MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ MANG THAI
HỘ
TRẦN THỊ HƯƠNG
Khoa Luật Dân sự - ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh
Mang thai hộ là trường hợp sau khi thụ thai trong ống
nghiệm, nếu người mẹ vì lý do sức khỏe hay vì điều
kiện nào đó không thể mang thai, phải nhờ đến người
phụ nữ khác mang thai và sinh đẻ. Vậy, về mặt pháp
lý thỏa thuận giữa người nhờ và người nhận mang
thai hộ là loại thỏa thuận gì? Những thỏa thuận này
có trái với quan niệm đạo đức truyền thống không?
Biện pháp pháp lý ràng buộc các bên và chế tài pháp
lý trong trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng thỏa thuận? Đây là vấn đề còn bỏ ngỏ
trong lý luận cũng như trong các văn bản pháp luật
hiện hành. Bài viết này bàn về một số vấn đề liên
quan nảy sinh trong quan hệ mang thai hộ dưới
phương diện pháp lý.
Xác định cha mẹ con trong trường hợp mang thai hộ:
Từ lâu, một trong những yếu tố để xác định cha mẹ
con là huyết thống. Thành ngữ “cha sinh, mẹ đẻ”
hoặc: “mang nặng, đẻ đau”… đã hình thành nên tư
duy của con người khi nói đến quan hệ cha - mẹ -
con. Người đàn bà sinh ra đứa trẻ nghiễm nhiên là mẹ
của đứa trẻ. Hiện tượng tự nhiên này tồn tại trong ý
niệm xã hội – đạo đức của con người và được khẳng
định về mặt luật pháp. Song, hiện tượng mang thai hộ
là mới mẻ, hoàn toàn không nằm trong khuôn mẫu
tập quán, tình cảm, đạo đức truyền thống: người đàn
bà không mang thai, không sinh đẻ vẫn có thể là mẹ
do đứa trẻ được thụ tinh hình thành bằng chính trứng
của mình, còn người phụ nữ mang thai, sinh đẻ thì
không phải là mẹ. Người mang thai, sinh đẻ chỉ là
người làm công việc trợ giúp theo thỏa thuận, có
hoặc không có thù lao bồi hoàn.
Theo Điều 8 Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam năm
2000 thì khái niệm gia đình là tập hợp những người
gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống
hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa
vụ và quyền giữa họ với nhau. Khái niệm “gia đình”
không đồng nhất với “hộ gia đình” trong các ngành
luật hành chính, đất đai… Khái niệm này tồn tại hầu
hết trong pháp luật về gia đình các quốc gia trên thế
giới.
Quan hệ huyết thống không chỉ là cơ sở để xác định
cha mẹ con mà còn là cơ sở xác định nguồn gốc,
dòng họ, gia phả với những giá trị văn hóa tinh thần,
đạo đức và truyền thống của dòng họ. Trường hợp
con sinh ra do bởi người mang thai hộ thì khái niệm
huyết thống được hiểu theo nhiều hướng khác nhau.
Thứ nhất: quan hệ huyết thống mẹ - con trong trường
hợp này là quan hệ giữa đứa con sinh ra và người phụ
nữ có trứng thụ tinh. Tức người nào chủ sở hữu trứng
thì đó là mẹ của đứa trẻ. Người phụ nữ này đang tồn
tại mối quan hệ hôn nhân với bố đứa trẻ được sinh ra.
Thứ hai: người phụ nữ nào trong cơ thể của mình
phát triển hài nhi và sinh ra đứa trẻ thì đó là mẹ.
Không thể gọi là mẹ của cái trứng đã được thụ tinh
mà chỉ có thể là chủ sở hữu cái trứng đã thụ tinh vì
giữa cái trứng đã thụ tinh và đứa trẻ là hoàn toàn
khác nhau. Còn mẹ của một đứa trẻ với tư cách là
một con người thực thụ, với tư cách là chủ thể pháp
luật dưới ý nghĩa pháp lý cũng như ý nghĩa sinh học,
chính là người phụ nữ sinh ra (tạo ra, cho ra đời) đứa
bé(1 ).
Thứ ba: nên có khái niệm pháp lý “người mẹ thứ hai”
(mẹ thế). Có nghĩa là bên cạnh một “người mẹ thứ
nhất” (người mẹ mà đứa trẻ mang gien di truyền),
còn tồn tại một “người mẹ thứ hai” tức người mang
thai hộ. Đây là quan điểm dung hòa của hai quan
điểm trên, không phủ nhận vai trò của người phụ nữ
mang thai và sinh ra đứa trẻ, và cần thiết phải thiết
lập một số quyền và nghĩa vụ nhất định giữa “người
mẹ” này và đứa trẻ.
Theo chúng tôi, nếu đồng ý với quan điểm thứ hai, vô
tình chúng ta đánh mất ý nghĩa, mục đích của thụ thai
nhân tạo dưới hình thức mang thai hộ, tức là tước
quyền làm mẹ của người phụ nữ không có khả năng
mang thai.
Mặt khác, dưới phương diện sinh học thì trong trường
hợp mang thai hộ, đứa bé ra đời từ mang thai hộ
mang gien di truyền của người phụ nữ có trứng thụ
tinh chứ không phải của người mang thai. Nếu hiểu
khái niệm huyết thống đồng nhất với khái niệm gien
di truyền (ADN) thì quan hệ huyết thống là quan hệ
giữa người phụ nữ có trứng và đứa trẻ. Mang thai hộ
có thể đồng nhất khái niệm “chăm sóc” tạo điều kiện
cho thai phát triển nhưng là sự chăm sóc đặc biệt
không bằng tay chân mà bằng chính cơ thể của mình.
Nếu chúng ta chấp nhận việc nuôi trẻ bằng sữa của
người phụ nữ khác khi người mẹ của đứa trẻ không
có khả năng nuôi con bằng sữa của chính mình thì
chúng ta cũng nên chấp nhận việc mang thai hộ. Hai
hiện tượng này gần như đồng nhất với nhau, chỉ khác
ở thời điểm là trước và sau khi sinh.
Ngoài ra, cần thiết phải xem xét đến yếu tố khởi điểm
và mục đích của việc mang thai hộ. Khi người phụ nữ
có trứng tham gia vào quan hệ mang thai hộ với mục
đích mong muốn được làm mẹ, còn người phụ nữ
mang thai chỉ với mục đích “hộ”, “giùm”, giúp đỡ, tất
nhiên có hoặc không có bồi hoàn mà không với mục
đích làm mẹ.
Vì vậy, chúng tôi cho rằng: dưới phương diện pháp
lý, người phụ nữ có trứng đã thụ tinh đang trong
trong tình trạng có quan hệ hôn nhân với bố đứa trẻ,
là người mẹ hợp pháp của đứa trẻ sinh ra trong
trường hợp mang thai hộ, nếu giữa họ không có thỏa
thuận khác. Theo tinh thần của Đ. 63 Luật Hôn nhân
và gia đình được Quốc hội thông qua ngày
09/6/2000, việc xác định cha mẹ con được sinh ra
theo phương pháp khoa học do Chính phủ qui định.
Song cho đến thời điểm hiện nay cũng chưa có một
văn bản hướng dẫn chi tiết vấn đề này. Trong văn bản
hướng dẫn này, thiết nghĩ, nên qui định như sau
“Trường hợp hai vợ chồng thỏa thuận người phụ nữ
khác mang thai hộ thì khi đăng ký khai sinh cho trẻ
sẽ xác định cặp vợ chồng đó là cha mẹ của đứa trẻ”.
Tuy nhiên, đối với những đứa trẻ ra đời bằng phương
pháp thụ tinh nhân tạo phải được quyền biết sự thực
về nguồn gốc của mình, đặc biệt trong trường hợp
mang thai hộ, bởi đây là một trong những quyền cơ
bản nhất của con người. Vì vậy, đối với trẻ sinh ra từ
mang thai hộ cần phải có một mẫu giấy khai sinh
riêng trong đó phải ghi rõ họ tên người mang thai hộ.
Song, việc ghi tên người mang thai hộ vào giấy khai
sinh không đồng nghĩa với việc công nhận người
mang thai hộ là mẹ của đứa trẻ, điều này có nghĩa là
tất cả những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ
giữa cha mẹ con như quyền mang họ, quyền thừa kế,
nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng, cấp dưỡng,
đại diện hợp pháp và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại
cho người thứ ba… giữa đứa trẻ và người mang thai
hộ không phát sinh theo qui định pháp luật.
Dù sao, dưới phương diện đạo đức truyền thống, đứa
trẻ ra đời không hoàn toàn từ một thỏa thuận sòng
phẳng, ngang giá, mọi quan hệ đều chấm dứt sau khi
thanh lý hợp đồng, giữa người mang thai hộ và đứa
trẻ luôn tồn tại những tình cảm nhất định, vì vậy
không nên phủ nhận hoàn toàn vai trò của người
mang thai hộ dưới phương diện đạo đức.
Mặt khác, Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 quy định: “Những trường hợp cấm kết hôn”
cũng cần thiết qui định cụ thể khái niệm “người cùng
dòng máu trực hệ”, “người có họ trong phạm vi ba
đời”. Trường hợp kết hôn giữa hai người do cùng một
người phụ nữ sinh ra, trong đó, một người là từ mang
thai hộ và một người là con của người mang thai hộ
có nằm trong phạm vi những trường hợp cấm kết hôn
hay không. Theo chúng tôi, dưới phương diện khoa
học, có thể sẽ không có hậu quả gì do hai người dù
được sinh ra bởi một người phụ nữ nhưng mang hai
gien di truyền khác nhau, tuy nhiên dưới phương diện
đạo đức là khó có thể chấp nhận được. Trường hợp
này cũng tương tự như trường hợp cấm kết hôn qui
định trong K. 4, Đ.1: giữa cha mẹ nuôi với con nuôi;
giữa những người từng là cha mẹ nuôi với con nuôi,
bố chồng với con dâu, bố dượng với con riêng của
vợ…
Bản chất pháp lý của thỏa thuận mang thai hộ
Theo chúng tôi, việc mang thai hộ là một thỏa thuận
dân sự hình thành trên cơ sở tự nguyện, tự do ý chí và
bình đẳng vì vậy pháp luật cần thiết công nhận và bảo
vệ sự thỏa thuận này. Thỏa thuận mang thai hộ được
xác lập giữa bố mẹ đứa trẻ và người mang thai hộ,
đồng thời làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các
bên. Vì vậy, những vấn đề pháp lý liên quan đến thỏa
thuận này phải được qui định cụ thể. Thiết nghĩ, thỏa
thuận này phải được lập thành văn bản và cần thiết
phải có công chứng hoặc chứng thực của cơ quan nhà
nước, cơ quan hộ tịch, bởi nó là cơ sở pháp lý duy
nhất làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên,
trong đó có quyền của người nhờ mang thai hộ được
mặc nhiên công nhận là bố mẹ của đứa trẻ khi đăng
ký khai sinh và các giấy tờ hộ tịch khác, tránh những
tranh chấp không cần thiết. Ví dụ trong trường hợp
sau khi sinh người mang thai hộ từ chối việc giao đứa
trẻ, hoặc trường hợp bên nhờ mang thai từ chối nhận
đứa trẻ.
Mặt khác, pháp luật cũng cần thiết qui định cụ thể
các điều kiện của bố mẹ (bên nhờ mang thai) và
người mang thai hộ. Ví dụ đối với người mẹ đứa trẻ
chỉ có thể yêu cầu người khác mang thai hộ trong
trường hợp vì lý do sức khỏe không có khả năng
mang thai và phải có kết luận chính thức của các cơ
quan y tế. Qui định này sẽ loại bỏ quan điểm lệch lạc
“có tiền mua tiên cũng được” lạm dụng việc mang
thai hộ đi ngược lại các giá trị đạo đức truyền thống.
Đối với người mang thai hộ cần thiết phải là người
hội đủ điều kiện về độ tuổi, sức khỏe theo kết luận
của cơ quan y tế, phải có sự đồng ý của người chồng
trong trường hợp người này trong tình trạng hôn
nhân; số lần mang thai hộ tối đa để bảo vệ sức khỏe
và không biến người mang thai hộ thành những máy
đẻ, hay một nghề kiếm sống.
Một vấn đề khác cần thiết phải giải quyết là hình thức
chế tài đối với các bên trong giao dịch này khi không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã
cam kết. Xuất phát từ tính đặc thù của giao dịch, đối
tượng của giao dịch không phải là một loại hàng hóa
hoặc dịch vụ mà là một con người. Vì vậy bên nhờ
mang thai hộ không thể đặt ra các điều kiện về “chất
lượng” như điều kiện về giới tính (đứa trẻ phải là trai
hay gái), về trọng lượng, màu da, cũng như các điều
kiện khác về tình trạng sức khỏe. Trong trường hợp
bên mang thai hộ không thực hiện được các điều kiện
trên không phải là lý do để bên nhờ mang thai hộ từ
chối nhận con và thực hiện nghĩa vụ tài chính. Trong
trường hợp bên nhờ mang thai hộ không thực hiện
nghĩa vụ tài chính thì bên mang thai hộ có thể làm gì
để bảo vệ quyền lợi của mình chứ không thể đơn
thuần là không giao đứa trẻ.
Mang thai hộ là một thành tựu khoa học trong lĩnh
vực y học đã và đang là mối quan tâm của nhiều
người trong xã hội. Song để hiện tượng này phát triển
đúng hướng, đúng ý nghĩa xã hội, thì pháp luật cần
phải điều chỉnh quan hệ này một cách kịp thời, cụ
thể, tránh hiện tượng lạm dụng đi ngược lại bản chất
xã hội của mang thai hộ và quan trọng nhất là tránh
những tranh chấp có thể phát sinh giữa các chủ thể
của quan hệ này.
Báo Pháp luật TP HCM ngày 13-2-2001