II. MỘT SỐ CÔNG CỤ QUẢN LÝ RỦI RO LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG
NH
Như đã nêu trên, mục tiêu hoạt động của ngân hàng là đảm bảo sự chênh lệch lãi
suất thực dương giữa lãi suất từ việc cho vay vốn và chi phí phát sinh từ việc huy
động vốn. Như vậy có nghĩa là việc quản lý rủi ro lãi suất phải được thực hiện
thường xuyên liên tục tại các ngân hàng thương mại để đo lường mức đọ ảnh
hưởng của lãi suất đến tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng thương mại.
1. Phương pháp phân tích ảnh hưởng chênh lệch tài sản nợ_có đến thu nhập của
ngân hàng khi có sự biến động của lãi suất (Income Gap Analysis) Một cách thực
hiện việc quản lý này đó là áp dụng phương pháp phân tích ảnh hưởng chênh lệch
tài sản nợ có đến thu nhập của ngân hàng khi có sự biến động lãi suất (Income Gap
Analysis). Dưới đây là chi tiết phương pháp tính ảnh hưởng do sự biến động của
lãi suất đến thu nhập ngân hàng.
Bước đầu tiên cần làm khi thực hiện chiến lược quản lý rủi ro theo phương pháp
này là xác định tài sản có và tài sản nợ nhạy cảm với sự biến động lãi suất. Về phía
tài sản có, tài sản có nhạy cảm với lãi suất (interest rate-sensitive assets, viết tắt là
ISAs) đó là tài sản mà có thời gian đáo hạn dưới một năm và những khoản cho vay
với lãi suất phụ thuộc vào lãi suất trên thị trường. Về phái tài sản nợ, tài sản nợ
nhạy cản với lãi suất( interest- rate-sensitive liabities, viết tắt là ISLs) đó là những
khoản huy động vốn với thời gian đáo hạn dưới 1 năm và những khoản huy động
vốn khác gắn liền với lãi suất biến động trên thị trường.
Bước tiếp theo là tính sự chênh lệch giữa hai tài sản này
Sự chênh lệch (GAP) = ISAs – ISLs
Trong đó ISAs tài sản có nhạy cảm với lãi suất
ISLs tài sản nợ nhạy cảm với lãi suất
Trường hợp tài sản nợ nhạy cảm với lãi suất lớn hơn tài sản có nhạy cảm với lãi
suất, sự chênh lệch mang dấu âm (GAP< 0), nếu lãi suất trên thị trường tăng, chi
phí huy động vốn sẽ tăng hơn lãi suất thu được từ việc cho vay, do vậy thu nhập
của ngân hàng giảm. Ngược lại, nếu lãi suất giảm, thu nhập của ngân hàng tăng
lên.
Trường hợp tài sản có nhạy cảm với lãi suất lớn hơn tài sản nợ nhạy cảm với lãi
suất (GAP > 0), nếu lãi suất trên thị trường tăng, lãi suất thu được từ việc đầu tư
vào tài sản có sẽ tăng nhanh hơn chi phi bỏ ra huy động vốn, điều này có nghĩa là
thu nhập của ngân hàng sẽ tăng lên. Ngược lại, nếu lãi suất trên thị trường giảm,
thu nhập ngân hàng giảm.
Trường hợp tài sản có nhạy cảm với lãi suất bằng tài sản nợ nhạy cảm với lãi suất
(GAP = 0), việc tăng giảm lãi suất trên thị trường sẽ có cùng mức độ tác động tài
sản có nhạy cảm và tài sản nợ nhạy cảm, thu nhập của ngân hàng sẽ không thay
đổi.
Dưới đây là bảng tóm tắt tác động của việc thay đổi lãi suất đến thu nhập của NH:
Qua việc phân tích ảnh hưởng của tác động lãi suất đến thu nhấp của ngân hàng,
Ban quản lý tài sản nợ có không những biết được sự thay đổi của lãi suất có tác
động tích cực hay tiêu cực đến thu nhập của ngân hàng mà còn tính được quy mô
của sự tác động đó.
Quy mô của sự tác động đó được tính theo công thức sau:
BI = GAP.i
Trong đó Bi là mức độ thay đổi về thu nhập của ngân hàng,
I là sự thay đổi về lãi suất
GAP = ISAs – ISLs
Ví dụ như một ngân hàng có 150 triệu USD là tài sản có nhạy cảm với lãi suất, 250
triệu USD tài sản nợ nhạy cảm với lãi suất. Với giả thiết là lãi suất tăng 3%. Ban
quản lý tài sản nợ có sẽ tính được mức độ ảnh hưởng đến thu nhập như sau:
GAP = 150 – 250 = - 100
BI = GAP.i = -100. 0,03 = -3 triệu USD
Trong trường hợp này, ngân hàng dự tính thu nhập của ngân hàng giảm 3 triệu
USD nếu lãi suất tăng 3%. Ngược lại, với lãi suất giảm 3% thì thu nhập của ngân
hàng dự tinhd tăng thêm 3 triệu USD.
Như vậy, thông qua việc hiểu được bản chất của mối quan hệ giữa số tiền chênh
lệch tài sản có và tài sản nợ và sự thay đổi về lãi suất, Ban quản lý tài sản nợ có
đưa ra chính sách quản lý một cách hiệu quả rủi ro lãi suất.
/>Thông qua việc dự đoán lãi suất trong tương lai và mức độ rủi ro, Ban quản lý tài
sản nợ có sẽ xác định lượng hoá được mức đọ rủi ro mad ngân hàng gặp phải. Nếu
ngân hàng dự tính lãi suất sẽ tăng trong thời gian tới, Ban quản lý tài sảnnợ có sẽ ra
các biện pháp định hướng để đảm bảo rằng tài sản có nhạy cảm với lãi suất lớn hơn
tài sản nợ nhạy cảm với lãi suất (GAP > 0). Biện pháp thực hiện trong trường hợp
này có thể hạn chế tài sản nợ ngắn hạn, tăng cường huy động nguồn vốn dài hạn.
Hoặc Ban quản lý tài sản nợ có sẽ đưa ra chính sách tăng cường lượng tài sản có
gắng liền với lãi suất có độ biến động lớn như cho vay ngắn hạn nhiều hơn hoặc
đầu tư vào chứng khoán ngắn hạn.
Nếu như Ban quản lý tài sản nợ có dự tính lãi suất sẽ giảm trong tương lai, họ sẽ
đưa ra chính sách để có đựoc tài sản nợ nhạy cảm với lãi suất lớn hơn tài sản có
nhạy cảm với lãi suất (GAP > 0). Điếu đó có nghĩa là tăng cường huy động vốn
ngắn hạn, tăng cường cho vay dài hạn, giảm cho vay ngắn hạn.
Từ công thức (1) cho thấy, độ lớn của GAP càng tăng, mức độ tác động của lãi suất
đến thu nhập ngân hàng càng lớn. Độ lớn của GAP trong mọi trường hợp sẽ được
phụ thuộc vào quan điểm chấp nhận rủi ro, ngân hàng đó sẽ duy trì sự chênh lệch
giữa tài sản có nhạy cảm với lãi suất với tài sản nợ nhạy cảm với lãi suất lớn, (duy
trì GAP lớn). Trương hợp ngân hàng muốn hạn chế rủi ro đến mức độ tối thiểu,
ngân hàng sẽ duy trì khoảng cách giữa hai loại tài sản này nhỏ.
Phương pháp trên là một công cụ hữu hiệu để đo lường ảnh hưởng do sự thay đổi
lãi suất đến thu nhập của ngân hàng. Hiện nay các ngân hàng đã áp dụng một số
phương pháp khác để đánh giá một cách cụ thể hơn tác động của sự thay đổi lãi
suất đến giá trị của tài sản nợ, tài sản có và giá trị ròng của ngân hàng. Trên thực tế,
có 2 loại rủi ro tác động đến việc đầu tư của ngân hàng khi lãi suất thay đổi đó là
rủi ro về giá cả và rủi ro về việc tái đầu tư. Rủi ro về giá( price risk) là rủi ro khi lãi
suất tăng làm cho giá cả thị trường của các khoản cho vay và các khoản đầu tư
chứng khoán giảm. Rủi ro về tái đầu tư (reinvestment risk) là việc giảm lãi suất sẽ
dẫn đến giá trị tương lai của các khoản cho vay và đầu tư chứng khoán giảm. Hai
loại rủi ro này vận động theo hai hướng khác nhau.
Chính vì vậy, các ngân hàng phải đưa ra một phương pháp đo giá trị tài sản của
ngân hàng trong trường hợp có sự thay đổi về mặt lãi suất.