Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Đông Y Châm Cứu - DU HUYỆT VÀ PHÂN LOẠI DU HUYỆT ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.45 KB, 16 trang )

Đông Y Châm Cứu

Phần thứ hai

DU HUYỆT VÀ PHÂN
LOẠI DU HUYỆT


1. Thế nào là du huyệt

Du huyệt cũng gọi là khổng huyệt, huyệt đạo, huyệt vị, kinh huyệt, khí huyệt. Chữ Du có
nghĩa giống như luân, là chuyển luân (theo Tứ giác hiệu mà tân từ điển thì chữ Du có
nghĩa là: đáp ứng các yêu cầu. Có thể định nghĩa này phù hợp với tính năng, tác dụng của
huyệt vị hơn). Huyệt có nghĩa là một khoảng trống. Du huyệt là điểm trên bề mặt cơ thể
thông với kinh lạc. Nó phân bố ở trên mặt đường kinh mạch và là nơi để châm cứu.

Tác dụng của du huyệt: về mặt chuẩn đoán, có thể theo nơi phân bố của nó thăm dò điểm
phản ứng bề ngoài để tham khảo chuẩn đoán bệnh tật. Phép chữa bệnh bằng châm cứu
trên lâm sàng là thông qua tác dụng của du huyệt và kinh lạc mà điều tiết tạng phủ, vận
hành khí huyết để đạt mục đích chữa hoặc dự phòng bệnh tật.

2. Phân loại Du huyệt

Số du huyệt trên cơ thể người có rất nhiều, nhưng đại thể chia ra làm ba loại là: Kinh
huyệt, Kỳ huyệt và Á thị huyệt.

a. Kinh huyệt:

Là huyệt có tên nhất định và có nơi nhất định, theo đúng thủ, túc tam âm kịnh, thủ, túc
tam dương kinh, nhâm và đốc mạch mà dàn ra, thành hệ thống 14 kinh, gọi là kinh huyệt.
Các kinh huyệt này đã trải qua sự chứng minh chữa bệnh ở bản kinh, vì vậy quy nạp ở


trong bản kinh, chúng phát triển từ ít tới nhiều, từ tán loạn đến hệ thống mà thành.



b. Kỳ huyệt:

Là những phát hiện dần dần sau khi 14 đường kinh đã hình thành. Các y gia đời sau đã
không nghĩ đến việc đem toàn bộ chúng nhập vào trong 14 kinh. (Các huyệt mới gần đây
tìm ra gọi là tân huyệt). Do một số kỳ huyệt (đối với một số bệnh) có tác dụng chữa bệnh
đặc thù, vì thế gọi là kỳ huyệt hoặc kinh ngoại kỳ huyệt (dịch là huyệt lạ ngoài kinh). Kỳ
huyệt phân bố rất rộng, nhưng đều có quan hệ mật thiết với hệ thống kinh lạc, như huyệt
Ấn đường trên đốc mạch, Trửu tiêm trên kinh tam tiêu.

c. Á thị huyệt:

Là nơi huyệt vị không cố định, lấy cục bộ chỗ bệnh hoặc nơi có phản ứng ấn đau làm nơi
châm chữa, nó không có tên huyệt vị nhất định, gọi là Á thị huyệt, hoặc gọi là huyệt bất
định, huyệt thiên ứng. á thị huyệt còn dùng cho chữa tật nạn ở bắp thịt phần nông (như
đau bắp thịt), có thể bổ trợ khi chữa.

3. Cách lấy huyệt

Trước khi châm cứu phải tìm vị trí của du huyệt trên thân thể người ta, đó gọi là cách lấy
huyệt. Khi gặp chứng bệnh thì việc lấy huyệt chính xác hay không có quan hệ mật thiết
tới kết quả chữa bệnh. Nếu lấy huyệt chính xác, kết quả chữa bệnh tốt, lấy huyệt không
chính xác, kết quả chữa bệnh kém. Vì thế, nhất định cần phải lấy huyệt cho đúng. Huyệt
vị phân tán ở đầu mặt, thân mình, tứ chi, muốn lấy được huyệt chính xác không những
yêu cầu người bệnh phải có thư thế và động tác nhất định như nằm nghiêng, nằm ngửa,
nằm sấp, gấp khuỷu tay, dang tay, há mồm Người thầy thuốc còn phải nắm vững được
phương pháp lấy huyệt.


Nói chung, phương pháp lấy huyệt thường dùng có ba loại

A. Căn cứ vào sự bộc lộ tự nhiên ở cơ thể con người mà lấy huyệt. Cách lấy huyệt này
chính xác, giản tiện, được vận dụng nhiều nhất trên lâm sàng; như lấy chính giữa hai lông
mày là huyệt ấn đường, lấy hai ngón trỏ giao chéo nhau, đầu chót ngón trỏ trên đầu
xương quay là huyệt Liệt khuyết, lấy điểm chính giữa đường nối hai đầu vú là huyệt
Chiên trung Chiếu thẳng rốn sang phía sau cột sống để lấy huyệt Mệnh môn. Co khuỷu
tay thành góc vuông lấy ở đầu nếp gấp khuỷu tay cạnh trong là huyệt Thiếu hải; hai
tay buông xuôi xuống thì chỗ đầu chót ngón giữa nằm trên cạnh đùi là huyệt Phong
thị. Khi gấp hẳn đầu vào cổ thì mỏm gai đốt cổ 7 nổi lên rất rõ, phía dưới đốt cổ 7, tức
là bên trên đốt sống lưng I lấy huyệt Đại chuỳ, bên trên đốt lưng 2 là huyệt Đào đạo

B. Theo cách đo bằng thốn * ngón tay (chỉ thốn pháp - đồng thân thốn). Là cách lấy
bề rộng mấy chỗ ở ngón tay người bệnh làm tiêu chuẩn đo lường lấy huyệt. Nếu như
thân chất người bệnh và thầy thuốc tương tự, có thể dùng tay thầy thuốc để đo.

Cách lấy đồng thân thốn ngón giữa: là bảo người bệnh dùng ngón giữa và ngón cái
tay đặt nối nhau thành vòng tròn rồi đo lấy cự ly giữa hai đầu nếp gấp cạnh đốt giữa
của ngón giữa làm một thốn. Cách tiện làm tiêu chuẩn cho việc lấy huyệt ở tứ chi và
bề mặt ngang vùng lưng.

Cách lấy đồng thân thốn ngón cái: lấy độ rộng đốt 1 ngón cái (chỗ ngang khớp đốt)
làm 1 thốn, hoặc cả hai ngón trỏ và giữa làm 2 thốn, hoặc cả bốn ngón (trừ ngón cái)
làm 3 thốn. Bề ngang bốn ngón gọi là nhất phu pháp, (ở Việt Nam ngày xưa dùng bề
ngang bốn ngón tay kẹp lại để làm đơn vị đo lường gọi là một vổ).

Những cách đo này rất đơn giản nhưng không chuẩn xác khi đo trên các đoạn xương
vì vậy trên các đoạn xương phải có cách đo riêng gọi là cốt độ pháp (phép đo ở
xương).


C. Cách chia thốn theo độ dài xương: cách chia thốn theo độ dài xương còn gọi là cốt
độ pháp, cách này lấy khoảng cách giữa các bộ phận trong cơ thể quy định thành độ
dài hoặc độ rộng nhất định rồi chia thành một số phần nào đó, mỗi phần như thế gọi là
một thốn. Phương pháp này bất luận người bệnh là trai, gái, trẻ, già, hoặc cao, thấp,
gầy,béo, nhất loạt chiểu theo tiêu chuẩn này mà chia ra lấy huyệt, như thế sẽ rất chính
xác.

Bảng dưới đây ghi cách chia thốn cốt độ thường dùng
Bộ
phận
Từ a đến b
Số
thốn
Chủ thích
từ mép tóc trước trán đến mép tóc sau gây 12
từ mép tóc trước đến giữa lông mày (ấn
đường)
3
Nếu mép tóc trước không rõ
ràng có thể
Lấy từ giữa lông mày đến
mép tóc sau gáy làm 15 thốn
từ mép tóc sau gáy đến đốt cổ 7 3
Nếu mép tóc sau gáy không
rõ ràng thì lấy mép tóc trước
đến đốt cổ 7 là 15 thốn
Ở đầu
Bề rộng giữa 2 góc tóc trước trán trên
lông mày

9
Từ giữa lông mày đến đốt cổ
7 là 18 thốn
khoảng cách giữa hai đầu vú 8
ở ngực bụng khi chia bề
ngang, để lấy huyệt, căn cứ
vào khoảng cách giữa hai
đầu vú. Khi chia chiều dọc,
nhất thiết lấy khoảng cách
các xương sườn làm chuẩn.
từ lõm dưới xương ức đến rốn 8
Ở ngực
bụng
từ giữa rốn đến bờ trên xương mu 5
từ nếp hố nách đến sườn 11 12
Ở lưng
từ cạnh trong xương bả vai đến giữa cột
sống
3
chiều dọc của lưng theo
khoảng cách các đốt sống
làm căn cứ lấy huyệt
từ nếp gấp nách đến nếp gấp khuỷu tay 9 theo cạnh tron cách tay
Chi trên

từ nếp gấp khuỷu tay đến nếp gấp cổ tay 12
dùng cho cả hai cạnh trong
và ngoài cẳng tay
từ mấu chuyển lớn đến đầu gối xương đùi 19
dùng chung cho cả ba cạnh

trước, ngoài, sau của chi
dưới
từ đầu gối đến mắt cá ngoài 16
Chi
dưới
từ bờ trên xương mu đến bờ bên trên
xương đùi chỗ đầu gối
18
dùng chung cho cạnh trong
chi dưới



4. Huyệt đặc định (huyệt theo đặc tính nhất định)

Trong kinh huyệt (có một số huyệt vị có tác dụng trị liệu đặc thù gọi là huyệt đặc
định. Do đó đặc tính nhất định, cho nên nó được quy nạp lại giới thiệu riêng, để trên
lâm sàng phát huy tác dụng được tốt hơn.

a. Nguyên huyệt:

Là chỗ chủ yếu của kinh khí trong các kinh qua lại, những huyệt này hầu hết nằm ở
xung quanh khớp cổ tay, khớp cổ chân. Do đó khí của tạng phủ thông qua kinh lạc
thường biểu hiện ở những huyệt này, vì thế nó và tạng phủ có quan hệ mật thiết vô
cùng, mỗi tạng phủ có bệnh biến thường phản ứng ở nguyên huyệt của kinh đó nói lên
rằng nguyên huyệt có tác dụng to lớn trong việc chữa bệnh tạng phủ.
Huyệt vị của Nguyên huyệt là:





Tên huyệt Tên kinh Tên huyệt Tên kinh
Thái uyên
Đại lăng
Thái khê
Uyển cốt
Hợp cốc
Khâu khư
Phế kinh
Tâm bào
Thận kinh
Tiểu trường kinh
Đại trường kinh
Đảm kinh
Thần môn
Thái bạch
Thái xung
Dương trì
Kinh cốt
Xung dương
Tâm kinh
Tỳ kinh
Can kinh
Tam tiêu kinh
Bàng quang kinh
Vị kinh



b. Lạc huyệt:


Lạc là ý nghĩa liên lạc, thông qua lạc huyệt có thể làm cho 12 kinh mạch có liên quan
biểu lý hai kinh, vì vậy gọi là lạc huyệt. Vì lạc huyệt có tác dụng liên quan, cho nên 12
kinh mạch mới thành một vòng đai kín, và dùng vào trị bệnh ở hai kinh biểu lý liên quan
có bệnh. 14 kinh lạc đều có lạc huyệt, riêng tỳ kinh có hai lạc huyệt, gộp lại có 15 lạc
huyệt


Huyệt vị của lạc huyệt là:

Tên huyệt Tên kinh Tên huyệt Tên kinh
Nội quan
Thông lý
Công tôn
Lãi câu
Ngoại quan
Phi dương
Phong long
Tâm bào kinh
Tâm kinh
Tỳ kinh
Can kinh
Tam tiêu kinh
Bàng quang kinh
Vị kinh
Liệt khuyết
Đại chung
Chi chính
Thiên lịch
Quang minh

Trường cường
Đại bao
Phế kinh
Thận kinh
Tiểu trường kinh
Đại trường kinh
Đảm kinh
Đốc mạch
Tỳ kinh đại lạc
Cưu vỹ Nhâm mạch



c. Bối du huyệt:

Là chỗ khí tạng phủ luân chuyển ở vùng lưng, vì vậy gọi là du huyệt. Tuy nó phân bố
cách đều trục giữa ở lưng là 1,5 thốn trên đường bàng quang kinh, nhưng vì nó tương
thông với các tạng phủ nên chữa được bệnh tạng phủ. Khi tạng phủ có bệnh, thường
thường du huyệt tương ứng trên lưng sẽ xuất hiện cảm giác ấn đau hoặc tê tức, vì vậy,
chữa bệnh của bản tạng tại du ở lưng hiệu quả rất rõ rệt. Như bệnh dạ dày lấy huyệt Vị du
bệnh thận lấy huyệt Thận du. Bối du huyệt ngoài việc chữa bệnh tạng phủ ra, lại có tác
dụng chữa các khí quan liên quan, như can khai khiếu ở mắt, châm Can du có thể chữa
được bệnh ở mắt.
Huyệt vụ của huyệt bối du là

Tên huyệt Tên tạng phủ Tên huyệt Tên tạng phủ
Tâm du
Tỳ du
Thận du
Đại trường du

Tam tiêu du
Tâm
Tỳ
Thận
Đại trường
Tam tiêu
Can du
Phế du
Quyết âm du
Tiểu trường du
Vị du
Can
Phế
Tâm bào
Tiểu trường
Vị
Bàng quang du Bàng quang Đảm du Đảm



d. Mộ huyệt:

Mộ có ý nghĩa là kết tụ lại, nơi khí của tạng phủ kết tụ ở ngực, bụng, gọi là mộ huyệt, ý
nghĩa lâm sàng của nó tương tự như bối du huyệt, đối với các tạng phủ tương ứng với nó,
nó có tác dụng đặc thù. Như bệnh dạ dày, lấy huyệt Trung quản, bệnh bàng quang lấy
huyệt Trung cực.
Huyệt vị của mô huyệt là:
Tên huyệt Tên tạng phủ Tên huyệt Tên tạng phủ
Cự khuyết
Trung quản

Quan nguyên
Trung phủ
Nhật nguyệt
Kinh môn
Tâm
Vị
Tiểu trường
Phế
Đảm thận
Chiên trung
Thạch môn
Trung cực
Kỳ môn
Chướng môn
Thiên du
Tâm bào
Tam tiêu
Bàng quang
Can
Tỳ
Đại trường


đ. Khích huyệt:

khích có ý nghĩa là lỗ trống không (theo Tứ giác hiệu mã tân từ điển thì khích là oán
trách). Khích huyệt là nơi kinh khí tụ ở sâu, do đó gọi là khích huyệt. Khích huyệt phân
phối ở tứ chi, phần lớn là ở phía dưới khuỷu và đầu gối. Mỗi kinh trong 12 kinh đều có
một khích huyệt. Nó có thể chữa bệnh ở nơi đường kinh tuần hành và cả các loại bệnh ở
tạng gốc sở thuộc, nhưng trên lâm sàng thường để chữa bệnh cấp tính, chứng đau, chứng

viêm. Như đau ngực, tim, lấy huyệt Khích môn, đau dạ dày lấy huyệt Lương khâu.

Huyệt vị của khích huyệt:
Tên huyệt Tên kinh Tên huyệt Tên kinh
Khổng tối
Âm khích
Ngoại khâu
ôn lưu
Dưỡng lão
Trung đô
Phế kinh
Tâm kinh
Đảm kinh
Đại trường kinh
Tiểu trường kinh
Can kinh
Khichs môn
Lương khâu
Kim môn
Hội tông
Địa cơ
Thuỷ tuyền
Tâm bào kinh
Vị kinh
Bàng quang kinh
Tam tiêu kinh
Tỳ kinh
Thận kinh




e. Bát hội huyệt:

Là nơi hội họp của tám thứ: tạng, phủ, khí, huyết, gân, mạch, xương, tuỷ. Nạn thứ 45
trong Nạn Kinh nói: Bệnh nhiệt ở trong, lấy khí huyệt hội của cái đó (Nhiệt bệnh tại nội
giả, thủ kỳ hội chi khí huyệt dã), ứng dụng lâm sàng, không giới hạn ở bệnh nhiệt, mà
nặng về phía bệnh nội chứng. Thuộc về bệnh chứng của một số mặt, có thể sử dụng hội
huyệt hữu quan.

Bảng 8 hội huyệt
Tạng hội = Chướng môn
Huyết hội = cách du
Cốt hội = Đại trữ
Phú hội = Trung quản
Căn hội = Dương lăng tuyền
Tuỷ hội = Tuyệt cốt
Khí hội = Chiên trung
Mạch hội = Thái uyên

g. Ngũ Du huyệt:

12 kinh mạch ở tứ chi từ khuỷu tay và đầu gối trở xuống đều có 5 loại huyệt đặc định là
Tỉnh, Huỳnh, Du, Kinh, Hợp, gọi là ngũ du huyệt. Từ đầu chót của tứ chi hướng về
khuỷu và đầu gối, mạch khí dàn ra từ nhỏ đến lớn, từ nông đến sâu, từ xa đến gần, do đó
nói: chỗ xuất là Tỉnh, chỗ lưu là Huỳnh, chỗ trú là Du, chỗ hành là Kinh, chỗ nhập là
Hợp' (theo thiên Cứu châm nhập nhị nguyên sách Kinh Khu), đó là lấy đặc điểm hình
dung theo tên gọi của dòng nước chảy. Tỉnh là nguồn từ dưới đất ra, hình dung về mạch
khí nông, nhỏ, huyệt đó thường ở cạnh móng của ngón tay chân. Huỳnh là nước thành
dòng nhỏ, mạch khí lớn, huyệt đó ở chỗ vùng ngón, bàn của tay chân. Du là vận chuyển,
mạch khí đã rất thịnh, huyệt đó thường ở chỗ khớp cổ tay, cổ chân và phụ cận, Kinh là

dòng ngước lớn, mạch khí chảy và trú ở đó, huyệt thường ở vùng xung quanh khớp cổ
tay, cổ chân và cẳng tay, cẳng chân. Hợp là xoáy hợp lại, mạch khí sâu lớn,huyệt thường
ở xung quanh khớp khuỷu tay, đầu gối.

Ứng dụng trên lâm sàng của ngũ du huyệt, sách Linh Khu nói rằng: Bệnh tại tạng lấy
Tỉnh; bệnh biến ở mầu sắc lấy ở Huỳnh; bệnh có lúc tăng, lúc giảm, lấy ở Du, bệnh biến
ở tiếng (âm) lấy ở Kinh; mãn kinh mà có máu cũng như bệnh ở dạ dày và ăn uống không
điều độ mà mắc bệnh, lấy ở Hợp. Nạn thứ 68 của Nạn kinh lại đã nói thêm cho rõ hơn là:
Tỉnh huyệt chữa đầy tức dưới tâm; Huỳnh huyệt chữa mình nóng sốt, Du huyệt chữa
mình nặng khớp đau, Kinh huyệt chữa ho hắng, nóng rét; Hợp huyệt chữa nghịch khí mà
tiết. Đó là cách nói về ngũ du huyệt và các đặc điểm chủ trụ của nó, chúng ta ghi nhận để
tham khảo ứng dụng trên lâm sàng.

Bảng ngũ du huyệt
Ngũ tạng Ngũ du
Tinh Huỳnh Du Kinh Hợp Phế
Tâm bào
Tâm
Tỳ
Cam
Thận
Thiếu thương
Trung xung
Thiếu xung
Ân bạch
Đại đôn
Dũng tuyền
Ngư tế
Lao cung
Thiếu phủ

Đại đô
Hành gian
Nhiên cốc
Thái uyên
Đại lăng
Thần môn
Thái bạch
Thái xung
Thái khê
Kinh cử
Gian sử
Linh đao
Thương khâu
Trung phong
Phục lưu
Xích trạch
Khúc trạch
Thiếu hải
Âm lăng tuyền
Khúc tuyền
Âm cốc


Lục phủ Tinh Huỳnh Du Kinh Hợp
Đại trường Thương dương Nhị gian Tam gian Dương khê Khúc trì
Tam tiêu
Tiểu trường
Vị
Đảm
Bàng quang

Quan xung
Thiếu trạch
Lê đoài
Khiếu âm
Chí âm
Dịch môn
Tiền cốc
Nội đinh
Hiệp khê
Thông cốc
Trung chủ
Hậu khê
Hăm cốc
Lâm khấp
Thúc cốt
Chi câu
Dương cốc
Giải khê
Dương phù
Côn luân
Thiên tinh
Tiểu hải
Túc tam lý
Dương lăng tuyền
Uỷ trung



Hợp huyệt trong ngũ du huyệt đối với bệnh tạng phủ có tác dụng rất trọng yếu. Thiên Tà
khí tạng phủ bệnh hình, sách Linh Khu nói: Huỳnh, Du chữa bệnh ở ngoài kinh lạc, Hợp

chữa bệnh ở trong tạng phủ. Trị bệnh của lục phủ bằng Hợp huyệt, lại lấy Hợp huyệt của
túc tam dương kinh là chính. Vị, Bàng quang, Đảm ra ở túc tam dương, mà đại trường,
tiểu trường, tam tiêu tuy nhiên hợp trên ở thủ kinh, đồng thời cũng xuất hiện ở túc tam
dương. Như thiên Bản luận sách Linh Khu đã nói: Lục phủ đều ra ở túc tam dương, Hợp
ở trên tay. Đó là do lục phủ ở trong vùng bụng, có quan hệ với túc kinh rất mật thiết, vì
vậy ở trên túc tam dương kinh đều có các Hợp huyệt đó. Vị hợp ở Túc tam lý. Đại
trường hợp ở Thượng cự hư. Tiểu trường hợp ở Hạ cự hư, đều thuộc túc dương minh vị
kinh.

Thiên Bản luân lại nói Đại trường, tiểu trường đều thuộc ở vị, đó là nói công năng sinh lý
trên dưới tương thừa. Bàng quang Hợp ở Uỷ trung, Tam tiêu Hợp ở uỷ Dương, đều thuộc
túc tái dương bàng quang kinh, là do thuỷ đạo ở tam tiêu xuất ra có quan hệ thuộc về
bàng quang. Đảm hợp ở Dương lăng tuyền. Trên vừa kể là hạ Hợp huyệt của bệnh lục
phủ, hoặc gọi là Phủ bệnh Hợp Luân.



Bảng lục phủ hạ Hợp huyệt


Vị trường = Túc tam lý
Đại trường = Thượng cự hư
Tiểu trường = Hạ cự hư
Bàng quang = uỷ trung
Tam tiêu = uỷ dương
Dương lăng tuyền

Trên túc dương minh

Trên túc thái dương


Trên túc thiếu dương



h. Bát mạch giao hội huyệt:

Là 8 huyệt vị ở tứ chi thông với tám mạch kỳ kinh. Kỳ kinh bát mạch tuy không tuần
hành tất cả trên tứ chi, nhưng do chúng có quan hệ giao hội với 12 kinh mạch, cho nên
huyệt vị ở vùng tứ chi đều có thông với kỳ kinh, trên mặt điều trị thích ứng, có quan hệ
tới bệnh chứng của kỳ kinh. Bát mạch giao hội huyệt ở tứ chi trên và chi dưới, khi ứng
dụng thường phải phối hợp

Bảng phối hợp bát mạch giao hội huyệt và tác dụng của nó như sau:
Bản kinh Bát huyệt Thông bát mạch Chủ trị
Túc thái âm
Thủ quyết âm
Công tôn
Nội quan
Xung mạch
Âm duy
Tim, ngực, dạ dày
Thủ thái dương
Túc thái dương
Hậu khê
Thân mạch
Đốc mạch
Dương kiều mạch
Khoé mắt trong, gáy cổ,
tai, vai và cánh tay trên,

tiểu trường, bàng quang
Túc thiếu dương
Thủ thiếu dương
Túc lâm khấp
Ngoại quan
Đới mạch
Dương duy mạch
Khoé mắt ngoài, sau tai,
má, cổ vai
Thủ thái âm
Túc thiếu âm
Liệt khuyết
Chiếu hải
Nhâm mạch
Âm kiều mạch
Hệ phế, hầu họng, ngực
nách

×