đòa chất Việt Nam. 1998. Cục
đòa chất và khoáng sản Việt Nam.
24. Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam.
2005. Chiến lược phát triển ngành dầu
khí Việt Nam đến năm 2015 có tính đến
2025.
25. Vũ Văn Kính, Nguyễn Văn Đắc và
nnk., 2002. Tổng hợp đánh giá kết quả
tìm kiếm thăm dò dầu khí ở Việt Nam
giai đọan 1988-2000 và phương hướng
tìm kiếm thăm dò tiếp theo. Lưu trữ
Tổng Công Ty Dầu Khí Việt Nam.

×