Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "MỘt số Vấn ĐỀ VỀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ THUỘC ỦY BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.02 KB, 28 trang )

MỘt số Vấn ĐỀ VỀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ THUỘC
ỦY BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG
NGUYỄN THỊ NHÀN
ThS. Giảng viên Khoa Luật Hành chính - ĐH Luật
TP.HCM
Cải cách đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nói
chung và cán bộ chính quyền cấp cơ sở nói riêng là
một trong những nội dung quan trọng của cải cách
nền hành chính quốc gia. Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 3 nêu rõ: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của
Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong
công tác xây dựng Đảng…”. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng đã từng khẳng định: Có cán bộ tốt, việc gì cũng
xong. Mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ
tốt hay kém… Trong suốt mấy chục năm qua, đội
ngũ cán bộ, công chức đã góp phần to lớn vào sự
nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt
là công cuộc xây dựng một xã hội dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đảng và Nhà
nước ta đã ban hành, tổ chức thực hiện nhiều chủ
trương, chính sách, nhằm từng bước tạo lập, xây
dựng một đội ngũ cán bộ, công chức “vừa hồng, vừa
chuyên”. Bản thân cán bộ, công chức cũng không
ngừng rèn luyện, phấn đấu để xứng đáng với chức
trách được giao.
Xuất phát từ vị trí của chính quyền cấp cơ sở, là cấp
chính quyền gần dân nhất, giải quyết trực tiếp, hàng
ngày, hàng giờ những vấn đề liên quan thiết thực tới
đời sống người dân trên địa bàn, đội ngũ cán bộ xã,
phường đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Họ là


những người trực tiếp lắng nghe, giải quyết, đề xuất
lên cấp trên những đề xuất, nhu cầu chính đáng của
người dân. Cán bộ chính quyền cấp cơ sở chuyển tải
các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước tới người dân mà không qua bất kỳ một
cấp trung gian nào. Không có một cấp chính quyền
nào có mối liên hệ mật thiết với nhân dân như chính
quyền cấp xã, phường.
Tuy nhiên, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ
chính quyền cấp cơ sở hiện nay chưa đáp ứng được
yêu cầu thực tế. Điều này đã gây không ít khó khăn
cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của chính quyền cấp cơ sở. Đó cũng là nguyên nhân
làm giảm sút hiệu lực quản lý của Nhà nước, làm xói
mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chính
quyền. Trong quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới
do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, nhiều cán bộ xã,
phường đã bộc lộ sự bất cập, hụt hẫng về kiến thức
quản lý trong điều kiện nền kinh tế thị trường vừa có
hợp tác, vừa có cạnh tranh. Một bộ phận cán bộ xã,
phường sa sút về phẩm chất chính trị, thiếu sự tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức, ý chí tổ chức, kỷ luật kém.
Đã có nhiều đơn thư của quần chúng nhân dân khiếu
nại, tố cáo những việc làm sai trái của cán bộ, công
chức Nhà nước như ức hiếp quần chúng, quan liêu,
tham nhũng… Trong số cán bộ, công chức bị khiếu
nại, tố cáo, có không ít những cán bộ chính quyền
cấp cơ sở. Trên cơ sở đánh giá, phân tích tình hình
phát triển kinh tế – xã hội, Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VI đã kết luận: Nguyên nhân của mọi nguyên

nhân là vấn đề cán bộ.
Bài viết này không đề cập đến cán bộ cấp xã nói
chung (như qui định tại điểm 1, mục I của Thông tư
số 99/1998/TT-LTTCCP-BCT-BLĐTBXH) mà chỉ
bàn về đội ngũ cán bộ thuộc UBND phường (gọi
chung là cán bộ phường) qua thực tiễn tại TP. Hồ Chí
Minh.
1. Về thực trạng đội ngũ cán bộ phường – Những tồn
tại, bất cập cần khắc phục
* Cơ cấu UBND phường được qui định trong nhiều
văn bản qui phạm pháp luật như Luật Tổ chức
HĐND và UBND, Nghị định 174/CP, Nghị định số
09/1998/NĐ – CP ngày 23/1/1998 sửa đổi, bổ sung
Nghị định 05/CP ngày 26/7/1995 của Chính phủ về
chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị
trấn… Ngày 19/5/1998, Ban Tổ chức cán bộ Chính
phủ, Bộ Tài chính và Bộ Lao động thương binh và xã
hội đã ban hành Thông tư liên tịch số 99/1998/TT –
LTTCCP – BLĐTBXH để hướng dẫn thi hành Nghị
định số 09/1998/NĐ-CP. Tại điểm 1, mục I của
Thông tư này qui định các chức danh cán bộ xã,
phường, thị trấn (gọi chung là cán bộ xã) được bố trí
như sau:
“1.1. Số lượng cán bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể:
- Đảng ủy xã: 2 cán bộ
- Hội đồng nhân dân xã: 2 cán bộ
- Ủy ban nhân dân xã: từ 5 đến 7 cán bộ (theo Nghị
định 174/CP)
- Đoàn thể 5 cán bộ: Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, Hội
trưởng Hội phụ nữ, Chủ tịch Hội nông dân, Chủ tịch

Hội cựu chiến binh, Bí thư Đoàn thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh.
1.2. Bốn chức danh chuyên môn thuộc UBND xã: Tư
pháp - Hộ tịch; Tài chính – Kế toán; Văn phòng
UBND; Thống kê – Tổng hợp”.
Thông tư này cũng qui định: UBND Tỉnh, Thành phố
trực thuộc Trung ương căn cứ vào số dân, diện tích,
khối lượng công việc, địa hình phức tạp, đi lại khó
khăn, tình hình chính trị – kinh tế, đặc điểm dân tộc,
tôn giáo, an ninh, trật tự an toàn xã hội để bố trí cán
bộ cho phù hợp với từng loại xã, phường, thị trấn
nhưng không vượt quá số lượng qui định (kể cả cán
bộ trong biên chế Nhà nước đang tăng cường cho xã,
phường, thị trấn).
Trên cơ sở Thông tư số 99 ngày 22/11/1998, UBND
TP. Hồ Chí Minh đã ban hành Quyết định số
6303/QĐ-UB-NC qui định chức danh cho cán bộ
phường, xã, thị trấn. Theo Quyết định này, đối với
phường được bố trí từ 21 đến 25 cán bộ (kể cả cán bộ
Đảng, Đoàn thể, Hội đồng nhân dân), UBND Thành
phố còn cho phép các phường bố trí thêm 5 chức
danh: Lao động thương binh và xã hội; Sản xuất kinh
doanh dịch vụ; Văn hóa xã hội (văn hóa, thông tin,
thể dục thể thao, y tế); Quản lý đô thị; Chỉ huy phó
Ban chỉ huy quân sự phường. Quyết định này đã tạo
cơ sở pháp lý cho việc hình thành thêm các chức
danh cần thiết thuộc UBND phường nhằm đáp ứng
kịp thời nhu cầu quản lý rất đa dạng, phức tạp, sôi
động trên địa bàn phường.
Theo qui định của pháp luật, chủ tịch UBND phường

do Hội đồng nhân dân phường bầu ra trong kỳ họp
đầu tiên của mỗi khóa Hội đồng nhân dân theo sự
giới thiệu của Hội đồng nhân dân. Phó chủ tịch Ủy
ban nhân dân phường và các ủy viên cũng được Hội
đồng nhân dân phường bầu theo sự giới thiệu của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường. Trừ Chủ tịch Ủy
ban nhân dân phường, các thành viên khác của Ủy
ban nhân dân phường không nhất thiết là đại biểu Hội
đồng nhân dân phường. Kết quả bầu các thành viên
Ủy ban nhân dân phường phải được Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường có vai trò rất quan
trọng trong hoạt động của Ủy ban nhân dân phường,
trực tiếp chỉ đạo, điều hành hoạt động của Ủy ban
nhân dân, chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp trên trực tiếp, đồng thời chịu trách
nhiệm chính trị trước cấp ủy và Hội đồng nhân dân
phường. Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường chịu trách
nhiệm chung về nội chính, an ninh, đô thị. Xuất phát
từ đặc thù của địa bàn phường về tình hình dân cư;
tình hình trật tự, trị an; hoạt động sản xuất – thương
mại – dịch vụ đa dạng… nên tập thể Ủy ban nhân dân
phường, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phải đảm nhận
một khối lượng công việc khá nặng nề. Các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, suy cho cùng được trực tiếp tổ chức thực hiện
ở cấp cơ sở và Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường là
người trực tiếp lãnh đạo triển khai việc thực hiện.
Trong khi đó, Nhà nước ta chưa có một văn bản nào
có giá trị pháp lý cao qui định cụ thể các mối quan

hệ: giữa tập thể cán bộ Ủy ban nhân dân phường với
Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường; giữa Chủ tịch Ủy
ban nhân dân phường với Phó Chủ tịch Ủy ban nhân
dân phường, giữa Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân
phường với các ủy viên… Các văn bản như Hiếp
pháp 1992, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân (sửa đổi năm 1994)… chỉ qui định
chung chung: Chủ tịch Ủy ban nhân dân phân công
công tác cho Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân và các
ủy viên; người được phân công phải chịu trách nhiệm
trước Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Mỗi thành viên Ủy
ban nhân dân chịu trách nhiệm cá nhân về phần công
tác của mình… Do các mối quan hệ này chưa được
xác định cụ thể nên trong thực tế đã xảy ra hai tình
trạng đối lập nhau:
Thứ nhất, nhiều Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường
quá ôm đồm, có việc đã được phân công cho Phó
Chủ tịch, song Chủ tịch vẫn đứng ra giải quyết mà
không cần thông báo cho Phó Chủ tịch. Nhiều việc,
theo nguyên tắc, khi Chủ tịch Ủy ban nhân dân
phường vắng mặt, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân
phường được ủy quyền giải quyết. Song, nhiều Chủ
tịch Ủy ban nhân dân phường đã “không cho phép”
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thực hiện quyền này.
Do vậy, Phó Chủ tịch thường bị động, biết mình được
phân công nhưng không biết có nên làm hay không?
Từ đó, không phát huy được vai trò, khả năng của
Phó Chủ tịch với tư cách là người giúp việc cho Chủ
tịch.
Thứ hai, nhiều Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường lại

quá dựa dẫm vào Phó Chủ tịch và các thành viên
khác. Ở nhiều địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
phường đã “khoán trắng” công tác quản lý, điều hành
cho Phó Chủ tịch, thậm chí còn “làm ngơ” để Phó
Chủ tịch ký văn bản thay mặt (TM) Ủy ban nhân dân
phường. Bản thân các Phó Chủ tịch nhiều khi cũng
không tích cực thực hiện mảng công việc được phân
công mà chỉ đơn thuần nghe báo cáo, đề xuất của các
ủy viên.
* Về trình độ, năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán
bộ phường
Thực tế cho thấy, nhiều Chủ tịch Ủy ban nhân dân
phường năng lực lãnh đạo còn yếu, chưa bao quát hết
khối lượng công việc của mình, chưa có khả năng
phân tích, tổng hợp nên giải quyết các yêu cầu, đề
nghị của dân không thỏa đáng. Việc ban hành các
quyết định hành chính trái pháp luật (về xử phạt vi
phạm hành chính; về giải quyết khiếu nại, tố cáo…)
vẫn là hiện tượng phổ biến.
Đa số cán bộ phường tốt nghiệp phổ thông trung học.
Nhiều cán bộ được đào tạo qua các lớp sơ cấp hoặc
trung cấp quản lý nhà nước. Một số cán bộ phường
đã và đang được đào tạo trình độ cao cấp chính trị,
Đại học Luật tại chức… Tuy nhiên, trong số cán bộ
giúp việc của Ủy ban nhân dân phường như đánh
máy, văn thư, có người chỉ mới tốt nghiệp trung học
cơ sở. Trình độ hiểu biết của cán bộ phường nói
chung còn hạn chế, là điều rất đáng lo ngại hiện nay.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này: một số
cán bộ không có ý thức tự giác học tập nâng cao trình

độ nên kiến thức vốn đã ít ỏi lại càng mai một, không
đáp ứng được yêu cầu công tác… với những cán bộ
muốn đi học thì lại không sắp xếp được thời gian
theo học, hoặc phải tự đóng tiền học phí, cơ quan chỉ
hỗ trợ một phần kinh phí vì ngân sách có hạn. Quá
trình hoạt động của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
phường, do vậy, gặp nhiều khó khăn. Ví dụ: một
mảng công tác quản lý mà phường đảm nhận là công
tác hộ tịch. Tuy nhiên số cán bộ làm công tác hộ tịch
lại thay đổi luôn, họ không đủ thời gian tích lũy kinh
nghiệm, không được đào tạo chính qui… Về pháp lý
cũng như thực tiễn, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
phường có rất nhiều nhiệm vụ, quyền hạn về kế
hoạch, ngân sách, tài chính, tiểu thủ công nghiệp,
giao thông, thương mại, văn hóa – giáo dục… Công
việc nhiều, năng lực cán bộ phường hạn chế, thậm
chí còn kiêm nhiệm nên tình trạng cán bộ phường
giải quyết các yêu cầu, đề nghị của dân không đúng
nội dung, đúng trình tự pháp luật qui định, không hợp
“ý Đảng, lòng dân” vẫn là điều thường gặp. Nhiều
cán bộ phường khi giải quyết công việc thường dựa
vào kinh nghiệm, xử lý tùy tiện, không kịp thời hoặc
lúng túng, nhất là các vụ tranh chấp nhà đất, vay
mượn nợ, xử lý vi phạm hành chính. Thực ra vẫn có
nhiều cán bộ phường có năng lực nhưng do tổ chức,
quản lý kém nên không phát huy được hiệu quả. Ở
nhiều phường thuộc TP. Hồ Chí Minh còn tình trạng
phân công không rõ ràng giữa các chức danh, thậm
chí cán bộ phường còn phải kiêm nhiệm luôn nhiệm
vụ làm thành viên Ban điều hành tổ dân phố. Hơn

nữa, ở nhiều địa phương, tuy đội ngũ cán bộ phường
được sàng lọc, trình độ nói chung được nâng lên,
song, cơ quan Nhà nước cấp trên lại không chú trọng
đến việc đảm bảo ổn định cho đội ngũ cán bộ đó. Khi
cần thiết, Ủy ban nhân dân cấp trên lại điều động lên
cơ quan mình hoặc chuyển sang các đơn vị sản xuất –
kinh doanh, đơn vị hành chính – sự nghiệp dù
phường đang thiếu cán bộ. Từ đó lại buộc Ủy ban
nhân dân phường phải thay đổi, bố trí lại cán bộ trong
cơ quan mình. Do vậy, đội ngũ cán bộ phường xáo
trộn, hiệu quả công tác giảm sút là điều không tránh
khỏi.
Một bộ phận cán bộ phường lợi dụng chức quyền
tham nhũng, hối lộ, chi tiêu lãng phí, sử dụng các
khoản thu của dân không đúng mục đích, không công
khai… Sự vi phạm quy chế dân chủ ở xã, phường
chưa có sự chấn chỉnh, xử lý kịp thời của các cơ quan
Nhà nước hữu quan.
* Về chế độ, chính sách đãi ngộ cán bộ phường
Cải cách chế độ tiền lương, chế độ đãi ngộ đối với
cán bộ, công chức Nhà nước nói chung và cán bộ
phường nói riêng là vấn đề được Đảng và Nhà nước
ta rất quan tâm trong nhiều năm qua. Nhưng có thể
nói rằng, về chế độ đãi ngộ, bao giờ cán bộ phường
cũng chịu “thiệt thòi” so với những người cùng làm
việc trong bộ máy Nhà nước.
Hiện nay, ngoài số cán bộ thuộc biên chế Nhà nước
tăng cường cho xã, phường thì hưởng mọi chế độ,
chính sách hiện hành như đối với công chức Nhà
nước (Theo Nghị định số 09), số cán bộ phường còn

lại chỉ được hưởng sinh hoạt phí. Ngày 26/2/2000,
Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ – Bộ Tài chính đã ban
hành Thông tư liên tịch số 72/2000/TTLT –
BTCCBCP – BTC quy định về mức sinh hoạt phí đối
với cán bộ xã (bao gồm xã, phường, thị trấn đang
công tác) như sau:
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã: từ 325.000
đồng/tháng lên 379.200đồng/tháng.
- Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã: từ 300.000
đồng/tháng lên 350.000đồng/tháng.
- Ủy viên Ủy ban nhân dân xã: từ 287.500
đồng/tháng lên 335.400 đồng/tháng
- Các chức danh khác thuộc Ủy ban nhân dân xã: từ
262.500 đồng/tháng lên 306.300 đồng/tháng.
- Riêng đối với cán bộ thuộc 4 chức danh chuyên
môn (Tư pháp – hộ tịch; địa chính; tài chính – kế
toán; văn phòng Ủy ban nhân dân) đã được vận dụng
xếp mức sinh hoạt phí theo hệ số của ngạch, bậc quy
định tại Nghị định số 25/CP ngày 23/5/1993 của
Chính phủ thì mức sinh hoạt phí bằng mức lương tối
thiểu (210.000 đồng/tháng) nhân với hệ số mức sinh
hoạt hiện hưởng đã được vận dụng xếp theo tiền
lương công chức.
Với quy định trên cho thấy đời sống của cán bộ
phường cũng được cải thiện một phần. Nhưng cũng
phải nhìn nhận rằng, trong tình hình hiện nay, mức
sinh hoạt phí này không đủ đáp ứng nhu cầu vật chất
tối thiểu của cán bộ phường, không đủ tái tạo sản
xuất giản đơn và làm hao mòn dần quá trình đào tạo
mà cán bộ phường đã trải qua. Do mức sinh hoạt phí

không phù hợp nên đã ảnh hưởng rất nhiều đến tinh
thần, thái độ làm việc của cán bộ phường. Nhiều cán
bộ phường có năng lực, trình độ tự đi tìm việc làm ở
nơi khác có thu nhập cao hơn để ổn định cuộc sống.
Hoặc nếu còn làm việc tại Ủy ban nhân dân họ đã tìm
mọi cách xoay sở như: tham ô, bán đất, lạm thu lệ
phí…. Điều này đã làm giảm sút nghiêm trọng lòng
tin của dân đối với chính quyền.
Trong Ủy ban nhân dân phường, trừ những người
được điều động, biệt phái từ cơ quan Nhà nước cấp
trên, số cán bộ phường còn lại không được coi là
công chức Nhà nước. Ngay cả đối với 4 chức danh
chuyên môn công tác tại phường, mặc dù tiêu chuẩn,
quy chế tuyển chọn các chức danh này rất chặt chẽ,
phải “căn cứ theo tiêu chuẩn nghiệp vụ của Bộ Tài
chính, Ban tổ chức cán bộ Chính phủ và Tổng cục
thống kê quy định”, nhưng cán bộ thuộc 4 chức danh
chuyên môn này cũng không phải là công chức Nhà
nước. Họ chỉ được Nhà nước vận dụng xếp mức sinh
hoạt theo hệ số của ngạch, bậc quy định tại Nghị định
25/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ. Ngoài các
thành viên Ủy ban nhân dân xã được bầu cử, các
chức danh khác đều phải thông qua hợp đồng tuyển
dụng (kể cả 4 chức danh chuyên môn cũng phải ký
hợp đồng dài hạn với Chủ tịch Ủy ban nhân dân
phường sau khi có ý kiến của Sở chuyên ngành).
Hiện nay, cán bộ phường khi đang còn làm việc được
hưởng sinh hoạt phí theo quy định tại Nghị định số
09, khi nghỉ việc được hưởng trợ cấp hàng tháng (với
điều kiện thời gian công tác và đóng bảo hiểm xã hội

đủ 15 năm trở lên; khi nghỉ việc nam đủ 55 tuổi, nữ
đủ 50 tuổi) và khi chết được hưởng chế độ mai táng
phí. Tuy nhiên, số chức danh được hưởng theo Thông
tư số 99 còn hạn hẹp (danh sách cán bộ phường đóng
bảo hiểm xã hội được Phòng Lao động thương binh
và xã hội duyệt và Ban tổ chức chính quyền thành
phố quyết định). Ngoài các chức danh do thông tư số
99 quy định, ở phường còn phải thêm nhiều chức
danh khác mới đáp ứng yêu cầu công việc. Với Quyết
định 6303 của Ủy ban nhân dân TP. HCM, 5 chức
danh quy định thêm được hưởng sinh hoạt phí. Tuy
nhiên, cơ quan bảo hiểm xã hội Việt Nam từ chối
công nhận quá trình làm việc từ năm 1988 trở về
trước của các chức danh này.
Ngày 4/4/2001, Bảo hiểm xã hội TP.HCM đã gửi
công văn đề nghị Ủy ban nhân dân TP.HCM xem xét
quyết định bổ sung chế độ bảo hiểm xã hội bằng ngân
sách của Thành phố cho cán bộ xã, phường đã và
đang làm việc nhưng không thuộc chức danh được
quy định tại Nghị định số 09.
Một điểm bất hợp lý khác là cán bộ phường không
được hưởng chế độ bảo hiểm y tế. Để tạo điều kiện
cho cán bộ phường an tâm làm việc, có quận đã tự
dùng ngân sách của quận mua bảo hiểm y tế cho cán
bộ phường.
2. Một số kiến nghị
Công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia nói
chung, cải cách đội ngũ cán bộ, công chức hành
chính nói riêng đang được tiến hành khẩn trương với
quyết tâm cao của Đảng, Nhà nước, các cấp chính

quyền. Việc cải cách, nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ phường cũng là vấn đề rất cấp thiết cho sự
nghiệp đổi mới hiện nay. Theo chúng tôi, để góp
phần vào việc xây dựng một đội ngũ cán bộ phường
có phẩm chất tốt, có năng lực, trình độ cao để hoạt
động của chính quyền phường thông suốt, hiệu quả
cần chú trọng một số vấn đề sau:
Thứ nhất, như đã trình bày ở trên, một trong những lý
do dẫn tới hiệu lực quản lý Nhà nước cấp cơ sở thấp
là do các mối quan hệ, sự phân công trách nhiệm
không rõ ràng giữa các thành viên. Do vậy, việc ban
hành một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp
lý cao, xác định rõ ràng mối quan hệ, phân công rõ
trách nhiệm giữa các cán bộ cấp xã (đặc biệt là giữa
các thành viên Ủy ban nhân dân xã) là điều rất cần
thiết trong tình hình hiện nay. Văn bản này có thể
được ban hành bởi Chính phủ (Nghị định) hoặc Thủ
tướng Chính phủ (Quyết định). Đó là cơ sở để Ủy
ban nhân dân các tỉnh, Thành phố trực thuộc trung
ương ban hành qui chế mẫu về mối quan hệ giữa các
cán bộ xã, phường (thuộc tỉnh, thành phố đó). Quy
chế này sẽ là cơ sở pháp lý để Ủy ban nhân dân cấp
huyện tiếp tục cụ thể hóa cho phù hợp với tình hình
cụ thể ở địa phương mình.
Một nhu cầu rất bức thiết đặt ra là: trong các văn bản
pháp luật về chính quyền địa phương nói chung, cơ
quan hành chính Nhà nước ở địa phương nói riêng,
cơ quan soạn thảo và ban hành văn bản phải thể hiện
rõ những đặc thù của quản lý ở vùng nông thôn và
vùng đô thị. Các văn bản này sẽ là cơ sở để xác định

rõ hơn những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các
thành viên Ủy ban nhân dân phường, các chức danh
khác thuộc Ủy ban nhân dân phường.
Thứ hai, hiện nay về tổ chức, nhìn chung sự phân
công công tác của Ủy ban nhân dân phường đã tinh
gọn, hợp lý hơn. Việc tinh gọn tổ chức cán bộ
phường là cần thiết, giúp Nhà nước giảm gánh nặng
về kinh phí. Song một vấn đề cần xác định rõ là: tinh
giảm không có nghĩa là giảm nhiều người càng tốt
mà chỉ nên giảm những người thừa, không cần thiết.
Cụ thể, đó là những cán bộ yếu kém về năng lực,
phẩm chất, không đáp ứng được yêu cầu công tác.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế, căn cứ vào Nghị định số
09 và Thông tư số 99, Ủy ban nhân dân phường cần
được sắp xếp lại các chức danh chuyên môn và các
chức danh khác thuộc Ủy ban nhân dân phường cho
phù hợp. Với 4 chức danh chuyên môn, nhất thiết
phải được bố trí đúng tiêu chuẩn, được đào tạo
chuyên môn. Các chức danh khác cũng phải được
đào tạo kỹ càng, đảm bảo đáp ứng yêu cầu công tác
được giao. Đây là một trong những điều kiện quan
trọng để cán bộ phường có thể giải quyết nhanh nhạy,
có hiệu quả các vấn đề phát sinh trên địa bàn phường.
Đối với các phường có trên 32.000 dân, Chính phủ
nên cho phép thành phố nhận thêm một số cán bộ
ngoài các cán bộ đã qui định tại Nghị định 09. Cụ
thể: với phường (kể cả xã có trên 32.000 dân cứ tăng
thêm 3000 dân thì thêm cán bộ nhưng không vượt
quá 30 cán bộ (bao gồm cả cán bộ Đảng, đoàn thể,
Hội đồng nhân dân. Nếu phương án này được Chính

phủ chấp nhận thì một mặt số cán bộ trên đủ đảm bảo
hoàn thành chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy
ban nhân dân phường. Mặt khác, Chính phủ không
phải thành lập thêm phường, xã tại TP. Hồ Chí Minh,
không tốn chi phí xây dựng trụ sở, mua sắm trang
thiết bị, bổ sung nhân sự cho các phường, xã mới.
Các cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ, công
chức cần có kế hoạch cụ thể về qui hoạch, sắp xếp
đội ngũ cán bộ phường. Việc phân công nhiệm vụ,
điều động cán bộ phải căn cứ vào trình độ chuyên
môn, chính trị, phẩm chất của họ và yêu cầu công tác.
Cần hết sức tránh tình trạng bố trí không đúng khả
năng chuyên môn, làm ảnh hưởng đến công việc
chung của tập thể.
Thứ ba, năng lực quản lý, điều hành, thực thi công vụ
của cán bộ phường không thể được nâng cao nếu họ
không được trang bị những kiến thức cơ bản về pháp
luật, về chính trị, nếu thiếu kinh nghiệm thực tiễn. Do
vậy, các cấp có thẩm quyền cần phải tạo điều kiện về
kinh phí, thời gian để cán bộ phường có điều kiện học
tập, tích lũy, sử dụng có hiệu quả các kiến thức về
chuyên môn, nghiệp vụ. Đồng thời không ngừng đào
tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ giác ngộ về tư
tưởng, chính trị cho cán bộ phường. Nếu được rèn
luyện, giác ngộ về chính trị, vững vàng về tư tưởng,
chuyên môn nghiệp vụ giỏi, cán bộ phường sẽ rất
thuận lợi trong công tác, giải quyết các công việc
đúng chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật

×