Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "KHÁI NIỆM, CÁC ĐẶC ĐIỂM (DẤU HIỆU), PHÂN LOẠI VÀ BẢN CHẤT PHÁP LÝ CỦA CÁC BIỆN PHÁP THA MIỄN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM" pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.11 KB, 23 trang )

KHÁI NIỆM, CÁC ĐẶC ĐIỂM (DẤU HIỆU),
PHÂN LOẠI VÀ BẢN CHẤT PHÁP LÝ CỦA
CÁC BIỆN PHÁP THA MIỄN TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
LÊ CẢM
TSKH, Q. Chủ nhiệm Khoa, Trưởng Bộ mơn Tư
pháp hình sự, Khoa Luật thuộc ĐHQG Hà Nội

I. Cách đặt vấn đề
1. Vừa qua với lần pháp điển hóa thứ hai luật hình sự
Việt Nam, ở một chừng mức nhất định, nhà làm luật
nước ta đã điều chỉnh lại về mặt lập pháp và ghi nhận
nhiều biện pháp tha miễn (BPTM) trong BLHS năm
1999 hiện hành. Chính vì vậy, trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền (NNPQ) việc nghiên cứu
khái niệm BPTM, các đặc điểm (dấu hiệu), phân loại
và bản chất pháp lý của các BPTM trong luật hình sự
Việt Nam có ý nghĩa xã hội – pháp lý quan trọng,


cũng như ý nghĩa khoa học – thực tiễn cấp bách trên
các bình diện dưới đây:
Một là, về mặt lập pháp – bên cạnh các trường hợp
(tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, thì
các BPTM trong luật hình sự góp phần thể hiện rõ nét
ngun tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói
chung và của luật hình sự nói riêng, đồng thời cịn
cho phép khẳng định trình độ văn hóa pháp lý của
nhà làm luật, cũng như mức độ pháp chế, dân chủ và
bảo đảm các quyền con người bằng PLHS trong một
quốc gia khi chúng (các BPTM đó) được quy định


nhiều hay ít, chặt chẽ hay tùy tiện.
Hai là, về mặt thực tiễn – kể từ khi thi hành BLHS
năm 1985 (ngày 1/1/1986) và sau đó là BLHS năm
1999 (ngày 1/7/2000) đến nay đã cho thấy: do còn
thiếu sự điều chỉnh đầy đủ về mặt lập pháp hoặc thiếu
những hướng dẫn thống nhất có tính chất chỉ đạo của
thực tiễn xét xử nên hiện nay giữa các cán bộ của các


cơ quan bảo vệ pháp luật và Tịa án đơi khi vẫn còn
thiếu đồng bộ hoặc chưa thống nhất trong việc nhận
thức và áp dụng các quy phạm PLHS về các BPTM.
Ba là, về mặt lý luận – từ trước đến nay trong khoa
học luật hình sự Việt Nam các BPTM chưa bao giờ
được các nhà luật học nước ta quan tâm nghiên cứu
một cách tồn diện và có hệ thống trong tổng thể
chung, cụ thể là: mới chỉ có một số cơng trình đề cập
đến từng vấn đề hoặc chế định riêng biệt trong tổng
thể đó (như thời hiệu truy cứu TNHS, thời hiệu thi
hành bản án hình sự, án treo, v.v…), trong khi đó thì
lại vẫn chưa có bài báo nào làm sáng tỏ về mặt lý
luận những vấn đề có tính chất nhập mơn cơ bản như:
khái niệm, các đặc điểm, phân loại và bản chất pháp
lý của các BPTM trong luật hình sự Việt Nam.
2. Như vậy, tất cả những điều đã được phân tích trên
đây khơng những cho phép nói lên sự cần thiết của
việc nghiên cứu để làm sáng tỏ về mặt lý luận khái


niệm, các đặc điểm, phân loại và bản chất pháp lý của

các BPTM trong luật hình sự Việt Nam (với tính chất
là sự bắt đầu cho một loạt các nghiên cứu chúng một
cách tồn diện và có hệ thống trong tổng thể chung),
mà còn là lý do luận chứng cho sự xuất hiện của bài
báo này.
II. Khái niệm và các đặc điểm của biện pháp tha miễn
trong luật hình sự
1. Khái niệm BPTM trong luật hình sự:
Trở ngại lớn nhất, khi nghiên cứu vấn đề này là: về
mặt khoa học, do ít được quan tâm nghiên cứu nên từ
trước đến nay vẫn chưa có nhà hình sự học nào đưa
ra khái niệm “BPTM trong luật hình sự” là gì?
Nghiên cứu bản chất pháp lý của các quy phạm
PLHS Việt Nam hiện hành về các BPTM tại 19 điều
của BLHS năm 1999 (các Điều 23-25, 55-67, 76-77)
cho phép đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm
BPTM (nói chung) như sau: Biện pháp tha miễn


trong luật hình sự là quy phạm (hoặc chế định) mang
tính chất nhân đạo, phản ánh sự khoan hồng của Nhà
nước đối với những người phạm tội và được cơ quan
tư pháp hình sự có thẩm quyền áp dụng chỉ trong một
số trường hợp nhất định khi có đầy đủ các căn cứ và
những điều kiện do PLHS quy định.
2. Các đặc điểm của BPTM trong luật hình sự Việt
Nam:
Xuất phát từ khái niệm nêu trên về BPTM trong luật
hình sự, chúng ta có thể nhận thấy nó có bốn đặc
điểm chủ yếu như sau: a) BPTM trong luật hình sự là

quy phạm (hoặc chế định) mang tính nhân đạo; b)
BPTM trong luật hình sự phản ánh sự khoan hồng
của Nhà nước đối với những người phạm tội; c)
BPTM trong luật hình sự do cơ quan hình sự có thẩm
quyền áp dụng chỉ trong một số trường hợp nhất
định; và d) BPTM trong luật hình sự chỉ được phép
áp dụng khi có đầy đủ các căn cứ và những điều kiện


do PLHS quy định. Dưới đây chúng ta sẽ lần lượt
xem xét nội dung của từng đặc điểm chủ yếu này.
- BPTM trong luật hình sự là một quy phạm (hoặc
một chế định) mang tính chất nhân đạo vì nó thể hiện
sự tôn trọng và bảo vệ các quyền con người bằng
PLHS như là những giá trị xã hội cao quý nhất.
- BPTM trong luật hình sự phản ánh sự khoan hồng
của Nhà nước đối với những người phạm tội vì nó
cho thấy sự quan tâm của Nhà nước trong việc cải tạo
và giáo dục họ, khuyến khích họ sửa chữa sai lầm
nhằm tránh khỏi con đường phạm tội trở về với cuộc
sống lương thiện và sớm tái hòa nhập vào cộng đồng.
- BPTM trong luật hình sự do cơ quan tư pháp hình
sự có thẩm quyền (cơ quan Điều tra với sự phê chuẩn
của Viện kiểm sát hoặc Tòa án căn cứ vào giai đoạn
TTHS tương ứng) áp dụng chỉ trong một số trường
hợp nhất định do PLHS quy định vì khơng phải trong


bất kỳ trường hợp nào nó cũng có thể được các cơ
quan này áp dụng đối với những người phạm tội.

- BPTM trong luật hình sự chỉ được phép áp dụng khi
có đầy đủ các căn cứ và những điều kiện do PLHS
quy định, mà cụ thể đó là các căn cứ và những điều
kiện tương ứng để: a) không truy cứu trách nhiệm
hình sự (TNHS) hoặc khơng thi hành bản án kết tội
do đã hết thời hiệu; b) miễn TNHS; và c) áp dụng
tám BPTM có liên quan đến hình phạt – miễn hình
phạt, miễn chấp hành hình phạt (CHHP), giảm mức
hình phạt đã tuyên, giảm thời hạn CHHP, án treo,
hỗn CHHP tù, tạm đình chỉ CHHP tù và xóa án tích.
III. Phân loại các biện pháp tha miễn và bản chất
pháp lý của từng biện pháp tha miễn trong luật hình
sự Việt Nam
1. Phân loại các BPTM trong luật hình sự Việt Nam:
Nghiên cứu các quy phạm PLHS Việt Nam hiện hành
về các BPTM tại 19 điều của BLHS năm 1999 (các


Điều 23-25, 55-67, 76-77) chúng ta có thể phân chia
chúng thành 10 dạng như sau:
- Không truy cứu TNHS do đã hết thời hiệu (Điều
23).
- Không thi hành bản án kết tội do đã hết thời hiệu
(Điều 55).
- Miễn trách nhiệm hình sự (Điều 25).
- Miễn hình phạt (Điều 54).
- Miễn chấp hành hình phạt (Điều 57).
- Giảm mức hình phạt đã tuyên (các Điều 58-59 và
76).
- Án treo (Điều 60).

- Hỗn chấp hành hình phạt tù (Điều 61).
- Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù (Điều 62).
- Xóa án tích (các Điều 64-67 và 77).


Dưới đây chúng ta sẽ lần lượt nêu lên bản chất pháp
lý của từng BPTM trong luật hình sự Việt Nam đã
được phân chia theo hệ thống nêu trên.
2. Bản chất pháp lý của BPTM thứ nhất: Không truy
cứu TNHS do đã hết thời hiệu là: sau một thời hạn
nhất định do luật định đã qua (kể từ ngày phạm tội),
đồng thời khi có đầy đủ căn cứ và những điều kiện
được ghi nhận trong PLHS thì người phạm tội không
thể bị Nhà nước truy cứu TNHS. Căn cứ và những
điều kiện áp dụng thời hiệu truy cứu TNHS được
BLHS năm 1999 quy định cụ thể (Điều 23), tuy nhiên
cũng cần phải lưu ý là: nhà làm luật vẫn loại trừ các
trường hợp ngoại lệ không được phép áp dụng BPTM
này (Điều 24).
3. Bản chất pháp lý của BPTM thứ hai: Không thi
hành bản án kết tội do đã hết thời hiệu là: Sau một
thời hạn nhất định do luật định đã qua (kể từ ngày
bản án kết tội được tuyên có hiệu lực pháp luật),


đồng thời khi có đầy đủ căn cứ và những điều kiện
được ghi nhận trong PLHS thì người bị kết án không
thể bị Nhà nước đưa bản án kết tội đó ra thi hành.
Căn cứ và những điều kiện áp dụng thời hiệu thi hành
bản án kết tội được BLHS năm 1999 quy định cụ thể

(Điều 55), tuy nhiên cũng cần phải lưu ý là: nhà làm
luật vẫn loại trừ các trường hợp ngoại lệ không được
phép áp dụng BPTM này (Điều 56)(1 ).
4. Bản chất pháp lý của BPTM thứ ba: Miễn TNHS
là: Sự hủy bỏ toàn bộ hậu quả pháp lý đối với người
bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm khi có
đầy đủ các căn cứ và những điều kiện do PLHS quy
định, tức là không áp dụng bất kỳ biện pháp cưỡng
chế về hình sự nào được quy định trong PLHS đối
với người đó. Các căn cứ và những điều kiện này đều
được BLHS năm 1999 quy định cụ thể trong chín
trường hợp tương ứng dưới đây:


- Ba trường hợp miễn TNHS trên những cơ sở chung
(Điều 25)(2 ) là: a) do sự chuyển biến của tình hình
(khoản 1); b) do sự ăn năn hối cải của người phạm tội
(khoản 2); và c) do có quyết định đại xá (khoản 3).
- Sáu trường hợp miễn TNHS trên những cơ sở riêng
biệt3 là: a) người phạm tội tự ý nửa chừng chấm dứt
tội phạm (Điều 19); b) người chưa thành niên phạm
tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng (khoản 2
Điều 69); c) người phạm tội gián điệp ăn năn hối cải
(khoản 3 Điều 78); d) người đưa hối lộ chủ động khai
báo trước khi bị phát giác (đoạn 2 khoản 6 Điều 289);
đ) người môi giới hối lộ chủ động khai báo trước khi
bị phát giác (khoản 6 Điều 290); và e) người phạm tội
không tố giác tội phạm đã can ngăn người phạm tội
hoặc hạn chế tác hại của tội phạm (khoản 3 Điều
313).

5. Bản chất pháp lý của BPTM thứ tư: Miễn hình
phạt là: Tịa án khơng quyết định hình phạt trong bản


án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người bị coi là
có lỗi trong việc thực hiện tội phạm, tức là không áp
dụng đối với người này biện pháp cưỡng chế về hình
sự nghiêm khắc nhất khi có đầy đủ căn cứ và những
điều kiện được quy định trong PLHS. Cụ thể đó là
căn cứ và những điều kiện được quy định tại Điều 54
BLHS năm 1999 như:
- Căn cứ – trong trường hợp phạm tội có nhiều tình
tiết giảm nhẹ do luật định tại khoản 1 Điều 46.
- Những điều kiện – đáng được khoan hồng đặc biệt,
nhưng chưa đến mức được miễn TNHS. Hình phạt
mà người bị kết án có thể được Tịa án miễn là hình
phạt chính, và cả hình phạt bổ sung (nếu có).
6. Bản chất pháp lý của BPTM thứ năm: Miễn CHHP
là: Tịa án quyết định hình phạt nhất định trong bản
án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người bị coi là
có lỗi trong việc thực hiện tội phạm, nhưng khơng
buộc người này phải chấp hành tồn bộ hình phạt ấy


khi có đầy đủ căn cứ và những điều kiện do PLHS
quy định. Cụ thể đó là các căn cứ và những điều kiện
được quy định tại Điều 57 BLHS năm 1999 tương
ứng trong năm trường hợp dưới đây:
- Trường hợp 1: a) bị kết án một trong hai hình phạt
(cải tạo khơng giam giữ hoặc tù có thời hạn); b) chưa

CHHP đó mà lập cơng lớn hoặc mắc bệnh hiểm
nghèo; c) nếu người bị kết án khơng cịn nguy hiểm
cho xã hội nữa; và d) theo đề nghị của Viện trưởng
VKS (khoản 1).
- Trường hợp 2: khi người bị kết án được đại xá hoặc
đặc xá (khoản 2).
- Trường hợp 3: a) bị kết án về tội ít nghiêm trọng; b)
đã được hoãn CHHP theo quy định tại Điều 61; c)
nếu trong thời gian được hoãn người bị kết án đã lập
công; và d) theo đề nghị của Viện trưởng VKS
(khoản 3).


- Trường hợp 4: a) bị kết án tù về tội ít nghiêm trọng;
b) đã được tạm đình chỉ hình phạt theo quy định tại
Điều 62; c) nếu trong thời gian được tạm đình chỉ
người bị kết án đã lập công; và d) theo đề nghị của
Viện trưởng VKS (khoản 4).
- Và cuối cùng, trường hợp 5: a) bị kết án một trong
hai hình phạt (cấm cư trú hoặc quản chế); b) nếu
người bị kết án đã CHHP được 1/2 (một nửa) hình
phạt đó và cải tạo tốt; c) theo đề nghị của chính
quyền địa phương nơi người bị kết án CHHP (khoản
5).
7. Bản chất pháp lý của BPTM thứ sáu: Giảm mức
hình phạt đã được tun là: Tịa án quyết định giảm
mức hình phạt đã tuyên trong bản án kết tội có hiệu
lực pháp luật cho người bị kết án đã chấp hành hình
phạt đó được một thời gian nhất định (đối với phạt
cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù có thời hạn) hoặc

miễn phần hình phạt cịn lại (đối với hình phạt tiền)


khi có đầy đủ căn cứ và những điều kiện được quy
định trong PLHS. Cụ thể đó là các căn cứ và những
điều kiện được quy định tương ứng trong năm trường
hợp của BLHS năm 1999 (ba – tại Điều 58, một – tại
Điều 59 và một – tại Điều 76) dưới đây:
- Trường hợp 1 - giảm mức hình phạt đã được tuyên:
a) bị kết án cải tạo không giam giữ; b) nếu người bị
kết án đã CHHP đó được một thời gian nhất định và
có nhiều tiến bộ; c) theo đề nghị của cơ quan, tổ chức
hoặc chính quyền địa phương được giao trách nhiệm
trực tiếp giáo dục, giám sát người CHHP (đoạn 1,
khoản 1 Điều 58).
- Trường hợp 2 - giảm mức hình phạt đã được tuyên:
a) bị kết án tù có thời hạn; b) nếu người bị kết án đã
CHHP đó được một thời gian nhất định và có nhiều
tiến bộ; c) theo đề nghị của cơ quan thi hành án phạt
tù (đoạn 2 khoản 1 Điều 58).


- Trường hợp 3 - miễn chấp hành phần còn lại của
hình phạt đã được tuyên: a) bị xử phạt tiền; b) người
bị kết án đã chấp hành được một phần hình phạt đó;
c) bị lâm vào hồn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn
kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hay bệnh tật
gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần
hình phạt cịn lại hoặc lập công lớn; và d) theo đề
nghị của Viện trưởng VKS (khoản 2 Điều 58).

- Trường hợp 4 – có tính chất đặc biệt: Tịa án có thể
xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc với mức cao
hơn so với thời gian và mức quy định tại Điều 58 khi
người bị kết án có lý do đáng được khoan hồng thêm
như: đã lập công, quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm
nghèo (Điều 59).
- Và cuối cùng, trường hợp 5 – được quy định đối với
người chưa thành niên bị kết án cải tạo khơng giam
giữ, tù có thời hạn hoặc phạt tiền (Điều 76): a) có
nhiều tiến bộ và đã chấp hành được1/4 thời hạn của


hình phạt đã được tun, thì được Tịa án xét giảm
(khoản 1); b) lập cơng hoặc mắc bệnh hiểm nghèo,
thì được Tịa án xét giảm ngay và có thể được miễn
chấp hành phần hình phạt cịn lại (khoản 2); và c)
theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 58, Tòa án có
thể quyết định giảm hoặc miễn chấp hành phần tiền
phạt còn lại (khoản 3).
8. Bản chất pháp lý của BPTM thứ bảy: Án treo: Là
biện pháp miễn CHHP tù có điều kiện do Tịa án
quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật
đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội
phạm khi có căn cứ và những điều kiện do PLHS quy
định. Cụ thể đó là căn cứ và những điều kiện được
quy định tại Điều 60 BLHS năm 1999 như:
- Hình phạt được quyết định chỉ có thể là hình phạt tù
với thời hạn không quá 3 năm.



- Căn cứ vào nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ Tịa
án xét thấy khơng cần buộc người đó phải CHHP tù
đã được quyết định ấy.
- Tòa án bao giờ cũng phải ấn định thời gian thử
thách từ 1 năm đến 5 năm đối với người bị án treo.
9. Bản chất pháp lý của BPTM thứ tám: Hoãn CHHP
tù là: Tòa án quyết định tạm dừng lại việc CHHP tù
đã được tuyên trong bản án kết tội có hiệu lực pháp
luật đối với người bị kết án (nhưng chưa chấp hành
hình phạt đó) trong một thời hạn nhất định khi có đầy
đủ căn cứ và những điều kiện do PLHS quy định.
Căn cứ đó là khi người bị kết án chưa CHHP tù đã
được tuyên trong bản án kết tội và có đầy đủ những
điều kiện được quy định tương ứng trong bốn trường
hợp cụ thể tại khoản 1 Điều 61 BLHS năm 1999 như:
- Hoãn CHHP tù cho đến khi sức khỏe được hồi phục
– đối với người bị kết án là người mắc bệnh nặng
(điểm “a” khoản 1).


- Hoãn CHHP tù cho đến khi con đủ 36 tháng – đối
với người bị kết án là phụ nữ có thai hoặc phụ nữ
đang ni con dưới 36 tháng (điểm “b” khoản 1).
- Hoãn CHHP tù đến một năm – đối với người bị kết
án là người lao động duy nhất trong gia đình mà nếu
bắt người này CHHP đó, thì gia đình sẽ gặp khó khăn
đặc biệt (trừ trường hợp bị kết án về tội xâm phạm an
ninh quốc gia hoặc tội khác là tội rất nghiêm trọng
hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (điểm “c” khoản 1).
- Hoãn CHHP tù đến một năm – đối với người bị kết

án về tội ít nghiêm trọng và do nhu cầu công vụ
(điểm “d” khoản 1).
10. Bản chất pháp lý của BPTM thứ chín: Tạm đình
chỉ CHHP tù (Điều 62 BLHS năm 1999) là: Tòa án
quyết định tạm dừng lại việc CHHP tù đã được tuyên
trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với
người bị kết án (đang chấp hành hình phạt) trong một
thời hạn nhất định khi có đầy đủ căn cứ và những


điều kiện do PLHS quy định. Căn cứ – người bị kết
án đang CHHP tù đã được tuyên trong bản án kết tội
có hiệu lực pháp luật và những điều kiện – tương ứng
trong bốn trường hợp cụ thể tại khoản 1 Điều 61. Có
thể coi đây là trường hợp đặc biệt của BPTM thứ tám
nêu trên – hoãn CHHP tù.
11. Và cuối cùng, bản chất pháp lý của BPTM thứ
mười: Xóa án tích là: Sự hủy bỏ hậu quả pháp lý, tức
là hoàn toàn chấm dứt việc thực hiện TNHS đối với
người bị kết án sau khi người này đã chấp hành xong
hình phạt và các quyết định khác của Tịa án trong
bản án kết tội có hiệu lực pháp luật khi có đầy đủ các
căn cứ và những điều kiện do PLHS quy định. Toàn
bộ các căn cứ và những điều kiện xóa án tích được
quy định cụ thể tại các Điều 64 – 67 và Điều 77
(dành riêng cho người bị kết án là người chưa thành
niên) BLHS năm 1999.
IV. Kết luận



Việc nghiên cứu khái niệm, các đặc điểm, phân loại
và bản chất pháp lý của các BPTM trong luật hình sự
Việt Nam cho phép đưa ra một số kết luận chung như
sau:
1. Các BPTM trong luật hình sự là hệ thống các quy
phạm (hoặc các chế định) của Phần chung thể hiện rõ
nét nguyên tắc nhân đạo, vì vậy việc đảm bảo ghi
nhận các BPTM một cách khoa học trong PLHS thực
định, nhận thức thống nhất trong lý luận, đồng thời
áp dụng một cách rộng rãi và chính xác trong thực
tiễn xét xử là chức năng quan trọng của các luật gia –
các nhà hình sự học Việt Nam.
2. Ngồi các đặc điểm chung của các BPTM trong
luật hình sự Việt Nam, mỗi BPTM đều có bản chất
pháp lý, cũng như căn cứ và những điều kiện áp dụng
riêng của nó như đã được phân tích trên đây.
3. Đại xá và đặc xá là hai BPTM quan trọng trong
luật hình sự nhưng vẫn chưa được điều chỉnh với tính


chất là các chế định riêng biệt trong BLHS năm 1999,
vì vậy chúng cần phải được các nhà hình sự học quan
tâm nghiên cứu để đưa mơ hình lý luận dưới góc độ
nhận thức – khoa học nhằm góp phần hoàn thiện
PLHS Việt Nam hiện hành.
4. Trong số các BPTM do BLHS năm 1999 quy định
vẫn cịn có một số biện pháp mà các dạng khác nhau
của chúng thường xuất hiện trong thực tế khách quan
nhưng lại chưa được ghi nhận về mặt lập pháp và do
đó, việc tiếp tục nghiên cứu sâu hơn nữa về mặt lý

luận để luận chứng cho tính hợp lý và sự cần thiết
phải điều chỉnh chúng về mặt lập pháp chính là một
trong những nhiệm vụ cấp bách của khoa học luật
hình sự nước ta trong giai đoạn xây dựng NNPQ hiện
nay.


(1) Trịnh Tiến Việt, Chế định thời hiệu thi hành bản
án hình sự trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân
chủ và pháp luật, số 12/2000.
(2) Lê Cảm, Về các dạng miễn trách nhiệm hình sự
được quy định tại Điều 25 BLHS năm 1999, Tạp chí
Tịa án nhân dân, số 1/2001.
(3) Lê Cảm, Về sáu dạng trách nhiệm hình sự khác
(ngồi Điều 25) trong BLHS năm 1999, Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật, số 2/2001.



×