Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng tại Công ty Tài chính Dầu khí Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.57 KB, 69 trang )

KÝ HIỆU VIẾT TẮT
PVFC: Công ty tài chính dầu khí
NHTM: Ngân hàng thương mại
TSCĐ: Tài sản cố định
TSLĐ: Tài sản lưu động
VLĐR: Vốn lưu động ròng
NQR: Ngân quỹ ròng
CTTC: Công ty tài chính
CIC: Trung tâm thông tin ngân hàng
NHNN: Ngân hàng nhà nước
TCTD: Tổ chức tín dụng
UT: Uỷ thác
TCKT: Tổ chức kinh tế
CN: Cá nhân
PS: Báo cáo triển khai dự án
1
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 1: Bảng nguồn vốn và sử dụng vốn PVFC
Bảng 2: Tổng hợp các chỉ tiêu kinh doanh Giai đoạn 2003 - 2005
Bảng 3: Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2006
Bảng 4: Quy mô tài sản có năm 2006
Bảng 5: Quy mô nguồn vốn năm 2006
Phụ lục 1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của PVFC
Biểu đồ 2.1: Tổng giá trị thu xếp vốn PVFC đến năm 2006
Biểu đồ 2.2: Tín dụng với các đơn vị trong ngành của PVFC
Biểu đồ 2.3: Cho vay đối với các TCTD của PCFC
Biểu đồ 2.4: Cho vay các tổ chức kinh tế và cá nhân của PVFC
Biểu đồ 2.5: Thu từ lãi cho vay của PVFC
2
LỜI NÓI ĐẦU
Thế giới đang từng ngày thay đổi một cách lớn lao về kinh tế, chính trị,


văn hóa, xã hội và Việt Nam cũng không đứng ngoài xu thế chung đó. Bước
sang thế kỷ mới sự thay đổi đó lại càng thể hiện rõ nét hơn, từ khi chuyển đổi từ
nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước,
trong
lĩnh vực tài chính ngân hàng đã có nhiều sự thay đổi mới mẻ và đầy khởi
sắc. Sự phát triển lớn mạnh của các công ty Nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn
kinh tế có ý nghĩa vô cùng to lớn góp phần đưa kinh tế đất nước ngày càng vững
mạnh, trở thành "Con rồng Châu Á".
Công ty Tài chính Dầu khí là một tổ chức tài chính phi ngân hàng trực
thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, sau một thời gian hoạt động đã phát triển lớn
mạnh trên nhiều phương diện về quy mô, địa bàn lĩnh vực. Với nghiệp vụ thu
xếp vốn và tín dụng doanh nghiệp công ty đã thu được lợi nhuận từ hoạt động
này. Tuy nhiên thu xếp vốn và tín dụng doanh nghiệp cũng chứa đựng yếu tố rủi
ro khá cao. Do đó để đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tang của khách hàng song
song đảm bảo và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, công tác phân tích tín
dụng nói chung và công tác phân tích tài chính khách hàng nói riêng có vai trò
hết sức quan trọng trong việc hạn chế tối đa rủi ro tín dụng.
Quá trình học tập nghiên cứu và thực tập tại công ty Tài chính Dầu khí,
được sự hướng dẫn tận tình của TS Trần Đăng Khâm cũng như sự giúp đỡ
của các anh chị tại công ty, em đã lựa chọn đề tài "Nâng cao chất lượng phân
tích tài chính khách hàng tại Công ty Tài chính Dầu khí Việt Nam" làm đề
tài luận văn tốt nghiệp với mong muốn tìm hiểu kỹ hơn hoạt động phân tích
tài chính khách hàng tại công ty và trau dồi thêm kiến thức cho bản thân.
Kết cấu của chuyên đề
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động phân tích tài chính
khách hàng tại Công ty Tài chính.
3
Chương 2: Thực trạng công tác phân tích tài chính khách hàng tại Công ty
Tài chính Dầu khí Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính

khách hàng tại Công ty Tài chính Dầu khí Việt Nam.
Em Xin chân thành cảm on thầy giáo và các anh chị tại PVFC đã giúp đỡ
em hoàn thành đề tài này.
4
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG PHÂN
TÍCH TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.1. CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm công ty tài chính
Từ thế kỷ XV đã có những ngân hàng đầu tiên được thành lập. Có thể thấy
rất rõ lợi ích mà hệ thống các ngân hàng mang lại. Tuy nhiên ngân hàng không
phải chiếm vị trí duy nhất trong hệ thống các tổ chức tài chính trung gian mà
còn có rất nhiều các loại hình tổ chức khác: Các công ty tài chính, các công ty
bảo hiểm, công ty cho thuê tài chính, công ty chứng khoán… Các hoạt động
dịch vụ tài chính của các công ty tài chính mới chỉ xuất hiện từ những năm 60
của thế kỷ XX.
Có nhiều lý do cho sự xuất hiện của các công ty tài chính:
- Sự hạn chế của luật ngân hàng, nhiều dịch vụ tài chính, dịch vụ ngân
hàng không được phép mở rộng sang các địa hạt khác. Cần có những tổ chức
thích hợp đáp ứng nhu cầu đó.
- Hệ thống ngân hàng lúc đó không thể đáp ứng cho nhu cầu to lớn và đa
dạng vốn đầu tư.
Công ty tài chính làm một số nghiệp vụ như ngân hàng, nhưng không phải
là ngân hàng thương mại, nên hầu hết các nước đều xếp các công ty tài chính
vào loại hình các tổ c hức tín dụng phi ngân hàng.
1.1.1.1. Khái niệm về công ty tài chính
Theo Điều 2 - Nghị định của chính phủ về tổ chức và hoạt động của công
ty tài chính. Công ty tài chính được hiểu là: "LOại hình tổ chức tín dụng phi
ngân hàng được thực hiện một số hoạt động ngân hàng với chức năng chủ yếu là
sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư, cung
ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính - tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác liên

quan đến hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật. Công ty tài chính
không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới 1 năm".
5
Ở mỗi nước, tuỳ thuộc vào môi trường kinh tế, bối cảnh và điều kiện mà
công ty tài chính thực hiện những chức năng khác nhau. Có thể chỉ ra đây một
vài loại hình về công ty tài chính:
- Loại thứ nhất: Các tổ chức tài chính chuyên môn do nhà nước thành lập
hoặc nhà nước cho phép thành lập. Loại hình này thường là các tổ chức công,
bán công hoặc cổ phần hoạt động trong lĩnh vực chuyên trách, tài trợ trung hạn
và dài hạn, với nguồn vốn từ ngân sách hoặc quỹ kinh doanh của nhà nước cấp,
hoặc từ phát hành các công cụ nợ: trái phiếu, tín phiếu, chứng chỉ….
- Loại thứ hai: Các công ty tài chính do các ngân hàng hoặc tập đoàn ngân
hàng lập ra, để thực hiện một số nghiệp vụ chuyên biệt của ngân hàng, như
chuyên về cấp bảo lãnh, đầu tư bất động sản, hoặc thuê mua thiết bị…
- Loại thứ ba: Các công ty tài chính do công ty sản xuất, thương mại lập để
tài trợ cho người mua hàng hóa của công ty mẹ (công ty tài chính bán hàng).
1.1.1.2. Đặc điểm của Công ty tài chính
Thông qua việc tìm hiểu về các công ty tài chính ở một số nước: Pháp,
Malaixia, Hoa Kỳ, Singapore, Thái Lan…. có thể rút ra một số đặc điểm sau:
Thứ nhất: Công ty tài chính là một loại hình tổ chức tín dụng phi ngân
hàng, tuy hình thành sau hệ thống các ngân hàng nhưng đã phát triển khá nhanh,
rất đa dạng về loại hình và đa dạng về dịch vụ tài chính.
Thứ hai: Công ty tài chính là một tổ chức tài chính trung gian vì thế cũng
đóng vai trò là cầu nối luân chuyển vốn giữa người tiết kiệm và nhà đầu tư
(nghĩa là vai trò của một nhà cung cấp tín dụng).
Sự khác nhau giữa Công ty tài chính với các tổ chức tín dụng khác là ở
chỗ: Các ngân hàng thương mại (NHTM) được phép tiền gửi không hạn chế về
loại tiền, thời hạn. NHTM được mở tài khoản cho khách hàng đây là cơ sở để
ngân hàng tiến hành nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ ngoại hối các nghiệp vụ
khác. Công ty tài chính lại không được phép thực hiện các nghiệp vụ trên. Luật

pháp chỉ cho phép các công ty tài chính được huy động vốn trung và dài hạn,
không được phép huy động vốn ngắn hạn dưới 1 năm… Đó chính là hạn chế lớn
6
nhất ngăn cản sự lớn mạnh của các công ty tài chính.
Bên cạnh đó hành lang pháp lý cũng tạo điều kiện mở cho các công ty tài
chính phát triển các dịch vụ không bị hạn chế trong quy định về mở chi nhánh,
quy định cách thức huy động vốn… nhằm đáp ứng các nhu cầu dịch vụ tài chính
cho công chúng, mà các NHTM không đáp ứng được, hoặc cạnh tranh với các
ngân hàng thương mại ở các lĩnh vực cần chuyên sâu: đầu tư, thuê mua, trả góp,
bán hàng hóa…
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của công ty tài chính
Một là: công ty tài chính được huy động vốn từ các nguồn:
- Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy
định của Ngân hàng Nhà nước;
- Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có
giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy
định của pháp luật hiện hành;
- Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong, ngoài nước và các tổ chức tài
chính quốc tế;
- Tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và
ngoài nước.
Hai là: Công ty tài chính được cho vay dưới các hình thức:
- Cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn theo quy định của Ngân hàng
Nhà nước.
- Cho vay theo uỷ thác của Chính phủ, của tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước theo quy quy định hiện hành của Luật Tổ chức tín dụng và hợp đồng uỷ
thác.
- Cho vay tiêu dùng bằng hình thức cho vay mua trả góp.
Ba là: Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có
giá khác.

- Công ty tài chính được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu, cầm cố
thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác đối với các tổ chức và cá
7
nhân.
- Công ty tài chính được tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu, trái phiếu và
các giấy tờ có giá khác với các tổ chức tín dụng khác.
Bốn là: Bảo lãnh, công ty tài chính được bảo lãnh bằng uy tín và khả năng
tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Việc bảo lãnh của công ty tài
chính phải được thực hiện theo quy định tại Điều 58, Điều 59, Điều 60 Luật các
Tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
Năm là: Công ty tài chính được cấp tín dụng dưới các hình thức khác theo
quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Sáu là: Công ty tài chính được thực hiện các hoạt động khác sau đây:
- Góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng
khác;
- Đầu tư cho các dự án theo hợp đồng;
- Tham gia thị trường tiền tệ;
- Thực hiện các dịch vụ kiều hối, kinh doanh vàng;
- Làm đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá cho
các doanh nghiệp;
- Được quyền nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm và đầu tư, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của
các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng;
- Cung ứng các dịch vụ tư vấn về ngân hàng, tài chính, tiền tệ, đầu tư cho
khách hàng;
- Cung ứng dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két,
cầm đồ và các dịch vụ khác.
Bảy là: Công ty tài chính được thực hiện các nghiệp vụ dưới đây sau khi
được Ngân hàng Nhà nước hoặc các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan cho
phép:

- Hoạt động ngoại hối;
- Hoạt động bao thanh toán;
8
- Các hoạt động khác.
1.1.3. Vai trò hoạt động phân tích tài chính khách hàng của Công ty
Tài chính
Phân tích tài chính là một nguồn tài liệu quan trọng để các doanh nghiệp
đưa ra các quyết định trong từng thời kỳ hoạt động của bản thân công ty. Do đó
mức độ chính xác của các thông tin từ công tác phân tích tài chính đưa ra có ý
nghĩa quyết định đối với hiệu quả hoạt động của công ty. Phân tích tài chính
không chỉ quan trọng đối với bản thân doanh nghiệp mà còn cho các nhà đầu tư,
các chủ nợ có cái nhìn tổng quan về tình hình tài chính của doanh nghiệp họ
đang quan tâm. Từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn nhất nhằm đạt mục tiêu
hiệu quả trong kinh doanh.
Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm phương pháp và công cụ
cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác trong
quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực
của doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ, chất lượng và hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính,
quyết định quản lý phù hợp.
Trong quá trình kinh doanh trên thị trường như hiện nay, các doanh nghiệp
đều có quyền bình đẳng như nhau, có quyền lựa chọn ngành nghề mà mình kinh
doanh và trong sự lựa chọn tự do đó bản thân mỗi doanh nghiệp sẽ phải tiếp xúc
với nhiều đối tượng khác nhau: nhà đầu tư, người cho vay, nhà quản lý, người
lao động, ngân hàng… Mỗi đối tượng sẽ quan tâm đến tình hình tài chính của
doanh nghiệp ở những giác độ khác nhau. Đối với công ty tài chính hoạt động
phân tích tài chính đóng vai trò quyết định về sự tồn tại và hiệu quả trong công
việc của công ty. Công ty tài chính:
Với tư cách là một nhà đầu tư:
Mối quan tâm mà họ hướng đến chính là sự rủi ro, mức sinh lãi, thời gian

hoàn vốn… Vì ở giác độ này họ là người bỏ vốn đầu tư cho doanh nghiệp, cái
mà họ mong muốn sẽ là lợi nhuận mà họ thu được là bao nhiêu? Hay tỷ suất
9
sinh lời trên một suất đầu tư là bao nhiêu? Vì vậy nhà đầu tư sẽ chú ý đến thông
tin về tình hình tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và các tiềm
năng tăng trưởng của doanh nghiệp. Để từ đó đưa ra các quyết định đầu tư đúng
đắn, hạn chế hay giảm thiểu những rủi ro.
Với tư cách là nhà cung cấp tín dụng:
Công ty sẽ quan tâm đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Phân tích tài
chính là một khâu quan trọng trong quá trình thẩm định cho vay của công ty.
Cách phân tích này sẽ giúp công ty nhìn nhận một cách logic tình hình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và xu hướng vận động của
doanh nghiệp trong tương lai. Phân tích tài chính giúp công ty trả lời những câu
hỏi: doanh nghiệp có khả năng trả nợ hay không? Khả năng tự chủ về tài chính
và sử dụng nợ vay ở mức độ nào?... Và nếu doanh nghiệp gặp khó khăn thì công
ty có thể tư vấn cho doanh nghiệp về quyết định tài chính, tháo gỡ những khó
khăn vướng mắc trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Như thế bớt được
nỗi lo đối với bản thân công ty tài chính vì có thể theo dõi được khoản tiền cho
doanh nghiệp vay. Công ty tài chính có thể đánh giá rủi ro của doanh nghiệp đặc
biệt là rủi ro về khả năng thanh toán ở hiện tại và tương lai, có thể cho doanh
nghiệp vay được hay không, mức độ rủi ro mà doanh nghiệp gánh chịu khi chấp
nhận cung cấp tín dụng. Không những thế trong quá trình sử dụng khoản vay
doanh nghiệp vẫn phải cung cấp những báo cáo về tài chính cho công ty và như
vậy công ty có thể có thể có những can thiệp kịp thời khi doanh nghiệp có
những dấu hiệu xấu.
Ngoài ra phân tích tài chính giúp công ty tài chính xây dựng kế hoạch cho
vay trên cơ sở đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính
mỗi doanh nghiệp. Xây dựng tín dụng phù hợp sẽ giúp cho công ty tài chính
nâng cao hiệu quả cho vay, thu được lợi nhuận cao.
1.2. HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG CỦA

CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.2.1. Quy trình phân tích tài chính khách hàng của công ty tài chính.
10
1.2.1.1. Thu thập thông tin
Trong phân tích tài chính các cán bộ thẩm định phải thu thập sử dụng mọi
nguồn thông tin phản ánh thực trạng hoạt động tài chính của khách hàng những
nguồn thông tin đó sẽ giúp cho người phân tích đưa ra những kết luận, nhận xét
chính xác. Công ty tài chính có thể thu thập thông tin từ các nguồn sau:
- Hồ sơ khách hàng: Thông tin về tình hình tài chính của khách hàng được
cung cấp thông tin qua báo cáo tài chính: bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu
chuyển tiền tệ, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, thuyết minh báo cáo tài
chính, kế hoạch về tài chính trong tương lai của doanh nghiệp.
- Phỏng vấn trực tiếp khách hàng: Các thông tin này góp phần bổ xung
thêm, xác minh lại tính chính xác, trung thực của các thông tin thu được từ
nguồn khác.
- Từ các ngân hàng hay các tổ chức tín dụng có quan hệ tín dụng, thanh
toán với khách hàng. Xem xét mức độ tín nhiệm của ngân hàng đối với khách
hàng xem tổng dư nợ của khách hàng tại các tổ chức này, có bị nợ quá hạn hay
không? Và doanh nghiệp dã có cách giải quyết như thế nào đối với những khoản
nợ quá hạn này.
- Thông tin lưu trữ trong công ty tài chính: là những thông tin của doanh
nghiệp đã có quan hệ kinh tế đối với công ty.
- Thông tin từ các chủ nợ, các con nợ có mối quan hệ kinh tế đối với khách
hàng đánh giá mối quan hệ về thanh toán giữa khách hàng với các chủ nợ.
- Người phân tích tài chính có thể đến trực tiếp công ty cần phân tích để
xem xét tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, kiểm tra tính trung
thực, chính xác của những thông tin được đưa ra trong các bản báo cáo tài
chính…
- Các nguồn thông tin khác: Trung tâm thông tin tín dụng của ngân hàng
nhà nước CIC, thông tin từ các đối thủ cạnh tranh, từ các cơ quan thuế, kiểm

toán, hải quan, cơ quan quản lý thị trường… Các thông tin từ các phương tiện
thông tin đại chúng, các cơ quan báo chí…
11
Như vậy đối với việc thu thập thông tin sẽ có rất nhiều nguồn khác nhau để
nhà phân tích có đủ dữ liệu trong hoạt động của minh. Tuy nhiên các thông tin
này là nhiều chiều và có những cách hiểu khác nhau về cùng một thông tin do
đó đòi hỏi nhà phân tích cần phải biết sàng lọc kỹ lưỡng các nguồn dữ liệu để
đưa ra kết luận chính xác về doanh nghiệp.
Cán bộ thẩm định phải đưa ra kết quả một cách chĩnh xác. Thông qua các
dữ liệu mà mình thu thập được nhờ vào việc:
- Áp dụng chế độ kế toán, nguyên tắc hạch toán
- Nguồn số liệu có được cơ quan thuế chấp thuận hay chưa? Đã được kiểm
toán độc lập? Nguồn dữ liệu do công ty tự lập?...
- Thông qua trung tâm thông tin tín dụng
- Phải xem xét số liệu có khớp với các báo cáo tài chính hay không?
1.2.1.2. Quy trình phân tích
Hoạt động phân tích tài chính diễn ra không mang tính chất thời điểm mà
mang ý nghĩa lâu dài và vì thế việc phân tích phải được tiến hành trước và sau
khi có quan hệ kinh tế đối với công ty.
Phân tích trước khi cho vay: Dựa vào nguồn dữ liệu đã qua xử lý, công ty
tài chính sẽ tiến hành phân tích tài chính khách hàng, đánh giá thực trạng sản
xuất kinh doanh và năng lực của doanh nghiệp trong tương lai đồng thời dự báo
nhu cầu tài trợ vốn, khả năng trả nợ của doanh nghiệp, từ đó có những quyết
định tài trợ hay không tài trợ đối với doanh nghiệp ở mức độ bao nhiêu? Và
trong bao lâu?
Phân tích sau khi giải ngân: Sau khi giải ngân, công ty sẽ tiếp tục theo dõi
xem doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích hay không, kiểm soát các khoản
tín dụng bằng cách theo dõi các báo cáo tài chính định kỳ, kiểm tra các tài sản
thế chấp, phân tích lại các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời, khả năng thanh
toán, nguồn trả nợ, xem xét thực trạng về sản xuất kinh doanh để từ đó theo dõi

các khoản tín dụng hay sự suy giảm chất lượng tín dụng, dự báo nhu cầu tài
chính của doanh nghiệp trong các kỳ tiếp theo. Xếp hạng các khoản vay xem là
12
tốt, bình thường, hay là có vấn đề đưa ra quyết định có nên cung cấp tiếp vốn
hay không cho doanh nghiệp. Nếu có nợ quá hạn hay nợ có vấn đề cần tìm hiểu
rõ nguyên nhân và có biện pháp xử lý kịp thời.
1.2.1.3. Chấm điểm và xếp loại doanh nghiệp
Công ty tài chính cũng giống như các NHTM, cùng với hoạt động phân
tích thì chấm điểm khách hàng cũng rất quan trọng. Công việc này sẽ hỗ trợ đắc
lực khi công ty tài chính đưa ra quyết định kinh tế. Bởi đây là những chỉ tiêu
được chuẩn hóa cho phù hợp với bản thân công ty tài chính cũng như môi
trường tài chính tại Việt Nam.
1.2.2. Nội dung phân tích tài chính khách hàng
Hoạt động phân tích tín dụng khi tiến hành cần chia làm hai lĩnh vực: phân
tích tài chính và phân tích phi tài chính đối với khách hàng. Với phân tích tài
chính là phân tích những vấn đề ít hoặc không liên quan đến vấn đề tài chính
của khách hàng một cách trực tiếp: uy tín của doanh nghiệp, tính cách của doanh
nghiệp. Phân tích tài chính là phân tích thực trạng tài chính và dự báo tài chính
doanh nghiệp trong tương lai nhằm tiên lượng những tình huống xấu có thể xảy
ra làm ảnh hưởng khoản vay.
Khi phân tích tài chính khách hàng các công ty tài chính quan tâm lớn nhất
đến khả năng trả nợ của khách hàng và vì thế công ty thường chú ý đến các
khoản tiền, các tài sản có thể chuyển đổi nhanh thành tiền rồi đem so sánh với
khoản nợ ngắn hạn để biết khả năng chi trả của doanh nghiệp và khả năng sinh
lời từ hoạt động kinh doanh đảm bảo hoàn trả cả gốc lẫn lãi của khoản vay, đồng
thời chú ý đến cơ cấu tài chính an toàn trong doanh nghiệp để phòng ngừa rủi ro.
Nội dung phân tích tài chính đối với doanh nghiệp bao gồm:
- Cân bằng tài chính
- Phân tích các hệ số tài chính
+ Phân tích tình hình và khả năng thanh toán ngắn hạn

+ Phân tích năng lực hoạt động của tài sản
+ Phân tích khả năng sinh lời.
13
+ Phân tích khả năng cân đối vốn
- Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn
- Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian…
Tài liệu phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp gồm: báo cáo kết quả
kinh doanh, bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo
cáo tài chính.
Báo cáo kết quả kinh doanh: phản ánh toàn bộ kết quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định, dựa vào báo cáo tài chính
có thể thấy rõ kết quả hoạt động của từng loại hoạt động trong doanh nghiệp:
hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư tài chính, các hoạt động bất thường,
hoạt động thực hiện nghĩa vụ với nhà nước…
Bảng cân đối kế toán: cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp tại
những thời điểm nhất định, dựa vào bảng cân đối kế toán có thể thấy được quy
mô, cơ cấu vốn của doanh nghiệp, mức độ tự chủ và khả năng tài chính, cũng
như khả năng thanh toán của doanh nghiệp đó…
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp các thông tin về luồng tiền ra - luồng
tiền vào, tình hình tài trợ, đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp trong từng thời kỳ,
dựa vào báo cáo lưu chuyển tiền tệ Công ty Tài chính có thể xác định được khi
nào lượng tiền mặt thặng dư, khi nào bội chi, biết được các khoản dễ chuyển đổi
thành tiền, khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
1.2.2.1. Phân tích cân bằng tài chính
Cân bằng tài chính là sự cân bằng giữa tài sản với nguồn tài trợ tương ứng
của nó. Mỗi quan hệ trong trường hợp này thể hiện qua các phương thức, chính
sách tài trợ tài sản cố định (TSCĐ) và tài sản lưu động (TSLĐ).
Chỉ tiêu phân tích: vốn lưu động ròng (VLĐR), nhu cầu VLĐR và ngân
quỹ ròng (NQR).
VLĐR được xác định là phần chênh lệch giữa TSLĐ và đầu tư ngắn hạn

với nợ ngắn hạn, hoặc VLĐR được tính là phần chênh lệch giữa nguồn vốn dài
hạn với TSCĐ và đầu tư dài hạn.
14
Còn nhu cầu VLĐR bằng (=) hàng tồn kho cộng (+) nợ phải thu của khách
hàng trừ (-) nợ phải trả ngắn hạn (không kể vay ngắn hạn).
NQR là phần chênh lệch giữa VLĐR và nhu cầu VLĐR.
- Nếu VLĐR âm liên tục qua các năm thì doanh nghiệp sẽ mất cân bằng tài
chính, tình hình và khả năng thanh toán sẽ gặp khó khăn; tuy nhiên, để có đánh
giá đầy đủ hơn cần thông qua chỉ tiêu NQR.
+ Nếu NQR âm, có nghĩa là doanh nghiệp phải huy động các khoản vay
ngắn hạn để bù đắp sự thiếu hụt về nhu cầu VLĐR và tài trợ cho TSCĐ; cân
bằng tài chính kém an toàn và bất lợi cho doanh nghiệp.
+ Nếu NQR dương thể hiện một cân bằng tài chính rất an toàn vì doanh
nghiệp không phải vay để bù đắp sự thiếu hụt về nhu cầu VLĐR và tài trợ cho
TSCĐ; cân bằng tài chính kém an toàn và bất lợi cho doanh nghiệp.
+ Nếu NQR dương thể hiện một cân bằng tài chính rất an toàn vì doanh
nghiệp không phải vay để bù đắp sự thiếu hụt về nhu cầu VLĐR.
1.2.2.2. Các nhóm chỉ tiêu sử dụng khi phân tích tài chính
a. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán
Doanh nghiệp được nhìn nhận làm ăn có hiệu quả không chỉ thể hiện thông
qua mức lợi nhuận cao mà còn thể hiện ở khả năng thanh toán. Nhìn vào một
doanh nghiệp làm ăn có lãi nhưng việc có lãi đó chủ yếu là mua bán chịu và đi
vay nợ thì đó không thể coi là một doanh nghiệp có tình hình tài chính vững
mạnh. Đối với những nhà đầu tư và những nhà tài trợ, những chỉ tiêu phản ánh
khả năng thanh toán được coi là vô cùng quan trọng, nó quyết định đến khả năng
được tài trợ và được các nhà đầu tư chú ý đến. Nhóm chỉ tiêu này bao gồm các
chỉ tiêu chủ yếu sau:
Khả năng thanh toán hiện hành=
Tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn
hạn của doanh nghiệp nó cho biết khả năng mà các tài sản lưu động có thể

chuyển hóa thành tiền để trang trải cho các khoản nợ ngắn hạn. Tuy nhiên nếu
15
hệ số này cao quá cũng không tốt vì khi đó doanh nghiệp đã tập trung quá nhiều
vốn vào tài sản lưu động mà không đầu tư vào hoạt động sinh lời tức là đầu tư
không hiệu quả.
Để đo lường khả năng thanh toán, chúng ta tính chỉ tiêu:
Hệ số thanh toán nhanh =
Hệ số là thước đo khả năng thanh toán của nhanh của doanh nghiệp không
phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ (hàng tồn kho). Vì vốn bằng tiền + Các
khoản phải thu = Tài sản lưu động - Hàng tồn kho và hàng tồn kho khó chuyển
đổi thành tiền hơn các tài sản lưu động khác, khi bán dễ bị lỗ nhất. Tỷ số này
quá cao cũng không tốt.
Hệ số thanh toán tức thời =
Hệ số này cho biết khả năng huy động các nguồn tiền có thể huy động
nhanh và các chứng khoán có thể dễ dàng chuyển đổi được thành tiền để trả nợ,
tỷ lệ này < 0,5 là tốt, thể hiện lượng tiền quá nhiều gây hiện tượng sử dụng vốn
không hiệu quả.
Khi phân tích khả năng thanh toán đối với doanh nghiệp, ngoài những chỉ
tiêu tính được, cần chú ý đến khả năng tạo tiền, sự tăng trưởng và những nguyên
nhân ảnh hưởng đến sự gia tăng các khoản phải thu và hàng tồn kho. Vì đây là
những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
b. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng cân đối vốn
Nhóm chỉ tiêu này dùng để đo lường phần vốn góp các chủ sở hữu của
doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với các doanh nghiệp, phản
ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của
doanh nghiệp. Nếu hệ số nợ càng thấp (hay tỷ suất tự tài trợ càng cao) thì sự phụ
thuộc của doanh nghiệp vào người cho vay càng ít, món nợ của người cho vay
càng được đảm bảo và do vậy việc cho vay càng an toàn và ngược lại sẽ kém an
toàn.
Hệ số nợ trên tổng tài sản =

Tỷ số này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với
16
các chủ nợ. Thông thường, các chủ nợ thích tỷ số này vừa phải vì tỷ số này càng
thấp thì khoản nợ càng cao được bảo đảm trong trường hợp doanh nghiệp bị phá
sản. Trong khi đó, chủ sở hữu doanh nghiệp lại muốn tỷ số này cao vì họ muốn
nắm quyền điều hành và kiểm soát, muốn lợi nhuận gia tăng nhanh. Tỷ số này
quá cao doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
=
Hệ số này cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo cho khả năng trả lãi hàng
năm như thế nào. Đây cũng là chỉ tiêu mà doanh nghiệp quan tâm phân tích vì
nó thể hiện khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Hệ số này càng cao thì rủi ro
mất khả năng chi trả lãi tiền vay càng thấp và ngược lại. Các chủ nợ thường
chấp nhận mức lớn hơn hoặc bằng 2.
c. Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động
Các chỉ tiêu về khả năng hoạt động đánh giá hiệu quả việc sử dụng vốn nói
chung, chú trọng đến từng bộ phận cấu thành nên nguồn vốn của doanh nghiệp.
Vòng quay hàng tồn =
Chỉ tiêu này đo lường khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Bình
quân một đơn vị sản phẩm hàng hóa dự trữ tham gia vào quá trình kinh doanh
thì thu được bao nhiêu đồng giá vốn. Hệ số này càng cao thể hiện việc thu tiền
bán hàng nhanh, doanh nghiệp ít bị chiếm dụng vốn, hoạt động kinh doanh càng
tốt và ngược lại. Khi phân tích đánh giá cần so sánh với các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh cùng ngành nghề để so sánh. Nếu vòng quay hàng tồn kho của
khách hàng thấp, cán bộ thẩm định cần tìm hiểu kỹ xem có hàng tồn kho mất
phẩm chất, kém chất lượng hay mẫu mã không phù hợp với thị hiếu của người
tiêu dùng hay không.
Vòng quay vốn lưu động =
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ kinh doanh vốn lưu động quay được bao
nhiêu vòng. Số vòng quay càng lớn, hiệu quả sử dụng vốn lưu động cao và
ngược lại.

Hiệu suất sử dụng tài sản cố định =
17
Hiệu suất tài sản cố định nói lên cứ một đồng tài sản đưa vào hoạt động sản
xuất kinh doanh trong một kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng thu nhập. Nếu so với kỳ
trước hệ số này giảm chứng tỏ sức sản xuất của tổng tài sản giảm.
Kỳ thu tiền bình quân =
Kỳ thu tiền bình quân được sử dụng để đánh giá khả năng thu tiền trong
thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu bình quân một ngày. Nếu
kỳ thu tiền bình quân cao, chứng tỏ doanh nghiệp bị ứ đọng vốn ở các khoản
phải thu hoặc doanh thu bình quân một ngày nhỏ là do hàng hóa không tiêu thụ
được, nếu tỷ số này thấp chứng tỏ khả năng thu hồi vốn của doanh nghiệp
nhanh.
d. Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời
Phân tích khả năng sinh lời là một trong những nội dung phân tích mà các
nhà quản trị tài chính, các nhà cho vay, đầu tư quan tâm vì nó gắn liền với lợi
ích của họ.
Hệ số sinh lợi doanh =
Đây là chỉ tiêu phản ánh trong một đồng doanh thu thì có bao nhiêu đồng
lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này có thể thay đổi do chi phí hoặc giá bán sản
phẩm thay đổi. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu phụ thuộc vào tỷ lệ thuế thu
nhập doanh nghiệp và doanh thu thuần, nếu doanh thu thuần lớn do giá bán tăng
cao chứng tỏ khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ là cao, phù hợp với thị
hiếu, doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
Hệ số sinh lời của tài sản =
Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lời của
một đồng vốn đầu tư. Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản phản ánh 1 đồng giá trị
tài sản doanh nghiệp huy động vào sản xuất kinh doanh tạo ra mấy đồng lợi
nhuận trước thuế.
Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu =
Đây là chỉ tiêu đo lường mức độ sinh lời của vốn chủ sở hữu, phản ánh 1 đồng

18
vốn chủ sở hữu bỏ vào kinh doanh mang lại bao nhiêu đồng lời nhuận sau thuế.
Tỷ lệ càng lớn biểu hiện xu hướng tích cực, doanh nghiệp có thể đi tìm vốn
mới trên thị trường để tài trợ cho tăng trưởng của mình. Ngược lại nếu nhỏ và
dưới mức của tỷ lệ thị trường thì doanh nghiệp sẽ khó khăn trong việc thu hút
vốn. Tuy nhiên, tỷ lệ sinh lời vốn chủ sở hữu cao không phải lúc nào cũng thuận
lợi bở lẽ có thể do vốn chủ sở hữu nhỏ, điều này thể hiện mức độ mạo hiểm càng
lớn.
1.2.2.3. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn
Người ta thường xem xét sự thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử
dụng vốn của một doanh nghiệp trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thời
điểm lập bảng cân đối kế toán.
Một trong những công cụ mà các nhà tài chính sử dụng đó là bảng kê
nguồn vốn và sử dụng vốn. Nó giúp nhà quản lý xác định rõ các nguồn cung ứng
vốn và việc sử dụng các nguồn cung ứng đó.
Để lập được bảng này trước hết phải liệt kê sự thay đổi các khoản mục trên
bảng cân đối kế toán từ đầu kỳ đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân biệt ở 2
cột: sử dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên tắc:
- Nếu các khoản mục bên tài sản tăng hoặc các khoản mục bên nguồn vốn
giảm thì điều đó thể hiện việc sử dụng vốn.
- Nếu các khoản mục bên tài sản giảm hoặc các khoản mục bên nguồn vốn
tăng thì điều đó thể hiện việc tạo nguồn.
Bảng 1: Bảng nguồn vốn và sử dụng vốn
Sử dụng vốn Nguồn vốn
Chỉ tiêu Số tiền % Chỉ tiêu Số tiền %
Tăng tài sản
Giảm nguồn vốn
Giảm tài sản
Tăng nguồn vốn
Tổng vốn 100 Tổng nguồn vốn

1.2.2.4. Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian
Trong phân tích tài chính, các nhà phân tích thường kết hợp chặt chẽ những
19
đánh giá về trạng thái tĩnh với những đánh giá về trạng thái động để đưa ra một
bức tranh toàn cảnh về doanh nghiệp. Thông qua các báo cáo tài chính các nhà
phân tích đánh giá những thay đổi về ngân quỹ của doanh nghiệp. Khi phân tích
trạng thái động, trong một số trường hợp người ta còn chú trọng tới các chỉ tiêu
quản lý tài chính trung gian nhằm đánh giá chi tiết hơn về tình hình tài chính và
dự báo những điểm mạnh điểm yếu của doanh nghiệp: Lãi gộp, thu nhập trước
khấu hao và lãi,…
1.2.3. Phương pháp phân tích
1.2.3.1. Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích tài chính, khi
thực hiện phép so sánh thì hai số liệu đưa ra cần đảm bảo các điều kiện:
- Cùng nội dung kinh tế.
- Thống nhất về phương pháp tính
- Cùng đơn vị đo lường và được thu thập trong cùng một độ dài thời gian.
- Các chỉ tiêu phải được quy đổi về cùng một quy mô và điều kiện kinh
doanh tương tự nhau.
Có thể so sánh số tuyệt đối, so sánh số tương dối, hoặc so sánh bằng số
bình quân. Nội dung so sánh gồm:
- So sánh giữa số thực hiện kỳ này và số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu
hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp.
- So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của
doanh nghiệp.
- So sánh giữa số liệu của Doanh nghiệp với số liệu của ngành, của các
doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp mình đang
phân tích tốt hay xấu, được hay chưa được.
- So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so sánh với
tổng thể, so sánh chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số

lượng tuyệt đối và số tương đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán
liên tiếp.
20
Sử dụng phương pháp so sánh nhăm mục đích:
- Đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch mà doanh nghiệp đã đặt
ra bằng cách so sánh giữa trị số của chỉ tiêu kỳ thực tế với trị số của chỉ tiêu kỳ
kế hoạch.
- Đánh giá tốc độ, xu hướng phát triển của hiện tượng và kết quả kinh tế
thông qua việc so sánh giữa kết quả kỳ này với kết quả kỳ trước.
- Đánh giá mức độ tiên tiến hay lạc hậu của đơn vị bằng cách so sánh giữa
kết quả của bộ phận hay của đơn vị thành viên với kết quả trung bình của tổng
thể hoặc so sánh giữa kết quả của đơn vị này với kết quả của đơn vị khác có
cùng quy mô hoạt động, trong cùng một lĩnh vực hoạt động.
1.2.3.2. Phương pháp tỷ lệ
Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài
chính trong các quan hệ tài chính. Sự biến đổi các tỷ lệ cố nhiên là sự biến đổi
các đại lượng tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác định
được các ngưỡng, các định mức, để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh
nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ doanh nghiệp với giá trị các tỷ lệ tham chiếu.
Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành
các nhóm đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt
động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ
lệ về cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động kinh doanh,
nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời.
Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng bộ phận của
hoạt động tài chính trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo giác độ phân tích,
người phân tích lựa chọn các nhóm chỉ tiêu khác nhau để phục vụ mục tiêu phân
tích tài chính của mình.
1.2.4. Chất lượng phân tích tài chính khách hàng của công ty tài chính
1.2.4.1. Khái niệm về chất lượng phân tích tài chính

Hoạt động phân tích tài chính được coi là có chất lượng khi tạo ra sự đánh
giá chính xác, trung thực, khách quan về hoạt động tài chính của doanh nghiệp
21
được phân tích, từ đó hỗ trợ tốt nhất cho việc ra quyết định tài chính của công ty
tài chính. Chất lượng của quyết định tài chính phản ánh chất lượng phân tích tài
chính. Như vậy có thể hiểu chất lượng phân tích tài chính là toàn bộ các đặc tính
của hoạt động phân tích đáp ứng với yêu cầu và mục đích của công ty tài chính
cũng như các ngân hàng. Thông tin và phương pháp xử lý thông tin phục vụ cho
hoạt động phân tích, sự phù hợp của các chỉ tiêu phân tích là những điểm quan
trọng của chất lượng phân tích và có ảnh hưởng đến sử dụng kết quả phân tích.
Mặt khác, hoạt động phân tích tài chính được coi là có chất lượng khi được
thực hiện với chi phí thấp nhất và thời gian nhanh nhất. Một phân tích tốt phải
được yêu cầu của công ty tài chính, phù hợp với chiến lược hoạt động và phát
triển của công ty.
Phân tích tài chính không chỉ đơn thuần là việc khái quát tình hình tài chính
của doanh nghiệp: việc tính toán đơn thuần một vài chỉ tiêu mang tính dân dập
khuôn, máy móc, theo mẫu quy định sẵn mà cần phải tìm tòi, nghiên cứu những
chỉ tiêu mới sau đó kết hợp các chỉ tiêu đặt trong mối quan hệ hữu cơ để so
sánh. Các quyết định tài chính có được là kết quả từ sự logic, khoa học… giữa
các chỉ tiêu để đưa ra những quyết định tài chính phù hợp với hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
1.2.4.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng phân tích tài chính
Bên cạnh các chỉ tiêu tài chính đã đề cập đến ở phần trên, khi phân tích tài
chính có chất lượng, có thể tính đến một số yếu tố sau:
- Các chỉ tiêu trực tiếp
Khối lượng thông tin cần phân tích
Thông thường thông tin cần cho phân tích là các báo cáo tài chính, kết quả
kinh doanh… của doanh nghiệp trong một vài năm gần với năm phân tích. Tuy
nhiên để chất lượng phân tích tài chính được nâng cao, khối lượng thông tin
phân tích không chỉ dừng lại ở đó. Trong quá trình thu thập thong tin nhà phân

tích phải có được nhiều nguồn thông tin khác (thông tin mang tính nhiều chiều)
để có được kết quả phân tích tốt nhất, chính xác nhất. Thông tin nội bộ doanh
22
nghiệp, thông tin từ bên ngoài…
Thời gian phân tích tài chính
Hoạt động phân tích có thể diễn ra trong một thời gian xác định, tuy nhiên
phải đảm bảo cho công ty tài chính đưa ra kết luận kịp thời, nhằm tiết kiệm thời
gian và nâng cao hiệu quả hoạt động cho công ty tài chính. Trong kinh doanh
thời gian là vàng bạc, nếu chậm trễ trong phân tích tài chính khách hàng có thể
công ty sẽ mất thêm một khoản chi phí hoặc khách hàng sẽ mất đi cơ hội kinh
doanh…
Chi phí phân tích tài chính
Chi phí hoạt động phân tích phải thấp nhất có thể tuy nhiên vẫn phải đảm
bảo chi trả đầy đủ cho các công việc trong quá trình phân tích. Muốn làm được
điều này, công ty cần phải có được nguồn thông tin "giá rẻ" tức là công ty phải
biết tìm kiếm, khai thác để giảm chi phí cho công tác phân tích tài chính. Chi phí
thấp sẽ góp phần tích cực nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động này, là tiền
đề để cải thiện tích cực hiệu quả hoạt động của công ty.
Tính chính xác của kết quả phân tích
Độ chính xác của các chỉ tiêu tính được ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng
phân tích tài chính như: khả năng thanh toán, cơ cấu tài chính, khả năng sinh
lời… Cùng với đó là các nhân tố tác động như: quan điểm của nhà quản lý về
phân tích tài chính doanh nghiệp, công tác tổ chức phân tích tài chính, người
thực hiện phân tích tài chính…. Ở đây độ chính xác được quan tâm hàng đầu, bởi vì
phân tích tài chính dựa trên các con số tính toán được và chọn ra chỉ tiêu nào cần thiết
phục vụ cho mục tiêu phân tích, dựa trên các con số này mà mà các nhà phân tích đưa ra
những quyết định tài chính và những giải pháp. Do vậy chỉ cần một sự nhầm lẫn nhỏ
cũng có thể dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng trong các kết luận tài chính.
Thông tin được cung cấp đầy đủ
Khi nhà phân tích có được lượng thông tin đầy đủ thì sẽ dễ dàng hơn rất

nhiều cho người phân tích. Vì khi đó nhà phân tích sẽ có đủ cơ sở để sử dụng
các phương pháp đưa ra những kết luận một chính xác hơn.
23
Thông tin phải đến kịp thời
Trong kinh doanh yếu tố thông tin mang ý nghĩa quan trọng, thông tin đến
sớm hay muộn chưa chắc đã tốt. Tính kịp thời của thông tin là yếu tố không thể
thiếu phục vụ cho phân tích tài chính doanh nghiệp hay nói cách khác là làm cho
chất lượng phân tích tài chính được tốt hơn. Thông tin mang tính động rất cao,
một thông tin có thể có giá trị hôm nay nhưng đến hôm sau nó lại bị lạc hậu do
vậy để tạo nên các báo cáo có chất lượng cần thiết cho phân tích tài chính các
thông tin kế toán cần phải được cập nhật cao độ đến từng chi tiết, theo từng ngày
để đảm bảo tính kịp thời. Tính kịp thời của thông tin làm tăng chất lượng phân
tích tài chính còn thể hiện ở chỗ: các số liệu để phân tích phải được tập hợp qua
nhiều năm và có độ chính xác cao.
- Các chỉ tiêu gián tiếp
Đây là những chỉ tiêu ảnh hưởng tới quyết định tài sản của công ty tài
chính, được đo lường bằng hiệu quả hoạt động của công ty tài chính.
Công ty tài chính quyết định đầu tư hay đồng ý cho vay đối với doanh
nghiệp có đạt được kết quả như mong muốn hay không (thu được lợi nhuận như
dự kiến, thu hồi được lãi và vốn cho vay…?
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng phân tích tài chính khách
hàng
1.2.5.1. Nhân tố chủ quan
Nhân tố con người
Các yếu tố để một người cán bộ tín dụng có thể đưa ra một kết luận sáng
suốt nhất trong phân tích tài chính đó là: nghiệp vụ, đạo đức, kính nghiệm và đối
với mỗi người khi cùng tuân theo một quy trình chung trong phân tích thì cũng
có thể đưa ra kết luận có sự nhạy bén, chính xác ở những mức độ khác nhau.
Những người đã làm việc lâu năm thường có kinh nghiệm tuy nhiên lại trì trệ,
bảo thủ kiến thức không có được cập nhật thường xuyên, ngược lại những người

trẻ tuổi thường có những kiến thức mới nhưng họ hay nóng vội, thiếu kinh
nghiệm thực tế. Tất cả những yếu tố kể trên đều tác động rất lớn đến chất lượng
24
khi phân tích tài chính doanh nghiệp.
Công tác tổ chức hoạt động phân tích tài chính
Các công việc như lên kế hoạch, thực hiện, kiểm tra giám sát và đánh giá
kết quả luôn là những hoạt động cần thực hiện khi phân tích tài chính. Nếu như
ở từng khâu yếu kém tất yếu sẽ kéo theo chất lượng phân tích tài chính giảm
xuống. Vì vậy cần có sự phối hợp ăn ý giữa các phòng ban trong công ty, mỗi
phòng ban với nhiệm vụ khác nhau sẽ phụ trợ cho nhau tát cả đều phải hướng
đến chất lượng phân tích tài chính.
Lựa chọn phương pháp
Trên cơ sở nguồn thông tin có được các cán bộ phân tích sẽ phải làm gì?
làm như thế nào? áp dụng phương pháp phân tích tài chính nào để đánh giá thực
trạng tài chính của doanh nghiệp là một điều rất quan trọng.
Trong điều kiện hiện nay, phải kết hợp các phương pháp phân tích tài chính
tùy theo từng mục tiêu cụ t hể của nhà quản lý quan tâm thì việc phân tích mới
mang lại hiệu quả như ý muốn của doanh nghiệp.
1.2.5.2. Nhân tố khách quan
Doanh nghiệp đang được phân tích
Các số liệu và báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
trong các năm trước và năm tài chính là cơ sở để cán bộ thẩm định phân tích
trước khi quyết định có cho vay không. Công tác phân tích tài chính khách hàng
sẽ gặp khó khăn trong trường hợp doanh nghiệp che dấu, không thực sự hợp tác,
cố tình gian luận bằng việc cung cấp báo cáo tài chính phản ánh không chính
xác những gì xảy ra đối với doanh nghiệp, gây ra tình trạng cán bộ tín dụng
đánh giá sai tình hình tài chính của khách hàng và kết quả là Công ty Tài Chính
sẽ gặp rủi ro nếu cấp tín dụng cho những doanh nghiệp đó.
Chất lượng thông tin
Trong phân tích tài chính yếu tố thông tin là rất quan trọng, chất lượng

phân tích có tốt hay không phụ thuộc rất lớn vào lượng thông tin được cung cấp
ở mức độ nào. Với các đầu mối thông tin ở đây không chỉ là nguồn thông tin bên
25

×