Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

VAI TRÒ VÀ CÁCH GÂY NUÔI TẢO HỮU ÍCH TRONG AO - HỒ NUÔI THỦY SẢN doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.74 KB, 6 trang )

bản tin
VAI TRÒ VÀ CÁCH GÂY NUÔI TẢO HỮU ÍCH
TRONG AO - HỒ NUÔI THỦY SẢN
Trong nuôi trồng thủy sản nói chung, nuôi tôm - cá nói
riêng, màu nước có vai trò rất quan trọng trong việc tham
gia hình thành chuỗi thức ăn tự nhiên, hệ lọc sinh học, ổn
định các thông số môi trường… Nói cách khác, nuôi thủy
sản muốn thành công, trước tiên cần phải nuôi và giữ màu
nước ổn định, bền vững. Vậy màu là gì? Nuôi nước bằng
cách nào? Vai trò cụ thể của màu nước ra sao? Những yếu
tố nào làm ảnh hưởng đến màu nước. Thực chất, màu nước
trong ao - hồ nuôi thủy sản được hình thành ch
ủ yếu do các
hệ phiêu sinh thực vật (Phytoplankton), phiêu sinh đ
ộng vật
(Zooplankton), các loài tảo, ấu trùng các loài giáp xác…
Đối với nghành thủy sản, màu nước được xem là lý tưởng
để nuôi tôm - cá tốt nhất đó là màu xanh lá chuối non và
màu vàng vỏ đậu xanh. Trong đó, màu xanh lá chuối non
thể hiện sự hiện diện mật độ cao của loài tảo lục
(Chlorella), màu vàng vỏ đậu xanh, thể hiện sự hiện diện
mật độ cao của tảo khuê (Chaetoceros), tảo Silic
(Skeletonema). Sự hiện diện 3 loài tảo này trong các ao -
hồ nuôi thủy sản, thể hiện môi trường rất nhiều thức ăn tự
nhiên, phong phú về chủng loại thức ăn tự nhiên, cân bằng
các yếu tố môi trường và các phương trình sinh hóa - sinh
lý, ít các loài tảo độc - rong độc, giàu dưỡng chất. Màu
nước được hình thành thông qua biện pháp bón phân, hay
còn gọi là khâu gây màu nước. Thông thường, trong nuôi
tôm - cá, dùng phân hữu cơ đã qua ủ hoai hoặc phân vô cơ
như DAP, NPK, Urê để gây màu nước, được xem là biện


pháp phổ biến nhất hiện nay. Ngoài ra, một số nơi c
òn dùng
bột cá, bánh dầu, bột đậu nành, chế phẩm sinh học… để
gây màu nước. Nếu dùng phân chuồng thì bón lượng 25-
30kg/100m2 ao nuôi, nếu dùng phân vô cơ như DAP bón
lượng 300-500g/100m2 ao, phân được hòa trong nước, tạt
đều khắp ao nuôi, thực hiện sau công đoạn lấy đủ nước vào
ao nuôi. Sau khi bón phân từ 5-7 ngày, trong ao sẽ hình
thành chuỗi thức ăn tự nhiên rất đa dạng và phong phú,
chuỗi thức ăn được hình thành theo chiều cao cột nước,
trên cùng là sự hiện diện của phiêu sinh thực vật, tiếp theo
là phiêu sinh động vật, luân trùng, giáp xác chân chèo, cu
ối
cùng là động vật đáy, giun nhiều tơ… Trong đó, quan tr
ọng
bậc nhất là sự hiện diện của loài phiêu sinh thực vật
Phytoplankton, đây là hệ thống vi tảo (Microalgae system),
là chất chỉ thị môi trường ao nuôi nhạy cảm, nhanh và
chính xác nhất. Ngoài yếu tố tích cực đầu tiên là nguồn
thức ăn tự nhiên, màu nước còn tăng cường oxy cho ao
nuôi thông qua quá trình quang hợp, dưới tác dụng của ánh
sáng mặt trời vào ban ngày. Tảo sử dụng ánh sáng mặt trời,
lấy khí Carbonic (CO2) trong nước để tổng hợp và thải ra
ngoài môi trư
ờng khí oxy (O2) trong ao nuôi, dẫn đến ao có
màu nước tốt, giàu oxy. Oxy trong ao cao nhất vào thời
điểm 2-3 giờ chiều. Tuy nhiên, nếu màu nước xanh quá
đậm, sẽ gây nên hiện tượng thiếu oxy cho ao vào ban đêm,
đặc biệt từ 24 giờ cho đến 6, 7 giờ sáng hôm sau. Do vào
ban đêm, tảo thực hiện quá trình hô hấp, lấy oxy trong nư

ớc
để tổng hợp và thải trực tiếp ra môi trường khí CO2. Sự
hiện diện của tảo tốt trong ao, còn hạn chế tối đa sự hình
thành các loài tảo, rong, rêu độc hại, hạn chế ánh sáng mặt
trời tiếp xúc tầng đáy ao, nên quá trình phân hủy hữu cơ
trong ao diễn ra chậm hơn, khi độc sinh ra ít, ít nguy hiểm
hơn, giảm khả năng gây hại cho tôm - cá nuôi. Quá trình
phân hủy hữu cơ sinh ra do có các nguyên liệu dư thừa
trong ao như thức ăn dư thừa, phân, xác cá - tôm, xác tảo
chết lắng tụ, hóa chất dư tồn như vôi, thuốc, sự rửa trôi do
mưa làm bờ ao sạt lở kéo xuống đáy ao, do nguồn nước
giàu chất phù sa, chất lơ lửng… Sản phẩm sau cùng của
quá trình phân hủy hữu cơ, là sinh ra nhiều loại khí rất độc
hại đối với tôm - cá nuôi như khí Amoniac (NH3),
Hydrosulfua (H2S), Nitric (NO2)… Quá trình phân hủy
hữu cơ xảy ra mạnh hay yếu lệ thuộc vào sự tác động của
cường độ ánh sáng mặt trời và việc quản lý thức ăn, cũng
như các bước chăm sóc, quản lý tôm - cá nuôi. Nếu lưu gi
ữ,
duy trì được màu nước tốt theo đúng yêu cầu, sẽ h
ình thành
màn che phiêu sinh, ngăn cản ánh sáng mặt trời xuyên qua
tầng nước, tiếp xúc với đáy ao nuôi. Phân hủy hữu cơ sẽ
khó hoặc chậm xảy ra, hoặc xảy ra với cư
ờng độ nhẹ, ít gây
ảnh hưởng đến tôm - cá nuôi. Tảo lúc này giữ vai trò như
nhà máy lọc sinh học tự nhiên khổng lồ, trực tiếp hấp thu
tất cả những sản phẩm thừa, sản phẩm sau cùng của phân
hủy hữu cơ, khí độc hại…. chuyển hóa chúng sang dạng ít
độc hại hoặc phân giải, phân hủy chúng thành những vật

chất khác đơn giản và vô hại đối với vật nuôi thủy sản. Có
rất nhiều yếu tố trực tiếp gây ảnh hưởng đến màu nước.
Trước tiên là chất dinh dưỡng trong ao, nếu cân bằng màu
nước sẽ được duy trì, sự thay đổi theo hướng nhiều hơn
hoặc ít hơn về chất dinh dưỡng và các muối kim loại trong
ao đều gây nên những bất lợi cụ thể như nước quá trong do
thiếu dưỡng chất, tảo không thể phát triển, gia tăng số
lượng, không ngăn được ánh sáng mặt trời. Hoặc quá
nhiều, tảo phát triển nhanh, quá mức , vượt tầm kiểm soát,
mau tàn, lắng xuống đáy, tham gia phân hủy hữu cơ, mất
vai trò lọc. Sự thay đổi đột ngột các thông số môi trường,
hạn chế rất nhiều đến sự tồn tại, phát triển và bền vững của
tảo trong ao nuôi. Thời tiết tác động trực tiếp đến sự ổn
định và phát triển của tảo trong ao nuôi, những ngày trời u
ám, nhiệt độ thấp, mưa bão… khả năng quang hợp của tảo
rất hạn chế, nên ao nuôi thư
ờng thiếu oxy. Hệ đệm trong ao
không ổn định, tác động đến sự phát triển của tảo không ổn
định. Như vậy, trong ao lưu giữ và ổn định tảo đồng nghĩa
với mô hình bền vững, ổn định, có hiệu quả kinh tế, gia
giảm đáng kể hệ số thức ăn, hạ giá thành sản xuất, rút ngắn
thời gian nuôi, tăng tỉ lệ sống, tăng hiệu quả kinh tế, tăng
độ đồng đều, đạt kích thước hàng hóa.
Lý Vĩnh Phước

×