Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Báo cáo khoa học: "LIÊN HỢP QUỐC VỚI VAI TRÒ GIỮ GÌN HÒA BÌNH VÀ AN NINH THẾ GIỚI " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.82 KB, 20 trang )

LIÊN HỢP QUỐC VỚI VAI TRÒ GIỮ GÌN
HÒA BÌNH VÀ AN NINH THẾ GIỚI
TRẦN PHÚ VINH
ThS, Khoa Luật Quốc tế - ĐH Luật TP.HCM

I. LƯỢC SỬ THÀNH LẬP LIÊN HỢP QUỐC
1. Về quá trình thành lập:
Quá trình thành lập tổ chức Liên hợp quốc trải qua
các giai đoạn chính sau:
Ngày 12/06/1941 các nước đồng minh chống phát xít
ký tại London bản tuyên bố khẳng định họ sẽ “cùng
hợp tác với nhau và các dân tộc tự do khác, kể cả
trong chiến tranh cũng như hòa bình”. Đây là bước
đầu tiên trong hàng loạt nỗ lực nhằm dẫn đến việc
thành lập Liên hợp quốc.
Ngày 14/08/1941, tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt
và thủ tướng Anh Winston Churchill đã ký văn kiện
nêu ra các nguyên tắc hợp tác quốc tế nhằm duy trì
hòa bình và an ninh thế giới. Văn kiện này về sau có
tên gọi là Hiến chương Đại Tây dương.
Ngày 1/1/1942 tại Washington, đại diện 26 nước đã
ký bản tuyên bố cam kết sử dụng mọi nguồn lực có
thể có của mình để chống lại khối trục Đức - Ý -
Nhật và cam kết không ký thỏa ước riêng với các
nước thuộc khối này. Bản tuyên bố này lần đầu tiên
sử dụng nhóm từ “các quốc gia liên hợp” (United
Nations) tức Liên hợp quốc do Tổng thống F.
Roosevelt đề xướng.
Ngày 30/10/1943, Chính phủ Liên xô, Anh, Mỹ,
Trung Hoa dân quốc ký tại Moscow bản tuyên bố kêu
gọi sớm thành lập một tổ chức quốc tế với chức năng


duy trì hòa bình và an ninh thế giới. Quyết định này
đã được khẳng định một lần nữa tại hội nghị cấp cao
giữa nguyên thủ quốc gia ba nước Liên Xô, Anh và
Mỹ tại Teheran ngày 1/12/1943.
Hội nghị các đại diện của Liên Xô, Anh và Mỹ họp
tại lâu đài Dumbarton Oaks ở Washington D.C từ
ngày 21/09/1944 đến ngày 07/10/1944 đã soạn thảo
những đề xuất sơ bộ về việc thành lập một tổ chức
quốc tế chung nhằm duy trì hòa bình và an ninh thế
giới. Về cơ bản đây là nền móng của Hiến chương
sau này. Tuy nhiên hội nghị chưa quyết định được
một loạt vần đề như thủ tục bỏ phiếu tại Hội đồng
bảo an, quy chế của lãnh thổ quản thác, quy chế của
Tòa án quốc tế,
Ngày 11/02/1945, tại hội nghị Yalta (Liên xô cũ)
giữa các nhà lãnh đạo các nước đồng minh, tổng
thống Mỹ Franklin Roosevelt, thủ tướng Anh
Winston Churchill và nguyên soái Liên xô Stalin ra
tuyên bố khẳng định quyết tâm thành lập “một tổ
chức quốc tế chung nhằm duy trì hòa bình và an ninh
thế giới”.
Ngày 25/04/1945, tại San Fransisco, đại biểu của 50
nước đã tham dự cuộc họp quan trọng có tên là Hội
nghị các quốc gia liên hiệp về các tổ chức quốc tế
(United Nations Conference on International
Organizations). Các nước đã soạn thảo một văn bản
Hiến chương gồm 111 điều khoản và được ký ngày
26/6/1945. Hiến chương bắt đầu có hiệu lực từ ngày
24/10/1945 và từ đó cả thế giới lấy ngày này kỷ niệm
ngày thành lập Liên hợp quốc.

2. Về trụ sở của Liên hợp quốc:
Trụ sở Liên hợp quốc cao 39 tầng phía đông hòn đảo
Manhattan, NewYork, Mỹ trên một thửa đất rộng 18
mẫu Anh. Tại phiên họp đầu tiên của Đại hội đồng tại
London ngày 14/02/1946, các thành viên Liên hợp
quốc đã chấp thuận chọn New York làm trụ sở trong
số các thành phố New York, Philadelphia, Boston và
San Fransisco do lời cam kết của tỷ phú Mỹ
Rockefeller tặng 8,5 triệu USD để mua mảnh đất nói
trên. Ngày 21/11/1947 Đại hội đồng Liên hợp quốc
thông qua kế hoạch xây trụ sở với kinh phí 65 triệu
USD và đến ngày 21/08/1950 những nhân viên đầu
tiên của Ban thư ký đã đến làm việc tại trụ sở mới.
Khóa họp đầu tiên (khóa VII) của Đại hội đồng Liên
hợp quốc tại trụ sở mới vào ngày 14/10/1952. Phòng
lớn nhất của trụ sở là phòng họp của Đại hội đồng
chiếm 3 tầng 2, 3 và 4 với chiều dài 50m, rộng 35m
có 1092 chỗ ngồi chính thức, 476 chỗ dành cho các
đại biểu dự khuyết, đại diện các cơ quan chuyên môn,
187 chỗ dành cho đại diện các đoàn thể quần chúng
tham gia một số phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng.
Hiện nay, Liên hợp quốc có khoảng 17.000 nhân
viên, trong đó 7.075 người làm việc tại trụ sở Liên
hợp quốc.
II. MỤC ĐÍCH, NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG VÀ
THÀNH VIÊN CỦA LIÊN HỢP QUỐC
1. Mục đích hoạt động của Liên hợp quốc:
Liên hợp quốc được thành lập nhằm mục đích:
- Duy trì hòa bình và an ninh thế giới và để đạt được
mục đích đó, thi hành các biện pháp tập thể có hiệu

quả để phòng ngừa và loại trừ mối đe dọa hòa bình,
cấm mọi hành vi xâm lược hoặc phá hoại hòa bình
khác, điều chỉnh hoặc giải quyết bằng phương pháp
hòa bình các tranh chấp quốc tế theo đúng các
nguyên tắc của công lý và pháp luật quốc tế.
Phát triển những quan hệ hữu nghị giữa các nước trên
cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng, các dân tộc tự
quyết và dùng tất cả những biện pháp thích hợp khác
để củng cố hòa bình thế giới.
- Thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết
các vấn đề quốc tế về kinh tế, chính trị, xã hội, văn
hóa và nhân đạo trong việc khuyến khích phát triển
và sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do cơ
bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc,
nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo.
- Trở thành trung tâm phối hợp mọi hành động của
các dân tộc nhằm đạt được những mục đích nêu
trên.1
2. Nguyên tắc hoạt động của Liên hợp quốc:
Liên hợp quốc hoạt động theo những nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền của tất cả các
nước thành viên.
- Nguyên tắc các nước thành viên Liên hợp quốc phải
làm tròn những nghĩa vụ mà họ đã cam kết theo Hiến
chương.
- Nguyên tắc giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng
biện pháp hòa bình, sao cho không tổn hại đến hòa
bình, an ninh và công lý.
- Nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực hay sử dụng vũ
lực trong quan hệ quốc tế.

- Nguyên tắc các nước thành viên Liên hợp quốc phải
giúp đỡ đầy đủ Liên hợp quốc trong mọi hành động
của Liên hợp quốc theo đúng các điều quy định của
Hiến chương này và không được giúp đỡ bất kỳ một
nước nào bị Liên hợp quốc áp dụng một hành động
phòng ngừa hoặc cưỡng chế.
- Nguyên tắc đảm bảo để các nước không phải là
thành viên Liên hợp quốc cũng hành động theo các
nguyên tắc này vì nó cần thiết để duy trì hòa bình và
an ninh thế giới.
- Nguyên tắc không cho phép Liên hợp quốc can
thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền nội
bộ của bất kỳ quốc gia nào.2
3. Thành viên của Liên hợp quốc
Hiến chương Liên hợp quốc quy định muốn trở thành
thành viên của Liên hợp quốc thì các quốc gia phải
thỏa mãn các tiêu chuẩn sau: thứ nhất phải là quốc
gia yêu chuộng hòa bình (peace-loving states) và thừa
nhận những nghĩa vụ ghi trong Hiến chương; thứ hai,
phải được Liên hợp quốc xét có đủ khả năng và tự
nguyện làm tròn những nghĩa vụ đó.3
Hiến chương còn quy định việc kết nạp bất kỳ một
quốc gia nào vào Liên hợp quốc sẽ được tiến hành
bằng nghị quyết của Đại hội đồng, theo đề nghị của
Hội đồng bảo an.4
III. CÁC CƠ QUAN CỦA LIÊN HỢP QUỐC
1. Các cơ quan chủ yếu của Liên hợp quốc (Primary
organs of United Nations):
Liên hợp quốc có 6 cơ quan chủ yếu là: Đại hội đồng,
bao gồm tất cả các quốc gia thành viên, ba cơ quan

có chức năng chuyên môn đặc biệt và bao gồm số
lượng nhất định các quốc gia thành viên (Hội đồng
bảo an, Hội đồng kinh tế và xã hội và Hội đồng quản
thác), và hai cơ quan không bao gồm các quốc gia
thành viên mà thành viên là những cá nhân (Ban thư
ký và Tòa án quốc tế). Theo Hiến chương Liên hợp
quốc, Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (United
Nations Securiry Council) là cơ quan lãnh đạo chính
trị thường trực của Liên hợp quốc.
1.1. Hội đồng bảo an
a. Chức năng của Hội đồng bảo an
Hội đồng bảo an là cơ quan được các thành viên Liên
hợp quốc trao cho trách nhiệm trong việc duy trì hòa
bình và an ninh thế giới.5 Các thành viên Liên hợp
quốc thừa nhận rằng khi làm những nghĩa vụ do trách
nhiệm được giao thì Hội đồng bảo an hành động với
tư cách thay mặt cho các thành viên.6 Hòa bình
(peace) được hiểu là trong quan hệ quốc tế không có
xung đột vũ trang. An ninh (security) được hiểu là
không có xung đột mà có khuynh hướng gây nên
những xung đột vũ trang.
Hội đồng bảo an có quyền điều tra bất cứ vụ tranh
chấp hoặc tình thế nào mà có thể dẫn đến bất hòa
giữa các quốc gia.7
Hội đồng bảo an có chức năng yêu cầu các bên tranh
chấp giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng phương
pháp hòa bình.8 Phương pháp hòa bình được Hiến
chương Liên hợp quốc đề cập đến là đàm phán
(negotiation), điều tra (enquiry), trung gian
(mediation), hòa giải (conciliation), trọng tài

(arbitration), bằng con đường tư pháp (judicial
settlement), bằng việc sử dụng những cơ quan hoặc
những hiệp định khu vực, hoặc bằng các biện pháp
hòa bình khác do các bên lựa chọn.9
Hội đồng bảo an là cơ quan xác định sự đe dọa hòa
bình, phá hoại hòa bình hoặc hành vi xâm lược và
đưa ra những kiến nghị hoặc quyết định những biện
pháp để duy trì hoặc khôi phục hòa bình và an ninh
thế giới10. Những biện pháp mà Hội đồng bảo an có
quyền quyết định bao gồm: thứ nhất, Hội đồng bảo
an yêu cầu các thành viên áp dụng các biện pháp kinh
tế và các biện pháp khác (không bao gồm dùng vũ
lực) như đình chỉ một phần hay toàn bộ những quan
hệ kinh tế, đường sắt, hàng hải, hàng không, bưu
chính, điện tín, vô tuyến điện và các phương tiện giao
thông khác (cấm vận), cắt đứt quan hệ ngoại giao để
ngăn chặn hoặc chấm dứt hành động xâm lược11.
Thứ hai, Hội đồng bảo an thực hiện hành động quân
sự đối với quốc gia có hành động xâm lược như dùng
các lực lượng hải, lục, không quân nếu xét thấy cần
thiết cho việc duy trì hoặc khôi phục hòa bình và an
ninh thế giới. Hành động này còn bao gồm cả những
cuộc thị uy, những biện pháp phong tỏa và những
cuộc hành binh khác, do các lực lượng hải, lục,
không quân của những thành viên Liên hợp quốc
thực hiện12. Các quốc gia thành viên có nghĩa vụ
cung cấp cho Hội đồng bảo an những lực lượng vũ
trang, sự viện trợ và mọi phương tiện phục vụ khác
kể cả việc cho quân đội Liên hợp quốc qua lãnh thổ
của mình khi cần thiết cho việc duy trì hòa bình và an

ninh thế giới13. Các quốc gia thành viên sẽ tổ chức
một số phi đội không quân của nước mình sẵn sàng
chiến đấu nhằm phối hợp thực hiện một hành động
quốc tế có tính chất cưỡng chế14. Cơ quan giúp Hội
đồng bảo an để chỉ huy lực lượng vũ trang của Liên
hợp quốc là Ban tham mưu quân đội gồm tham mưu
trưởng các nước ủy viên thường trực Hội đồng bảo
an15.
Hội đồng bảo an là cơ quan đề nghị việc kết nạp
thành viên mới của Liên hợp quốc16 và đề nghị các
điều kiện để các quốc gia có thể trở thành thành viên
của Qui chế Tòa án quốc tế.17
Hội đồng bảo an thực hiện chức năng bảo trợ của
Liên hợp quốc đối với các khu vực chiến lược
(strategic areas).18
Hội đồng bảo an đề nghị Đại hội đồng bầu Tổng thư
ký Liên hợp quốc19 và cùng với Đại hội đồng bầu
các thẩm phán của Tòa án quốc tế.20
Hội đồng bảo an còn đóng một vai trò quan trọng
trong việc phát triển hoạt động gìn giữ hòa bình của
Liên hợp quốc (UN peacekeeping operations).
b. Thành phần của Hội đồng bảo an
Hội đồng bảo an gồm 15 ủy viên, trong đó có 5 ủy
viên thường trực (permanent members) là Anh, Pháp,
Mỹ, CHND Trung Hoa21, CHLB Nga22 và 10 ủy
viên không thường trực (non-permanent members)23
được Đại hội đồng bầu ra với nhiệm kỳ 2 năm. Khi
bầu các ủy viên không thường trực, Đại hội đồng
phải đặc biệt tính đến sự đóng góp của thành viên
Liên hợp quốc vào việc duy trì hòa bình và an ninh

thế giới, vào các mục đích khác của Liên hợp quốc
cũng như lưu ý đến sự phân bố công bằng theo khu
vực địa lý24. Việc phân bố các ủy viên không thường
trực được quy định như sau:
- Các nước Châu Á và Châu Phi : 5 ủy viên.
- Các nước Đông Âu : 1 ủy viên.
- Tây Âu và các nước khác25 : 2 ủy viên
- Châu Mỹ Latinh và vùng Caribê : 2 ủy viên.
Chức vụ chủ tịch Hội đồng bảo an luân phiên hàng
tháng theo vần chữ cái tiếng Anh tên của các quốc
gia thành viên.
Thành viên tham gia và chức chủ tịch Hội đồng bảo
an năm 2001 được qui định như sau:
Tháng Chủ tịch Thời điểm kết thúc nhiệm kỳ
01 Singapore 31/12/2002
02 Tunisia 31/12/2001
03 Ukraina 31/12/2001
04 Vương quốc Anh Ủy viên thường trực
05 Hoa Kỳ Ủy viên thường trực
06 Bangladesh 31/12/2001
07 CHND Trung hoa Ủy viên thường trực
08 Colombia 31/12/2002
09 Pháp Ủy viên thường trực
10 Ireland 31/12/2002
11 Jamaica 31/12/2001
12 Mali 31/12/2001
Mauritius 31/12/2002
Na uy 31/12/2002
CHLB Nga Ủy viên thường trực
c. Thủ tục bỏ phiếu tại Hội đồng bảo an

Mỗi ủy viên của Hội đồng bảo an có một lá phiếu.26
Những quyết định về các vấn đề thủ tục (procedural
matters) được thông qua do phiếu thuận của 9/15 ủy
viên của hội đồng.27
Những quyết định về tất cả các vấn đề khác (all other
matters) phải được phiếu thuận của 9/15 ủy viên hội
đồng trong đó có phiếu thuận của tất cả các ủy viên
thường trực Hội đồng bảo an28. Đây là qui tắc “nhất
trí của các nước lớn” (great Power unanimity) mà
thường được gọi là quyền phủ quyết (veto) của các
ủy viên thường trực Hội đồng bảo an.
Như vậy Hiến chương qui định các ủy viên thường
trực Hội đồng bảo an có quyền phủ quyết những
quyết định về tất cả các vấn đề khác. Các vấn đề khác
được hiểu là các vấn đề không mang tính thủ tục
(non-procedural matters). Vấn đề nào được coi là vấn
đề mang tính thủ tục hay không mang tính thủ tục thì
không được qui định trong Hiến chương mà thường
do các ủy viên thường trực quyết định. Các vấn đề
mang tính thủ tục là những vấn đề được qui định từ
điều 28-32 Hiến chương, những vấn đề về chương
trình nghị sự (agenda). Vấn đề không mang tính thủ
tục thường là vấn đề về việc giải quyết hòa bình các
tranh chấp quốc tế, vấn đề dùng vũ lực. Tóm lại,
trong trường hợp biểu quyết thông qua các quyết định
liên quan đến các vấn đề không mang tính thủ tục thì
chỉ cần một ủy viên thường trực bỏ phiếu chống thì
quyết định đó không được thông qua. Tuy nhiên
trong thực tế, khi một ủy viên thường trực đưa ra một
vấn đề nào đó cần biểu quyết tại Hội đồng bảo an và

coi đây là một các vấn đề mang tính thủ tục nhưng
(các) ủy viên thường trực khác bỏ phiếu phủ quyết thì
vấn đề này trở thành vấn đề không mang tính thủ tục
và lúc đó (các) ủy viên thường trực đó lại có quyền
phủ quyết một lần nữa khi bỏ phiếu thông qua theo
qui định của điều 27(3). Trường hợp này gọi là phủ
quyết hai lần (double veto). Trong thời kỳ chiến tranh
lạnh (1945 –1992), việc sử dụng quyền phủ quyết của
các ủy viên thường trực như sau: Liên Xô: 114 lần,
Mỹ: 69 lần, Anh: 30 lần, Pháp:18 lần, Trung Quốc: 3
lần. Sau thời kỳ này, quyền phủ quyết ít được sử
dụng hoặc sử dụng một cách rất hạn chế. Quyền phủ
quyết của ủy viên thường trực Hội đồng bảo an
không được sử dụng trong các trường hợp sau:
- Khi ủy viên thường trực là một bên tranh chấp sẽ
không bỏ phiếu trong việc giải quyết tranh chấp bằng
phương pháp hòa bình trên cơ sở chương VI của Hiến
chương.29
- Quyết định của Hội đồng bảo an về triệu tập hội
nghị toàn thể để xét lại Hiến chương.30
- Quyết định về bầu thẩm phán của Tòa án quốc tế.31
Hiến chương Liên hợp quốc qui định tất cả các quốc
gia thành viên Liên hợp quốc đồng ý chấp thuận và
thi hành quyết định của Hội đồng bảo an Liên hợp
quốc32. Trong khi các nghị quyết hoặc quyết định
của các cơ quan khác của Liên hợp quốc chỉ mang
tính chất khuyến nghị đối với các quốc gia thành viên
thì Hội đồng bảo an là cơ quan duy nhất có quyền
ban hành các quyết định có giá trị bắt buộc đối với tất
cả các quốc gia thành viên.

(còn tiếp)
1 Điều 1 Hiến chương Liên hợp quốc.
2 Điều 2, những nguyên tắc này còn được đề cập
trong Nghị quyết số 2625 (XXV) ngày 24/10/1970
của Đại hội đồng Liên hiệp quốc về các nguyên tắc
cơ bản của Luật Quốc tế.
3 – 20 Các điều 4 (1), 4 (2), … 97.
21 Điều 4 (1) Quy chế Tòa án quốc tế của Liên hợp
quốc.
22 Kế thừa Liên Xô cũ từ ngày 17/01/1992.
23 Số lượng ủy viên không thường trực của Hội đồng
bảo an tăng từ 6 lên 10 theo nghị quyết của Đại hội
đồng ngày 17/12/1963 có hiệu lực ngày 31/08/1965.
25 – 32 Các điều 23 (1)….

×