Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Quy Luật thời khí và biện chứng luận trị về bệnh thời khí - Bài 1,2,3 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.75 KB, 17 trang )

Quy Luật thời khí và
biện chứng luận trị về
bệnh thời khí
Tập tài liệu này gồm hai phần "Quy luật thời khí chính là học thuyết
Ngũ Vận - Lục Khí, và "Biện chứng luận trị về bệnh thời khí chính là bài giảng ôn
nhiệt bệnh biện chứng luận trì (nay thường gọi là bệnh sốt thời khí).
Hai nội dung trên là hai phần rất chính yếu trong hệ thống lý luận y học cổ truyền
Phương Đông. Một là nói về nguyên nhân của những bệnh sốt dịch hàng năm do
khí hậu mỗi năm khác nhau làm cho loại hình bệnh cũng eo khác nhau, nhưng nói
chung không ngoài quy luật nhất định. Một nữa nói về diễn biến bệnh của từng
loại hình và phương pháp chẩn đoán, phương pháp điều trị cho từng loại hình.
Các tài liệu này hiện có rải rác trong những bộ sách y học cổ.
Trong mỗi sách, tuỳ tác giả mà có những cách trình bày khác nhau, nhưng nhìn
chung, phần lớn là theo kiểu lời bàn.
Để tiện cho việc học tập và tiến tới phổ cập hoá trong các đơn vị y tế cộng đồng,
tôi soạn lại nội dung "Học thuyết Ngũ Vận - Lục Khí" theo thể thức một số bài
giảng và những bảng tia ứng dụng cho dễ học, dễ dùng. Riêng biện chứng luận trị
về bệnh thời khí, tôi chọn dịch bài "ôn nhiệt bệnh biện chứng luận trị" trong sách
"Trung Y học khái yếu'’, bởi vì các tác giả Trung Quốc đã soạn nội dung này rất
công phu, dễ học, dễ dùng mà lại rất đầy đủ. Để chuyển tiếp giữa hai nội dung đó,
tôi dịch bài "Bát cương biện chứng" cũng trong sách "Trung Y học khái yếu trên.
Phần I: Quy luật thời khí



Bài 1: Mở Đầu

Bài 2: Đại cương

Học thuyết Ngũ Vận – Lục Khí là gì ?
Thành phần của mỗi tên khí tư thiên và đại vận


Sự khác nhau giữa Khí tư thiên và Đại vận
Quan hệ giữa khách khí (Tư thiên) và khách vận (Đại vận)

Bài 3: Chủ khí

Định nghĩa
Cách tính chủ khí
Chủ bệnh của chủ khí


Bài I: MỞ ĐẦU

Học thuyết Ngũ Vận - Lục Khí là một môn lý luận về quy luật biến đổi khí hậu
theo năm, theo mùa tiết tương ứng với biến đổi ở vạn vật, là một môn học có phạm
vi ứng dụng rất rộng, nhưng trước hết và nhiều nhất là trong Y học cổ Phương
Đông. Chúng ta thấy môn học này đều có trong các bộ sách Y học cổ Việt Nam và
Trung Quốc, như Hoàng đế Nội Kinh, Hồng Nghĩa Giác Tư Y Thư,
Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh, Ngư Tiều Vấn đáp Y Thuật, Lang y khái luận
v.v
Đối với Y học, học thuyết Ngũ Vận - Lục Khí có giá trị như một quy luật dự báo
thời bệnh học, trên cơ sở tương ứng giữa tên của năm theo niên can, niên chi với
tên khí, tên vận, và tương ứng giữa tên khí, tên vận với diễn biến bệnh lý trong các
tạng phủ, kinh lạc trên cơ thể con người. Nó có một trình tự diễn biến rất nghiêm
ngặt, công thức tính toán rất phức tạp, do đó chỉ có khi nào được học chu đáo mới
có thể sử dụng được, vì thế việc ứng dụng của nó không rộng rãi trong đa số thầy
thuốc. Cho nên, như chúng ta đã thấy, ngày nay, công việc chữa bệnh cho nhân
dân mới nằm trong phạm vi điều trị triệu chứng là chủ yếu. Công việc dự báo, dự
phòng và điều trị nguyên nhân chưa phải lúc nào và ở đâu cũng làm được
Trong thời gian sưu tầm tài liệu để làm bài giảng về học thuyết này, tôi rút ra
những điều chính yếu, rồi xếp sắp theo một lối riêng, hy vọng sẽ giúp cho người

học dễ nắm được, từ đó, tiến lên có thể được bổ sung để bài giảng sẽ trở thành
những bài phổ cập trong đời sống y học và y thuật, phục vụ sức khoẻ của nhân dân
trong cả phòng bệnh và chữa bệnh.

Bài 2: ĐẠI CƯƠNG

I. HỌC THUYẾT NGŨ VẬN - LỤC KHÍ LÀ GÌ?

Sách Trung y khái luận (tập 4, NXB Y học, Hà Nội 1961) viết:
" Ngũ Vận - Lục Khí nói tắt là Vận Khí. Học thuyết này trong Y học Trung Quốc
gọi là học thuyết Vận Khí, đó là một phương pháp lý luận của đời xưa giải thích
sự biến hoá của khí hậu thời tiết trong tự nhiên giới và ảnh hưởng của khí hậu thời
tiết biến hoá ấy đối với vạn vật trong vũ trụ, đặc biệt là đối với loài người. Học
thuyết này lấy âm dương ngũ hành làm hạt nhân, dựa trên cơ sở của quan niệm
chỉnh thể về thiên nhân tương ứng mà xây dựng nên."

II. THÀNH PHẦN CỦA MỖI TÊN KHÍ TƯ THIÊN VÀ ĐẠI VẬN:

Tên của Khí tư thiên và đái vận bao giờ cũng gắn với một năm can hoặc. chi, gắn
với ngũ hành của tạng phủ hoặc gắn với ngũ hành của đường kính. Bảng 1, 2.

Bảng 1: Niên can và đại vận
Năm Giáp và năm Kỷ
Năm Ất và năm Canh
Năm Bính và năm Tân
Năm Đinh và năm Nhâm
Năm Mậu và năm Quý


Bảng 2: Niên chi và Khí tưnhiên

Năm Tý và năm Ngọ = Khí tư thiên là Thiếu âm quân hoả (kinh
Thủ thiếu âm Tâm).
Năm Sửu và năm Mùi = Khí tư thiên là Thái âm thấp Thổ (kinh
Túc thái âm Tỳ).
Năm Dần và năm Thân = Khí tư thiên là Thiếu dương tướng hoả
(kinh Thủ thiếu dương tam tiêu).
Năm Mão và năm Dậu = Khí tư thiên là Quang minh táo kim (kinh
Thủ dương minh Đại trường).
Năm Thìn và năm Tuất = Khí tư thiên là Thái dương hàn thất (kinh
Túc thái dương Bàng quang).
Năm Tỵ và năm Hợi = Khí tư thiên là Lưuyến âm phong mộc
(kinh Túc quyết âm Can).


Trong tên của Khí tư thiên như trên, phân tích thêm, ta thấy như sau:
- Những từ Thiếu âm, Thái âm, Dương minh, thiếu dương, Thái dương, Quyết âm
là những mức độ âm dương trên các nửa âm dương của cổ chân, cổ tay, nơi đường
kính đó đi qua.
- Những tên quân hoả, thấp thổ, tướng hoả, táo kim, hàn thuỷ, phong mộc, là
những tên khí và hành của khí ứng với tên tạng phủ có động kinh đó.

III. SỰ KHÁC NHAU GIỮA KHÍ TƯ THIÊN VÀ ĐẠI VẬN:

Khí tư thiên và đại vận do cùng là loại khí khác lạ xen kẽ vào khí hậu bình thường
hàng năm, nên cùng gọi là khách khí hay khách vận, nhưng chúng có những đặc
điểm khác nhau:

- Khí tư thiên là lấy đặc điểm khí hậu của thời điểm giữa mùa hạ hàng năm.
- Đại vận là tính khí hậu chung cho cả năm.
- Khí tư thiên tính theo tên chi của năm (niên chi).

- Đại vận tính theo tên can của năm (niên can).
Khí tư thiên được lấy làm gốc, theo đó tính ngay ra các bước khách khí của cả
năm.
- Đại vận dùng để tính chuyển đổi thành thái quá hay bất cập, thái quá thì bản khí
lưu hành (tức là giữ nguyên tên Khí tư theo niên can bằng ngũ hành), bất cập thì
khí khắc nó lưu hành (tức là lấy hành khắc hành của Đại vận theo niên can làm tên
khí lưu hành). Sau khi chuyển đổi như thế mới dùng làm bước vận gốc từ đầu mỗi
năm, các bước khách vận trong năm theo đó mà nối tiếp.
- Thái quá và bất cập tính theo năm can là dương hay âm;
Thái quá là những năm Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm.
Bất cập là những năm Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý.

IV. QUAN HỆ GIỮA KHÁCH KHÍ (KHÍ TƯ THIÊN) VÀ KHÁCH VẬN
(ĐẠI VẬN):

Khách khí và khách vận có quan hệ theo ngũ hành tương sinh hay tương khắc.
Theo quan hệ tương sinh và tương khắc giữa Khí tư thiên với Đại vận hàng năm
mà người ta tìm ra năm đó Khí thịnh, vận suy hoặc vận thịnh khí suy, hoặc là vận
đồng với khí, để theo đó biết tình hình khí hậu trong năm tính theo khí hay theo
vận. Cách tính này lấy ngũ hành của Khí tư thiên so sánh với. ngũ hành của đại
vận.
Khí khắc Vận hoặc Khí sinh Vận là Khí thịnh Vận suy, khí hậu năm đó lấy theo
Khí là chính, Vận chỉ để tham khảo.
Ví dụ: năm Giáp Tý, Giáp có Đại vận là thổ, Tý có Khí tư thiên là hoả (thiếu âm
quân hoả), hoả sinh thổ, năm đó Khí thịnh vận suy, khí hậu tính theo khí hoả.
Vận khắc Khí hoặc Vận sinh Khí là Vận thịnh Khí suy, khí hậu năm đó lấy theo
Vận là chính, Khí chỉ để tham khảo.
Ví dụ: năm Bính Dần, Bính có Đại vận thuỷ, Dần có Khí tư thiên là hoả (thiếu
dương tướng hoả), thuỷ khắc hoả, năm đó vận thịnh khí suy, khí hậu tính theo vận
thuỷ.

Vận đồng với Khí một loại hành, gọi là đồng khí, những năm đồng Khí thì khí hậu
khác lạ đó dữ dội, vì hành của Vận và Khí gia bội cho nhau.
Ví dụ: năm Mậu Dần, Mậu có Vận là Hoả, Dần có Khí là hoả, năm đó hoả khí
mạnh dữ dội.
Ngoài việc so sánh giữa Vận và Khí như trên, khi so sánh giữa Đại vận, Khí tư
thiên hàng năm theo ngũ hành của vận, của khí, của niên chi (theo ngũ hành
phương vị của 12 địa chi: Hợi, Tý - Thuỷ; Dần, Mão - mộc; Tỵ, Ngọ - hoả; Thân,
Dậu - kim; Thìn,Tuất, Sửu, Mùi - thổ), người ta còn gọi bằng những tên khác để
chỉ tính chất khí hậu năm đó cho tương đối cụ thể hơn.
Các tên khác:
Thuận hoá : Khí sinh Vận.
Thiên hình: Khí khắc Vận.
Tiểu nghịch: Vận sinh Khí.
Bất hoà: Vận khắc Khí.
Thiên phù: Hành của Vận và hành của Khí đồng nhau.
Tuế hội: Đại vận (Tuế vận) giống như thuộc tính ngũ hành của niên chi (theo ngũ
hành với phương vị 12 địa chi).
Thái ất Thiên phù: Những năm đã gặp Thiên phù lại là Tuế hội nữa thì gợi là Thái
ất Thiên phù.
Đồng Thiên phù: Những năm dương can, dương chi (thái quá) đồng thời thuộc
tính ngũ hành của Đại vận và Khí tại tuyền (khí đối chiều với Khí tư thiên hàng
năm) giống nhau thì gọi là Đồng Thiên phù.
Đồng Tuế hội: Những năm âm can, âm chi (bất cập), đồng thời lại có Đại vận
giống thuộc tính ngũ hành của Khí tưại tuyền thì gọi là
Đồng Tuế hội.
Bình khí: Những năm Vận thái quá bị Khí tư thiên ức chế và những năm Vận bất
cập được hành của niên chi phù trợ cũng trở thành Bình khí.

Bảng 3: Khách khí
Khí tư thiên Khí tại tuyền

Năm Tý, Ngọ, Thiếu âm
quân hoả,
Năm Sửu, Mùi, Thái âm
thấp thổ,
Năm Dần, Thân, Thiếu
dương tướng hoả
Năm Mão, Dậu, Dương
minh táo kim,
Năm Thìn, Tuất, Thái
dương hàn thuỷ,
Dương minh táo kim,
Thái dương hàn thuỷ,
Quyết âm phong mộc

Thiếu âm quân hoả,
Thái âm thấp thổ,
Thiếu dương tướng hoả
Năm Tỵ, Hợi. Quyết âm
phong mộc,


Các bảng đối chiếu tên can chi của năm và các loại tên khác của Khí
Bảng 4: Thiên phù - Trong 60 năm có 12 năm Thiên phù
Niên hiệu Đại vận Khí tư thiên
Kỷ Sửu
Mùi
Thổ
Thái âm thấp thổ
Ất Mão
Dậu

Kim
Dương minh táo kim
Bính Thìn
Tuất
Thuỷ
Thái dương hàn thuỷ
Đinh Tỵ
Hợi
Mộc
Quyết âm phong mộc
Mậu Tý Hoả Thiếu âm quân hoả
Ngọ

Mậu Dần
Thân
Hoả Thiếu dương tướng
hoả



Bảng 5: Tuế hội: có 8 năm Tuế hội
Niên hiệu Đại vận
Thuộc tính ngũ
hành của niên chi
Giáp
Kỷ
Thìn
Tuất
Sửu
Mùi



Thổ


Thổ
Ất Dậu Kim Kim
Đinh Mão Mộc Mộc
Mậu Ngọ Hoả Hoả
Bính Tý Thuỷ Thuỷ


Bảng 6: Thái ất Thiên phù: có 4 năm Thái ất Thiên phù
Niên hiệu Đại vận Khí tư thiên Thuộc tính ngũ
hành
của niên chi
Kỷ Sửu
Mùi
Thổ Thái âm thấp thổ Thổ
ất Dậu Kim Dương minh táo kim Kim
Mậu Ngọ Hoả Thiếu âm quân hoả Hoả



Bảng 7: Đồng thiên phù: có 6 năm Đồng Thiên phù
Niên hiệu
Thuộc tính ngũ hành
của niên chi
Đại vận Khí tại tuyền
Giáp Thìn Dương Thổ (Thái âm thấp) thổ

Giáp Tuất Dương Thổ (Thái âm thấp) thổ
Canh Tý Dương Kim (Dương minh táo)
kim
Canh Ngọ Dương Kim (Dương minh táo)
kim
Nhâm Dần Dương Mộc (Quyết âm phong)
mộc
Nhâm Thân Dương Mộc (Quyết âm phong)
mộc



Bảng 8: Đồng Tuế hội: có 6 năm Đồng Tuế hội
Niên hiệu
Thuộc tính ngũ
hành
của niên chi
Đại vận Khí tại tuyền
Tân Mùi âm Thổ (Thái âm thấp) thổ
Tân Sửu âm Thổ (Thái âm thấp) thổ
Quý Mão âm Kim (Dương minh táo)
kim
Quý Dậu âm Kim (Dương minh táo)
kim
Quý Tỵ âm Mộc (Quyết âm phong)
mộc
Quý Hợi âm Mộc (Quyết âm phong)
mộc




Bảng 9: Bình khí: có 12 năm Bình khí
6 năm Vận thái quá bị Khí tư thiên ức chế
Mậu
Thìn
Mậu
Tuất
Canh Tý Canh
Ngọ
Canh
Dần
Canh
Thân
6 năm Vận bất cập được phù trợ của niên chi
ất Dần Đinh
Mão
Kỷ Sửu Kỷ Mùi Tân Hợi Quý Tỵ



Tam phạm: Phạm Thiên phù, bệnh nhanh mà nguy Phạm Tuế hội, bệnh từ từ mà
giữ lâu
Phạm Thái ất, bệnh bạo mà chết

BÀI 3: CHỦ KHÍ

I. ĐỊNH NGHĨA:

Chủ khí là khí hậu đều đặn hàng năm, diễn biến theo các mùa, năm nào cũng thế,
không có sự đảo ngược.

Ví dụ: Năm nào cũng mùa đông rét, mùa hè nóng, mùa xuân ẩm, mùa thu hanh
khô.

II. CÁCH TÍNH CHỦ KHÍ:

Chủ khí mỗi năm chia ra làm sáu bước, mỗi bước chủ khí bằng 4 tiết Khí theo thứ
tự như sau:

365,25 : 24 x 4 = 60,875 = (15,21875 x 4).

- Sơ khí bắt đầu từ tiết Đại hàn, qua Lập xuân, Vũ thuỷ, Kinh trập.
- Nhị khí, bắt đầu từ tiết Xuân phân, qua Thanh minh, Cốc vũ Lập hạ.
- Tam khí, bắt đầu từ tiết Tiểu mãn, qua Mang chủng, Hạ chí, Tiểu thử.
- Tứ khí, bắt đầu từ tiết Đại thử, qua lập thu, Xử thử, Bạch lộ
- Ngũ khí, bắt đầu từ tiết Thu phân qua Hàn lộ, Sương giáng, Lập đông.
- Chung khí, bắt đầu từ tiết Tiểu tuyết, qua Đại tuyết, Đông chí, Tiểu hàn.
Việc tính từng tiết khí xảy ra ở nước ta vào ngày giờ nào là công việc của cơ quan
làm lịch nhưng ta có thể theo sự xê dịch trong nhiều năm mà biết đại cương như
sau (theo ngày và tháng dương lịch hàng năm).

- Sơ Khí từ 20 tháng 1 đến 21 tháng 3 , có thể + hoặc - 1 ngày.
- Nhị khí, từ khoảng 22 - 3 đến 21 tháng 5, có thể + hoặc - 1 ngày.
Tam khí, từ khoảng 22 - 6 đến 21 tháng 7, có thể + hoặc - 1 ngày .
Tứ khí, từ khoảng 22 - 7 đến 20 tháng 9, có thể + hoặc - 1 ngày.
- Ngũ khí, từ khoảng 2 1 - 9 đến 2 1 tháng 1 1 , có thể + hoặc - 1 ngày.
Chung Khí từ khoảng 22 - 11 đến 20 tháng 1; có thể + hoặc - 1 ngày.

III. CHỦ BỆNH CỦA CHỦ KHÍ:

Chủ bệnh của chủ khí là theo tên của các bước khí và chứng trạng của các tạng

phủ sở thuộc của các đường kinh tương ứng.

1. Tên các bước của chủ khí và đường kinh tương ứng:

Sơ khí, Quyết âm phong mộc, kinh túc quyết âm can (và đảm).
- Nhị khí, Thiếu âm quân hoả, kinh thủ thiếu âm tâm (và tiểu trường).
- Tam khí, Thiếu dương tướng hoả, kinh thủ thiếu dương tam tiêu (và tâm bào).
- Tứ khí, Thái âm thấp thổ, kinh túc thái âm tỳ (và vị) .
- Ngũ khí, Dương minh táo kim, kinh thủ dương minh đại trường (và phế)
- Chung khí, Thái dương hàn thuỷ, kinh túc thái dương bàng quang (và thận).

2. Chứng bệnh theo khí (lục Khí thủ bệnh):

Mọi thứ cứng đơ tay chân đột ngột, co rút gân, gốc là từ ở 2 kinh túc can và đảm,
thuộc khí Quyết âm phong mộc.

Mọi thứ bệnh suyễn, nôn, xót ruột, bạo chú xuống khó chuyển gân; đái đục và có
máu; khối u, kết hạch, ban chẩn, ung nhọt; ghẻ lở, quặn bụng, mất tri thức, uất,
thũng trướng, mũi tắc khô, chảy máu mũi. đái buốt, mình sốt, vừa rét vừa run;
cười khóc, nói nhảm, bẩn thỉu; bụng to như trống có tiếng êm là do khí ở hai kinh
thủ tâm và tiểu trường, thuộc Khí thiếu âm quân hoả.

Bệnh chí và thẳng cứng, tích ẩm, quặn bụng, trướng ở trong và eo hòn cục ở cách;
nặng mình, bụng chân dưới sưng, liệt, thịt như bùn ấn vào không đẩy lên, khí ở 2
kinh túc tỳ và vị, thuộc khí thái âm thấp thổ.

Mọi chứng nghiệm, mất tri thức , eo gân rần rần, hồi hộp, co quắp mất tiếng. theo
cuồng, kinh hãi, khí nghịch lên; bàn chân sưng đau, nôn, ghẻ lở. hầu đau, tai ù,
điếc, nôn đau, nuốt đổ án không được; mắt mờ, có màng hoặc run rẩy như thần
chết; bạo bệnh, bạo tử, bạo chú lợi (đi đại tiện mạnh mà dễ), ở hai kinh thủ tam

tiêu và tâm bào, thuộc Khí thiếu dương tróng hoả,.

Mọi chứng khô, dính, khô đét, nứt nẻ da, khí ở hai kinh thủ phế và đại trường.
thuộc khí Dương minh táo kim.

Mọi thứ nước dịch trên và dưới ra mà lạnh; hòn cục kết rắn; bụng đầy, đau gấp, lị
trắng đỏ, xanh; ăn chưa xong bữa đã đi lỵ tanh; chân tay co duỗi khó và quyết
nghịch, khí của hai kinh túc thận và bàng quang, thuộc Khí thái dương hàn thuỷ.

×