TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNGCỦA HTX NÔNG NGHIỆP PHÚ THÀNH
QUỲNH HẬU, QUỲNH LƯU, NGHỆ AN
Thầy giáo hướng dẫn: Giảng viên Trần Minh Trí
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bảo Cường
Lớp: 37B Kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn
Niên khoá: 2003 - 2008
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH: KTNN & PTNN
Tháng 12/2007
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
1.1 Cơ sở lý luận
Khái niệm:
Phương pháp điều tra
1.1.3 Vai trò HTXNN
1.1.4 Những đặc điểm và bản chất của HTX theo luật ở nước ta
1.1.5 Sự cần thiết khách quan phải nâng cao hiệu quả hoạt động của HTXNN
1.2 Cơ sở thực tiễn:
1.2.1 Lịch sử phát triển của HTX ở một số nước trên thế giới.
1.2.2 Các giai đoạn phát triển HTXNN ở Việt Nam.
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH CƠ BẢN CỦA XÃ QUỲNH HẬU.
2.1 Điều kiện tự nhiên
2.1.1 Vị trí địa lý
2.1.2 Đặc điểm khí hậu
2.2 Điều kiện kinh tế- xã hội
2.2.1 Tình hình đất đai
2.2.2 Tình hình dân số và lao động:
2.2.3 Cơ sở hạ tầng
2.2.4 Tình hình phát triển kinh tế- xã hội:
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HTXNN PHÚ THÀNH QUỲNH
HẬU, HUYỆN QUỲNH LƯU.
3.1 Lịch sử phát triển của HTX Phú Thành Quỳnh Hậu
3.1.1 Thời kỳ 1959- 1975
3.1.2 Thời kỳ 1976-1980
3.1.3 Thời kỳ 1981-1988
3.1.4 Thời kỳ 1989-1996
3.1.5 Thời kỳ 1997- 2007
3.2. Thực trạng HTX nông nghiệp sau chuyển đổi
3.2.1 Tình hình xã viên.
3.2.2 Tình hình vốn của HTXNN
3.2.3 Tình hình cán bộ của BQL HTXNN
3.2.4 Các hoạt động chủ yếu của HTX
3.2.5 Kết quả và hiệu quả hoạt động của HTXNN
CHƯƠNG IV: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ CỦNG CỐ VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HTXNN PHÚ THÀNH, QUỲNH HẬU, QUỲNH
LƯU, NGHỆ AN.
4.1 Định hướng
4.1.1 Định hướng chung
4.1.2 Mục tiêu
4.1.3 Nhiệm vụ cụ thể
4.2 Giải pháp
4.2.1 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến Các chủ trương đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước
Giải pháp chính sách vĩ mô
4.2.2.1 Chính sách xử lý Các loại nợ đối với HTXNN
4.2.2.2 Chính sách tín dụng
4.2.2.3 Chính sách thuế
4.2.2.4 Chính sách hỗ trợ
4.2.2.5 Chính sách đào tạo sử dụng cán bộ HTX và đào tạo nghề cho xã viên
4.2.3 Tăng cường đổi mới chế độ làm việc của HTX.
4.2.4 Tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động của HTX.
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị:
2.1 Đối với Nhà nước
2.2 Đối với Huyện
2.3 Đối với Các tổ chức trong hệ thống chính trị của xã.
2.4 Đối với HTX.
2.5 Đối với xã viên.
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, thực tập và hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp, tôi luôn
nhận được sự quan tâm, truyền đạt kiến thức của tập thể thầy, cô giáo khoa Kinh tế và
phát triển của trường Đại học Kinh tế Huế, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình, chu đáo
của thầy giáo Trần Minh Trí; sự giúp đỡ tạo diều kiện của các đồng chí trong Đảng uỷ,
UBND, HTX nông nghiệp xã Quỳnh Hậu và bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trường Đại học kinh tế Huế, các
đồng chí trong Đảng uỷ, UBND, HTX nông nghiệp Phú Thành xã Quỳnh Hậu đã quan
tâm giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và viết chuyên đề tốt nghiệp.
Với những kiến thức đã được học trong gần 5 năm, những kinh nghiệm tích luỹ
được từ quá trình công tác và sự cố gắng tìm tòi của bản thân để hoàn thành chuyên đề
tốt nghiệp. Tuy nhiên, do kiến thức còn nhiều hạn chế, chắc chắn chuyên đề còn nhiều
thiếu sót. Rất mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý kiến của các thầy, cô giáo, bạn bè, đồng
chí, đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Quỳnh Hậu, ngày 07/3/2008
Sinh viên
Nguyễn Trần Cường
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở nước ta, nông nghiệp có vị trí hết sức quan trọng. Từ trước đến nay Đảng và
Nhà nước rất quan tâm đến sự phát triển ngành nông nghiệp và đã có những chủ trương,
chính sách đúng đắn để đẩy nhanh sự phát triển ở lĩnh vực này.
Trong nông nghiệp, sự ra đời của Hợp tác xã nông nghiệp là một bước đột phá
nhằm thiết lập quan hệ sản xuất mới, đồng thời xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ở khu
vực nông thôn.
Trải qua gần 50 năm xây dựng và củng cố hợp tác xã nông nghiệp đã có những
đóng góp hết sức quan trọng trên nhiều mặt; nổi lên là: xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật,
đưa tiến bộ khoa học kỷ thuật vào sản xuất trên diện rộng; đội ngũ cán bộ trưởng thành;
xây dựng nông thôn mới, con người mới; đời sống nhân dân được cải thiện nhiều mặt;
huy động sức người, sức của đóng góp cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và giải phóng đất
nước
Bước vào cơ chế mới, chính sách của Đảng và Nhà nước có nhiều thay đổi: Hộ
nông dân được xác định là một đơn vị kinh tế tự chủ, được sở hữu một số tư liệu sản
xuất, ruộng đất giao cho hộ nông dân sử dụng lâu dài, được ngân hàng cho vay vốn để
sản xuất… Nói chung là các mối quan hệ về sở hữu, quản lý, phân phối đã thay đổi. Vì
thế, các hợp tác xã nông nghiệp cũ không còn phù hợp về hình thức tổ chức, nội dung
hoạt động và cơ chế quản lý.
Những thành công và không thành công của mô hình hợp tác xã kiểu cũ đã và
đang từng bước được Đảng và Nhà nước tiến hành tổng kết, đúc rút ra bài học kinh
nghiệm để xây dựng, phát triển các tổ hợp tác, hợp tác xã kiểu mới trong điều kiện phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần, đa sở hữu, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa hiện nay. Ngày 13/01/1981, Ban Bí thư TW (khoá V) đã ban hành Chỉ thị
số 100-CT/TW với chủ trương “Khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động
trong sản xuất nông nghiệp”; Ngày 05/4/1988, Bộ chính trị khoá VI ban hành Nghị quyết
số 10-NQ/TW về “Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp”. Dấu ấn quan trọng trong chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về hợp tác xã là sự ra đời của Luật Hợp tác xã
(1996), có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-1997 (Luật này được sửa đổi và bổ sung năm
2003). Luật Hợp tác xã ra đời không những tạo cơ sở pháp lý cho loại hình tổ chức kinh
tế này mà còn nêu lên tư duy mới về hợp tác xã. Theo đó, hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự
chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp
sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã
viên, nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Như vậy,
những người lao động có nhu cầu và tự nguyện tuân thủ các nguyên tắc hợp tác xã đều
có thể tham gia hợp tác xã. Các nguyên tắc cơ bản để thành lập và phát triển hợp tác xã
là: Tự nguyện gia nhập và ra khỏi hợp tác xã; quản lý dân chủ, bình đẳng và công khai;
Tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi; Hợp tác và phát triển cộng đồng Luật Hợp tác xã
ra đời đã thúc đẩy sự phát triển của hợp tác xã. Hàng nghìn hợp tác xã kiểu mới trong tất
cả các lĩnh vực kinh tế đã tạo ra một cách nhìn mới về mô hình hợp tác xã, tự chủ, tự
chịu trách nhiệm trong các hoạt động của mình, có động lực và sức sống, gia nhập thị
trường như các loại doanh nghiệp khác để phát triển. Các hợp tác xã mới hoạt động đều
được điều chỉnh bởi khung luật pháp chặt chẽ, quy định rõ về tổ chức, quan hệ nội bộ
hợp tác xã và quan hệ của hợp tác xã với các tổ chức kinh tế khác. Các hợp tác xã cũ
chuyển đổi theo luật, một bộ phận hợp tác xã cũ không có nội dung hoạt động đã tự giải
thể hoặc xoá tên.
Tại Hội nghị Trung ương 5, khoá IX (2-2002), Ban Chấp hành Trung ương đã
thảo luận và ra Nghị quyết số 13 “Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
kinh tế tập thể”, đã thống nhất nhận thức về quan điểm phát triển kinh tế tập thể. Kinh tế
tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là các hợp tác xã, dựa trên sở
hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, Các hộ
sản xuất, kinh doanh, Các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế, không
giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn Thành viên kinh tế tập thể bao gồm cả thể nhân
và pháp nhân, cả người ít vốn và người nhiều vốn, cùng góp vốn và góp sức trên nguyên
tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Từ các quan điểm, chủ trương
mới đó, Luật Hợp tác xã năm 1996 được nghiên cứu, bổ sung và đến tháng 11-2003,
Quốc hội thông qua Luật Hợp tác xã sửa đổi đã làm rõ hơn các nguyên tắc tổ chức và
quản lý hợp tác xã, đồng thời xác định hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh
nghiệp được tổ chức theo những quy định đặc thù của loại hình kinh tế mang tính dân
chủ và tập thể trong nền kinh tế thị trường, chấp nhận cạnh tranh như các doanh nghiệp
khác để phát triển. Đại hội lần thứ X của Đảng chủ trương tiếp tục đổi mới và phát triển
các loại hình kinh tế tập thể, cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Nghị quyết Đại hội X chỉ rõ, cần “Tổng kết thực
tiễn, sớm có chính sách, cơ chế cụ thể khuyến khích phát triển mạnh hơn các loại hình
kinh tế tập thể đa dạng về hình thức sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh,
bao gồm các tổ hợp tác, hợp tác xã kiểu mới. Chú trọng phát triển và nâng cao hiệu quả
hoạt động của các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã cổ phần. Khuyến khích việc tăng vốn
góp và các nguồn vốn huy động từ thành viên để tăng nguồn vốn hoạt động của hợp tác
xã, tăng vốn đầu tư phát triển, tăng tài sản và quỹ không chia trong hợp tác xã. Hợp tác
xã và các loại hình kinh tế hợp tác hoạt động theo các nguyên tắc: hợp tác tự nguyện;
dân chủ, bình đẳng và công khai; tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi; hợp tác và
phát triển cộng đồng”[1].
Từ sau Hội nghị Trung ương 5, nhất là từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng, nhận thức về đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, phát
triển hợp tác xã có được nâng lên. Tuy nhiên, nhận thức và thực hiện về vấn đề quan
trọng này ở không ít cấp ủy đảng, bộ, ngành, địa phương chưa có chuyển biến đáng kể.
Vấn đề phát triển kinh tế tập thể, phát triển hợp tác xã chưa được chú trọng, đầu tư thoả
đáng. Hệ thống chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể, phát triển hợp tác xã chậm
được bổ sung, hoàn thiện. Hiện nay, các đơn vị kinh tế tập thể, các hợp tác xã rất khó có
khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng, nhất là tín dụng ưu đãi. Đội ngũ cán bộ làm công
tác vận động, chỉ đạo kinh tế tập thể, chỉ đạo hợp tác xã chưa được kiện toàn đồng bộ,
vừa thiếu lại vừa yếu. Phần đông đội ngũ cán bộ các hợp tác xã vẫn ở trong tình trạng
yếu về năng lực, tuổi đời cao, không thật sự yên tâm, thiết tha với công việc. Các hợp tác
xã với năng lực nội tại về vốn liếng, cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn nhân lực không đáp
ứng được yêu cầu đổi mới và phát triển. Phần lớn các hợp tác xã không có mặt bằng để
triển khai các hoạt động, có nhiều hợp tác xã không có trụ sở làm việc. Trình độ nhận
thức, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý, người lao động trong các hợp tác xã vốn đang
rất yếu, lại thiếu gắn bó, không yên tâm làm việc lâu dài. Trình độ tổ chức, năng lực
quản lý trong các hợp tác xã nhìn chung còn yếu. Ở nhiều hợp tác xã (cả chuyển đổi và
mới thành lập), việc tuân thủ các nguyên tắc, giá trị, tuân thủ Các quy định về góp vốn
điều lệ, về tích lũy tài sản vốn quỹ chung chưa bảo đảm.
Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong những năm
qua, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng uỷ, quản lý của chính quyền, hợp tác xã nông
nghiệp Phú Thành xã Quỳnh Hậu đã có nhiều đổi mới phương thức hoạt động nhằm đáp
ứng yêu cầu và đòi hỏi của tình hình. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi hợp tác xã nông
nghiệp chưa có sự chuẩn bị để thích ứng với cơ chế và chính sách kinh tế mới; mặc dù
hợp tác xã đã chuyển đổi sang hợp tác xã kiểu mới, nhưng nhìn chung hoạt động kém
hiệu quả; Hoạt động của bộ máy thiếu đồng bộ, trình độ đội ngũ cán bộ hợp tác xã nhiều
mặt chưa đáp ứng yêu cầu; Vẫn duy trì cơ chế bao cấp, cân đối các khoản thu trên diện
tích canh tác để nuôi bộ máy, trả công cho đội ngũ cán bộ; một bộ phận xã viên không
thiết tha, gắn bó với hợp tác xã. Tình hình đố đang gây một số phân tâm trong cán bộ,
đảng viên và nhân dân và nó làm hạn chế hiệu quả của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của địa phương.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, quá trình nghiên cứu, học tập chuyên ngành
Kinh tế nông nghiệp & phát triển nông thôn. Được sự giúp đỡ, động viên của các thầy,
cô giáo, bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp. Là cán bộ cơ sở đang trực tiếp tham gia các hoạt
động ở địa phương. Để vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn, tôi chọn đề tài “Thực
trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã nông
nghiệp Phú Thành xã Quỳnh Hậu, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An”.
Mục đích nghiên cứu đề tài này là hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về hợp
tác xã nông nghiệp, đánh giá chính xác và khách quan thực trạng hoạt động của hợp tác
xã nông nghiệp của địa phương. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp, biện pháp cụ
thể nhằm góp phần nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp
Phú Thành xã Quỳnh Hậu.
Trong quá trình nghiên cứu tôi sử dụng phương pháp duy vật biện chứng làm cơ
sở, phương pháp luận cho việc nghiên cứu đề tài; phương pháp phân tích kinh doanh để
đánh giá hiệu quả sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã; Các phương pháp thống kê được
vận dụng để thu thập số liệu, tổng hợp và phân tích hoạt động tài chính của hợp tác xã.
PHẦN II
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
I- Khái niệm về HTX:
- Khái niệm về hợp tác xã được ghi tại điều 1, chương I, Luật hợp tác xã năm
2003 như sau: “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp
nhân (sau đây gọi tắt là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức
lập ra theo qui định của pháp luật để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham
gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh
và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế- xã hội của đất
nước.
Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích
luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo qui định của pháp luật”.
- Điều 1, chương I, Nghị định 43/CP ngày 29/4/1997 của Chính phủ nêu định
nghĩa về HTX Nông nghiệp như sau: " Hợp tác xã nông nghiệp là tổ chức kinh tế tự
chủ, do nông dân và người lao động có nhu cầu lợi ích chung, tự nguyện cùng góp sức,
góp vốn, lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của
từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động dịch vụ hỗ trợ cho
kinh tế hộ gia đình của xã viên và kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất chế biến, tiêu thụ
sản phẩm nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và kinh doanh các ngành nghề khác ở
nông thôn, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp".
II- Vai trò của HTX nông nghiệp:
Hoạt động của kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã có vị trí quan trọng trong
các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân; có đóng góp to lớn trong xây dựng
nông thôn, phát triển cộng đồng, đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của dân tộc.
Trước hết, hợp tác xã đã làm tốt việc huy động sức người, sức của góp phần quan
trọng để đánh thắng đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Cùng với nhân
dân, mọi thành phần cả nước, các HTX nông nghiệp đã huy động được hàng chục vạn
thanh niên ra mặt trận, hàng triệu người tham gia phục vụ kháng chiến; thi đua với tiền
tuyến ở hậu phương với khẩu hiệu “Vững tay cày chắc tay súng”, Các hợp tác xã đã
động viên nhân dân duy trì sản xuất, để cung cấp lương thực, thực phẩm cho tiền tuyến;
đồng thời làm tốt công tác hậu phương Quân đội và chăm lo chu đáo cho gia đình neo
đơn, già yếu.
Thực hiện sự nghiệp xây dựng đất nước, các hợp tác xã được củng cố một bước
về tổ chức quản lý, vốn quỹ, về trách nhiệm và quan hệ giữa xã viên với hợp tác xã. Hoạt
động của các hợp tác xã được đổi mới, thiết thực gắn với lợi ích của các thành viên. Phần
lớn hợp tác xã có kế hoạch, phương án hoạt động cụ thể. Các hợp tác xã nông nghiệp đã
làm được các khâu dịch vụ cơ bản, phục vụ sản xuất nông nghiệp; số các hợp tác xã làm
các dịch vụ tổng hợp có xu hướng tăng, hoạt động có hiệu quả hơn.
Các hợp tác xã đã tập hợp hàng chục triệu người lao động, hộ kinh tế gia đình,
kinh tế cá thể, tiểu chủ, các cơ sở sản xuất, kinh doanh nhỏ phân bè trên một khu vực
kinh tế - xã hội rộng lớn có tác động quan trọng, không thể thay thế được đối với nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế, nhất là những ngành nghề như nông nghiệp, thủy hải sản,
tín dụng nhỏ, tiểu thủ công nghiệp và có tác dụng thiết thực đến đời sống, công ăn việc
làm, thu nhập của người lao động, chủ yếu ở khu vực nông thôn và những tầng lớp có
thu nhập thấp. Các tổ chức hợp tác xã còn đóng góp to lớn trong xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, nhất là ở nông thôn, như xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục tiểu
học, mẫu giáo, y tế.
Nhìn chung, hoạt động của hợp tác xã không những phục vụ các nhu cầu kinh tế,
đời sống của xã viên, hộ xã viên và phát triển cộng đồng là chủ yếu, mà còn đóng góp tới
tăng trưởng GDP của đất nước. Thông qua các hoạt động của mình, các hợp tác xã đã
khẳng định được vai trò quan trọng không chỉ đối với sản xuất, kinh doanh, mà còn trở
thành nhân tố không thể thay thế, góp phần thúc đẩy dân chủ hoá, bảo đảm an sinh xã
hội, ổn định chính trị ở cơ sở, .
Hoạt động HTX đóng vai trò quan trọng trong việc làm cầu nối giữa nhà nước với
nông hộ. HTX là cơ sở để huy động vốn, thực hiện khuyến nông, khuyến lâm, khuyến
nuôi, ứng dụng các tiến bộ KHKT, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Mặc khác,
HTX đã thúc đẩy các làng nghề phát triển, các ngành nghề truyền thống được khôi phục,
bảo tồn được giá trị văn hoá góp phần làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn theo hướng CNH-HĐH đất nước.
III- Những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về hợp tác xã:
- Về bản chất: Hợp tác xã là tổ chức tự nguyện của người dân, hợp nhau lại để
tăng thêm sức mạnh. Là “Nhóm lại thành giàu, chia nhau thành khó” hay “Một cây làm
chẳng lên non, nhiều cây chụm lại lên hòn núi cao”
Quan hệ trong hợp tác xã là dân chủ và cùng có trách nhiệm. Đã vào hợp tác xã,
trở thành xã viên thì bất kỳ góp nhiều hay góp ít, vào trước hay vào sau, ai cũng bình
đẳng như nhau về trách nhiệm. Đây là sự khác nhau căn bản giữa hợp tác xã với công ty
cổ phần, trong đó lá phiếu tỷ lệ thuận với vốn góp.
Hợp tác xã trước hết là của những người nghèo, người khó khăn, yếu thế trong xã
hội hợp nhau lại để cùng tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, quan hệ hợp tác hay còn gọi
là chế độ hợp tác xã có thể được áp dụng cho những quan hệ rộng lớn hơn trong xã hội.
Mục đích của hợp tác xã là tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, mưu lợi chung, chung
nhau góp sức cùng có lợi, là hợp tác với nhau để cùng mạnh lên, vươn lên, chống lại sự
áp bức, chống lại tình trạng không bình đẳng về kinh tế, xã hội. Cho nên, hợp tác xã
khác với hội buôn, công ty cổ phần, mưu lợi riêng, lấy mục tiêu chính là lợi nhuận. Hợp
tác xã đồng thời cũng khác hội từ thiện, trong đó chỉ có tiêu đi mà không có làm ra. Hợp
tác xã có tiêu đi, có làm ra, chỉ giúp người trong HTX, nhưng giúp một cách bình đẳng,
mang tính cách mạng sâu sắc, ai cũng được giúp mà ai cũng phải giúp.
Hợp tác xã cũng là một tổ chức dân chủ và cách mạng, nơi tập hợp, giáo dục,
nâng cao trình độ cho người dân, hướng người dân vào những mục đích xã hội tích cực,
tiến bộ và cách mạng.
- Về nguyên tắc tổ chức: Hợp tác xã phải thật sự dân chủ, tự nguyện.
Việc phát triển hợp tác xã phải phù hợp với thực tiễn cuộc sống, không rập khuôn
cứng nhắc, phát triển một cách tuần tự, không nóng vội, tiến hành từ hình thức thấp đến
cao.
Hợp tác xã là tổ chức thiết thực, bình đẳng và cùng có lợi của những người dân,
nhưng để bảo đảm cho sự phát triển hợp tác xã phải có sự lãnh đạo.
Các hợp tác xã cũng phải liên kết với nhau và liên kết với các tổ chức, loại hình
kinh tế - xã hội khác để tạo điều kiện cho sự phát triển.
Nói đến bản chất kinh tế - xã hội của hợp tác xã, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi chế
độ hợp tác xã có nhiều mục tiêu đồng nhất với mục đích của chủ nghĩa xã hội, vì ở một
nước tiểu nông như nước ta, khi toàn bộ nông dân tham gia hợp tác xã cũng có nghĩa là
đi theo con đường đúng đắn để đến ấm no, hạnh phúc. Và mục đích thực chất của chủ
nghĩa xã hội cuối cùng là làm cho toàn bộ xã hội được ấm no, hạnh phúc. Chế độ hợp tác
xã văn minh là thể hiện một mặt, một mức độ nào đó của các đặc trưng, bản chất của chủ
nghĩa xã hội. Trong vấn đề này V.I. Lê-nin cũng đã khẳng định như vậy, “Hợp tác xã
chính là một chủ nghĩa xã hội thu nhỏ”.
Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hợp tác xã vẫn còn nguyên giá trị
trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam. Nghị quyết Đại hội X chỉ rõ, cần “Tổng kết thực
tiễn, sớm có chính sách, cơ chế cụ thể khuyến khích phát triển mạnh hơn các loại hình
kinh tế tập thể đa dạng về hình thức sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh,
bao gồm các tổ hợp tác, hợp tác xã kiểu mới. Chú trọng phát triển và nâng cao hiệu quả
hoạt động của các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã cổ phần. Khuyến khích việc tăng vốn
góp và các nguồn vốn huy động từ thành viên để tăng nguồn vốn hoạt động của hợp tác
xã, tăng vốn đầu tư phát triển, tăng tài sản và quỹ không chia trong hợp tác xã. Hợp tác
xã và các loại hình kinh tế hợp tác hoạt động theo các nguyên tắc: hợp tác tự nguyện;
dân chủ, bình đẳng và công khai; tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi; hợp tác và
phát triển cộng đồng”[1].
IV- Sự cần thiết khách quan phải đổi mới HTX:
Việc đổi mới hợp tác xã nông nghiệp là vấn đề tất yếu, khách quan nhằm đáp ứng
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lê nin về quy luật phát triển xã hội, quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển mà quan hệ sản
xuất không phát triển thì bị kìm hãm và sẽ bị phá vỡ và ngược lại.
Thực tế, lực lượng sản xuất nông nghiệp ở nước ta đã phát triển mạnh mẽ. Như
phần đầu đã nêu, trong nông nghiệp, sự ra đời của Hợp tác xã nông nghiệp là một bước
đột phá nhằm thiết lập quan hệ sản xuất mới. Hợp tác xã chính là để xác lập quan hệ sản
xuất ở nông thôn phù hợp với lực lượng sản xuất đã phát triển ở mức độ cao của quá
trình trao đổi và phát triển kinh tế diễn ra ngày càng nhanh. Do vậy, đổi mới tổ chức
quản lý HTX để phù hợp với yêu cầu của sự phát triển là vấn đề tất yếu, khách quan.
Hiện nay, nước ta đã gia nhập tổ chức Thương mại thế giới và chủ động hội nhập
vào nền kinh tế quốc tế. Do vậy, Đảng và Nhà nước phải có những chủ trương, giải pháp
kịp thời, đúng đắn để khai thác tốt các nguồn lực, nhằm củng cố và xây dựng tiềm lực
đất nước nhất là tiềm lực kinh tế. Trong đó, chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế,
tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các thành phần kinh tế có đủ sức để hội nhập, cạnh tranh
lành mạnh là vấn đề quan trọng. Do đó, việc đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới phương
thức hoạt động và qui mô các loại hình kinh tế hợp tác và hợp tác xã nhằm tạo điều kiện
và môi trường thuận lợi để các thành phần kinh tế vươn lên ngang tầm với yêu cầu của
xu thế phát triển.
Chúng ta đang thực hiện CNH-HĐH đất nước mà nông thôn chiếm gần 80% ,nền
nông nghiệp với điểm xuất phát thấp. Tình trạng độc canh cây lúa phổ biến ở nhiều
vùng. Nhìn chung nông nghiệp nước ta chưa thoát khỏi nền sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất
kỹ thuật còn yếu, công nghệ lạc hậu, năng suất thấp. Vì vậy, để thực hiện CNH-HĐH
nông nghiệp nông thôn, không thể dựa vào cách tổ chức quản lý với quy mô nhỏ của
từng hộ gia đình mà phải có sự liên kết, hợp tác với nhau giữa các hộ gia đình, nhóm hộ
gia đình với các thành phần kinh tế khác và ngược lại.
Do điều kiện nền sản xuất ở khu vực nông nghiệp, nông thôn ở nước ta nhỏ lẻ,
trình độ lạc hậu, nên khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đa số nông dân gặp khó
khăn về vốn, khoa học công nghệ, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, khai thác các điều kiện tự
nhiên như thuỷ lợi, đất đai Sản xuất kinh tế hộ đã tạo ra một lượng hàng hoá lớn nhưng
chất lượng không đều, hàng hoá không tiêu thụ được trên thị trường. Hộ nông dân
thường bị các thành phần kinh tế khác ép giá, phải chịu thiệt thòi về kinh tế. Như vậy,
kinh tế hộ nông dân đang đứng trước yêu cầu được sự hỗ trợ, đặc biệt là vấn đề tiêu thụ
sản phẩm. Do đó hộ nông dân liên kết với nhau thành HTX là một nhu cầu thực tế. Các
HTX trước đây theo mô hình tập thể hoá bao cấp chỉ giải quyết một số khâu đầu vào
thông qua sản xuất, chưa giải quyết đầu ra cho nông hộ. Do đó, cần đổi mới quản lý
HTX để vươn lên giúp đỡ cho nông hộ trong lĩnh vực này. Trong điều kiện kinh tế hộ và
kinh tế HTX có nhiều liên quan mật thiết kinh tế hộ phát triển là điều kiện tiền đề thúc
đẩy sự phát triển kinh tế HTX và ngược lại.Kinh tế HTX phát triển nhằm hỗ trợ cho sự
phát triển kinh tế hộ.
Hơn nữa, phát triển kinh tế hợp tác xã ở nước ta không chỉ nhằm mục đích kinh tế
mà còn là mục tiêu của xã hội. Những người lao động trong nông thôn chủ yếu là người
nghèo, chỉ có hợp tác với nhau để tạo ra sức mạnh trong sản xuất, kinh doanh, góp phần
tạo việc làm và tăng thu nhập thực hiện việc làm giàu chính đáng đi đôi với xoá đói,
giảm nghèo. Các tổ chức kinh tế hợp tác, nhất là trong nông thôn, không chỉ gắn bó về
kinh tế, mà còn được hình thành và phát triển trên cơ sở tình nghĩa xóm làng, góp phần
thực hiện các chính sách xã hội trên địa bàn, tuy không làm thay chức năng xã hội của
các tổ chức khác.
V- Các giai đoạn phát triển của hợp tác xã nông nghiệp ở nước ta:
Ở nước ta, kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó
hợp tác xã là nòng cốt đã có một quá trình lịch sử. Sự phát triển hợp tác xã có thể chia
làm những giai đoạn như sau:
- Từ năm 1954 - 1957: đây là những năm chúng ta có chủ trương, đường lối và
chính sách về tổ chức các tổ đổi công, hợp tác xã phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh về
hợp tác hoá nông nghiệp. Tinh thần này được thể hiện trong Chỉ thị số 31- CT/TW ngày
30-6-1955 của Trung ương Đảng và Các chỉ thị khác của Bộ Chính trị nhằm hướng dẫn,
chỉ đạo Các nguyên tắc và phương pháp xây dựng và phát triển hợp tác xã. Vì vậy,
chúng ta đã thu được nhiều thắng lợi, phong trào tổ đổi công, phát triển hợp tác xã trong
những năm khôi phục kinh tế phát triển lành mạnh, góp phần quan trọng vào thúc đẩy
sản xuất nông nghiệp, nâng cao đời sống nông dân, cung cấp nhiều nông sản cho xã hội.
- Từ năm 1958 - 1980: Đây là thời kỳ mở rộng hợp tác hoá nông nghiệp ở tất cả
các địa phương miền Bắc, thu hút 89% các hộ nông dân vào các hợp tác xã sản xuất
nông nghiệp. Hợp tác xã nông nghiệp thời kỳ này đã đạt được một số thành tựu quan
trọng, thúc đẩy phong trào thâm canh tăng năng suất, cải thiện đời sống của nông dân, tổ
chức, động viên nhân dân thực hiện các đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
Đặc biệt, các hợp tác xã có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm và cung ứng sức
người, sức của cho công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước với
khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”.
Tuy nhiên, do nóng vội, chủ quan, lấy mục tiêu cải tạo xã hội chủ nghĩa là then
chốt, chạy theo số lượng, mở rộng quy mô hợp tác xã quá nhanh, không tính toán đầy đủ
đến trình độ phát triển lực lượng sản xuất ở nông thôn cũng như năng lực quản lý của đội
ngũ cán bộ nên hợp tác xã không phát huy được hiệu quả kinh tế- xã hội. Các đợt cải tiến
quản lý hợp tác xã nông nghiệp thời kỳ này không đạt kết quả như mong muốn. Sau khi
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, điều kiện phát triển kinh tế đã thay đổi,
nhưng mô hình hợp tác xã nông nghiệp vẫn không đổi mới, làm cho khu vực sản xuất
nông nghiệp lâm vào khủng hoảng.
- Từ năm 1980 - 1985: Đảng và Nhà nước ta đã phát hiện nhiều sai sót và từng
bước điều chỉnh đường lối, chính sách kinh tế nói chung trong đó có đường lối, chính
sách phát triển hợp tác xã nông nghiệp như: quy mô hợp tác xã cần giữ ổn định trong
một số năm, không nên quá lớn, không cưỡng ép, mệnh lệnh, lấy kết quả sản xuất làm
căn cứ Chỉ thị 100 của Ban Bí thư chủ trương mở rộng việc thực hiện và hoàn thiện
các hình thức khoán sản phẩm trong nông nghiệp đã mở ra những hình thức hợp tác gắn
bó chặt chẽ hơn trách nhiệm và quyền lợi thực tế của người nông dân, giải phóng sức sản
xuất, tạo ra động lực mới cho sự phát triển của nông nghiệp nước ta.
- Từ năm 1986 đến nay, cùng với quá trình đổi mới và đi lên của đất nước,
những chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước đối với hợp tác xã đã có nhiều thay
đổi, đã từng bước được hoàn thiện qua các kỳ đại hội và cụ thể hoá từ các kỳ họp Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng. Nhìn chung
các chủ trương, đường lối về hợp tác xã của Đảng và Nhà nước đều thể hiện sự nhất
quán, khẳng định sự tồn tại lâu dài của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, bao gồm
kinh tế tập thể và hợp tác xã trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại
hội lần thứ X của Đảng (năm 2006) đã khẳng định “Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh
tế quốc dân”. Hợp tác xã ở nước ta đã được xác định vừa là tổ chức kinh tế, vừa là tổ
chức xã hội, là nhân tố quan trọng để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; là
hình thức tổ chức quan trọng để người lao động, hộ xã viên tiếp nhận sự hỗ trợ của Nhà
nước, liên kết với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, thực hiện liên minh công
nông. Các chủ trương, đường lối của Đảng, hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước
về hợp tác xã thời kỳ này đã tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của hợp tác xã, bao
gồm Hiến pháp năm 1992, Luật Hợp tác xã năm 1997, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
Luật Hợp tác xã năm 2003 và nhiều chính sách cụ thể khác, nhằm tạo điều kiện thuận lợi
hỗ trợ hợp tác xã phát triển, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh để
có thể tham gia bình đẳng trong nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần kinh tế.
Đánh giá thực tiễn phát triển của hợp tác xã trong giai đoạn này, có thể thấy rằng:
- Chúng ta cơ bản đã chuyển đổi xong các hợp tác xã cũ, giải thể các hợp tác xã
hình thức, không còn hoạt động, thành lập mới được nhiều hợp tác xã. Các hợp tác xã
(bao gồm cả chuyển đổi và thành lập mới) nhìn chung đều tuân thủ những nguyên tắc,
quy định của Luật Hợp tác xã.
- Các hợp tác xã chuyển đổi đã bước đầu khắc phục được tình trạng thua lỗ kéo
dài và tính hình thức, không rõ ràng về xã viên và tài sản.
- Các hợp tác xã đã thu hút được hàng chục triệu người lao động, hộ kinh tế gia
đình, kinh tế cá thể, tiểu chủ, các cơ sở sản xuất, kinh doanh nhỏ, góp phần tích cực vào
chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và phát triển sản xuất ở nhiều địa
phương trong cả nước.
- Nhiều hợp tác xã đã tham gia cung ứng các dịch vụ thiết yếu cho xã viên (thủy
lợi, khuyến nông, cung ứng vật tư, điện, tiêu thụ sản phẩm, ) để phục vụ sản xuất nông
nghiệp.
- Quá trình phát triển hợp tác xã mới được đẩy mạnh theo hướng tích cực và đa
dạng hơn. Đã xuất hiện được nhiều mô hình hợp tác xã chuyên ngành, liên hiệp hợp tác
xã, nhiều hình thức liên kết hợp tác xã với các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế khác
với nội dung liên kết đa dạng, phong phú.
- Nhiều hợp tác xã còn thực hiện tốt chức năng xã hội thông qua tham gia hoạt
động phát triển nông thôn, như: xoá đói, giảm nghèo, xây dựng kết cấu hạ tầng nông
thôn, hỗ trợ các hộ nghèo phát triển sản xuất
Tuy có những chuyển biến tích cực, nhưng đánh giá một cách thẳng thắn rằng,
những chuyển biến đó vẫn chưa đủ mức để tạo nên những bước ngoặt về chất trong phát
triển của hợp tác xã, nhất là để hợp tác xã vươn lên xứng đáng với vị trí, vai trò của một
thành phần kinh tế như trong các nghị quyết của Đảng đã đặt ra đối với kinh tế tập thể.
Tình hình chung của một bộ phận không nhỏ các hợp tác xã vẫn chưa thoát khỏi tình
trạng yếu kém, còn nhiều tồn tại, khó khăn như:
- Tính hình thức trong chuyển đổi hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã vẫn chưa được
khắc phục. Như, đa số xã viên các hợp tác xã chuyển đổi khi tham gia hợp tác xã không
có đơn và vốn góp mới, như vậy không đáp ứng được yêu cầu cơ bản là muốn gia nhập
hợp tác xã xã viên phải góp vốn.
- Nhiều hợp tác xã quy mô còn nhỏ, thiếu vốn, tài sản ít, chậm đổi mới, khả năng
cạnh tranh thấp. Đa số hợp tác xã vẫn tập trung vào các dịch vụ truyền thống như thủy
lợi, khuyến nông Nhiều hợp tác xã chưa có trụ sở riêng, nhiều tài sản của hợp tác xã
chưa gắn với quyền sử dụng đất, nhiều cơ sở dịch vụ chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất làm cho hợp tác xã thiếu tính độc lập, tự chủ trong kinh doanh.
- Đội ngũ cán bộ quản lý hợp tác xã còn hạn chế về trình độ, năng lực. Nhiều cán
bộ quản lý chưa qua tập huấn nghiệp vụ, làm việc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, còn
thiếu yên tâm làm việc ổn định lâu dài trong hợp tác xã, chủ yếu do chế độ thù lao cho
cán bộ hợp tác xã còn thấp Nhiều hợp tác xã, cả hợp tác xã đã chuyển đổi và hợp tác xã
thành lập mới, chưa bảo đảm tuân thủ những nguyên tắc, giá trị hợp tác xã, các quy định
về góp vốn, điều lệ, về tích lũy tài sản vốn quỹ chung, vốn không chia
- Hoạt động của các hợp tác xã còn thiếu gắn bó với nhau, chưa có sự liên kết hệ
thống chặt chẽ cả về mặt kinh tế, xã hội và về tổ chức. Tuy đã hình thành được một số
liên hiệp hợp tác xã, nhưng quy mô nhỏ, hiệu quả chưa cao, hỗ trợ hợp tác xã thành viên
còn ít.
- Công nợ trong hợp tác xã, nhất là trong các hợp tác xã chưa chuyển đổi, mới
chuyển đổi, chưa được xử lý rõ ràng, dứt điểm nên cũng làm cản trở hoạt động của hợp
tác xã.
CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH CƠ BẢN CỦA XÃ QUỲNH HẬU,
HUYỆN QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN
I- ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
Quỳnh Hậu là xã thuộc vùng trung tâm huyện Quỳnh Lưu, phía Bắc giáp xã
Quỳnh Thạch, phía Tây giáp xã Quỳnh Hoa, phía Nam giáp xã Quỳnh Hồng và Quỳnh
Bá, phía Đông giáp xã Quỳnh Đôi. Có đường Quốc lộ 1A đi qua xã dài 2km, 3 tuyến
đường liên hương xã dài 5 km. Các trục đường đường liên xóm dài 20 km được bê tông
hoá tạo diều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
Quỳnh Hậu là xã nằm ở khu vực Bắc Trung bộ nên chịu ảnh hưởng của vùng khí
hậu nhiệt đới gió mùa, được chia làm hai mùa rõ rệt( mùa mưa và mùa khô). Mùa mưa
bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10, lượng mưa trung bình hàng năm từ 2700- 3000mm và
phân bố không đều nên thường gây lũ lụt; đây là thời gió Tây nam (gió Lào) và gió Đông
nam hoạt động mạnh thời tiết thời gian này rất nắng nóng và khó chịu, nhiệt đọ bình
quân từ 36 – 37
o
c, thậm chí có ngày nhiệt độ lên tới 40 – 41
o
c; đây cũng là thời gian bị
ảnh hưởng của các cơn bão. Mùa khô (mùa đông) bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 năm
sau, đây là thời kỳ chịu ảnh hưởng gió mùa Đông Bắc, khi gió mùa Đông Bắc hoạt động
mạnh nhiệt độ trung bình trong ngày giảm từ 5-7
o
c, nhiệt độ thấp nhất trong thời gian
này dưới 13
o
c, thậm chí có ngày nhiệt độ xuống > 10
o
c tạo nên những đợt rét đậm, rét hại
kéo dài. Do thời tiết và khí hậu diễn biến thất thường đã làm ảnh hưởng rất lớn đến sản
xuất và đời sống của nhân dân.
II- ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, XÃ HỘI:
1- Tình hình đất đai của xã Quỳnh Hậu
Qua số liệu ở bảng 1 ta thấy: diện tích đất tự nhiên và đất chưa sử dụng của xã 3
năm là không thay đổi, diện tích đất các loại khác biến động qua từng năm. Trong những
năm đến con số này sẽ có sự thay đổi lớn bởi các lý do: năm 2008 địa phương sẽ tập
trung động viên nhân dân chuyển đổi ruộng dất nên một số diện tích đất nông nghiệp sẽ
chuyển sang đất chuyên dùng để mở rộng hệ thống giao thông, thuỷ lợi nội đồng và xây
dựng các mô hình trang trại; nhu cầu đất ở của các hộ gia đình tương đối lớn; một số
doanh nghiệp có ý định đầu tư xây dựng các khu dịch vụ, thương mại, các khu công
nghiệp vừa và nhỏ.
Bảng 1: Cơ cấu và tình hình biến động đất của xã Quỳnh Hậu:
Chỉ tiêu
2005 2006 2007
So sánh
2007-2005
Ha % Ha % Ha % +/- %
Diện tích đất tự nhiên 529 100 529 100 529 100 0 100
1. Đất nông nghiệp 436,03 82,43 433,16 81,88 432,04 81,67 -3,99 99,08
a. Đất sx nông
nghiệp
418,85 79,18 415,98 78,64 414,86 78,42 -3,99 99,05
b. Đất nuôi trồng
thuỷ sản
17,18 3,25 17,18 3,25 17,18 3,25 0 100
2. Đất phi
nôngnghiệp
90,97 17,2 93,84 17,74 94,96 17,95 3,99 104,4
a. Đất ở 37,7 7,13 39,91 7,54 40,91 7,73 3,21 108,5
b. Đất chuyên
dùng
31,71 6 32,45 6,13 32,57 6,17 0,86 102,7
c. Đất nhà thờ các
dòng họ
0,35 0,07 0,35 0,07 0,35 0,07 0 100
d. Đất nghĩa trang
4,73 0,89 4,73 0,89 4,73 0,89 0 100
e. Đất mặt nước
chuyên dùng
16,4 3,1 16,4 3,1 16,4 3,1 0 100
3. Đất chưa sử dụng
2 0,38 2 0,38 2 0,38 0 100
Diện tích đất chưa sử dụng 2 ha, đây là vùng đất núi đá vôi trước đây đã được
khai thác xong trước năm 2000, thời gian tới địa phương sẽ có cơ chế khuyến khích các
cá nhân đầu tư mở trang trại chăn nuôi kết hợp với trồng cây lâu năm.
Với cơ cấu diện tích đất của xã nói trên, thời gian tới xã sẽ có nhiều biện pháp,
giải pháp tốt hơn để sử dụng từng loai đất, các vùng đất nhằm qui hoạch tạo ra các vùng
chuyên canh sản xuất lương thực, thực phẩm chất lượng cao (gạo, nếp; rau, củ, quả sạch,
lợn, gà ) cung ứng cho khu đô thị Hoàng Mai; Đồng thời qui hoạch diện tích đất cạnh
Quốc lộ 1A và những nơi thuận lơi để xây dựng khu dịch vụ thương mại tập trung cung
cấp và làm vệ tinh phục vụ khu Công nghiệp Hoàng Mai, Thị trấn Cầu Giát và các xã
trong vùng.
2)Tình hình dân số và lao động của xã:
Bảng 2: Tình hình dân số và lao động của xã.
Chỉ tiêu
Đơn
vị tính
Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 2007/2005