Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ HIỆN NAY-THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.99 KB, 24 trang )

HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ HIỆN
NAY-THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN
TRƯƠNG HÒA BÌNH
Đại biểu Quốc hội, Viện trưởng Viện KSND TP. Hồ
Chí Minh
Thi hành án hình sự là một hoạt động mang tính
quyền lực Nhà nước nhằm thực hiện bản án, quyết
định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn. Bản
án, quyết định của Tòa án được thi hành chính là lúc
công lý được thực hiện trong cuộc sống. Nhiệm vụ
của giai đoạn này nhằm mục đích cảm hoá tư tưởng,
giáo dục nhân cách, văn hóa, kỹ năng lao động nhằm
mục đích làm cho người thụ án trở thành một công
dân tốt cho xã hội, mặt khác góp phần răn đe, ngăn
ngừa chung. Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của
quá trình giải quyết một vụ án, thi hành án có mối
quan hệ hữu cơ với giai đoạn khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử. Nếu mục đích của thi hành án không đạt
được thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy
tố, xét xử trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Nếu như
một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp
luật không được thi hành hoặc thi hành không
nghiêm thì trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền
lực Nhà nước bị xem thường. Chính vì vậy, việc bảo
đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án
là một yêu cầu khách quan trong hoạt động quản lý
Nhà nước.
Chúng ta không thể phủ nhận những kết quả đã đạt
được của thi hành án Hình sự trong những năm vừa
qua, hàng vạn người bị kết án đã chấp hành xong


hình phạt, trở về với cuộc sống lương thiện. Thi hành
án hình sự có những đóng góp quan trọng nhằm bảo
đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án,
góp phần giữ vững trật tự kỷ cương và ổn định xã
hội. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực, hệ
thống tổ chức và hoạt động thi hành án cũng bộc lộ
những mặt hạn chế nhất định.
Vì vậy, đổi mới tổ chức và hoạt động Thi hành án
hình sự là yêu cầu khách quan nhằm tạo lập một cơ
chế hữu hiệu đảm bảo thực thi có hiệu quả các bản
án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
trong toàn xã hội, thể hiện tính nghiêm minh của
pháp luật, bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân, bảo
đảm trật tự an toàn xã hội và môi trường pháp lý tin
cậy trong mọi mặt sinh hoạt của đời sống xã hội.
I. Thực trạng và những hạn chế trong tổ chức và hoạt
động thi hành án hình sự:
* Những tồn tại của công tác thi hành án hình sự:
Khi xem xét, đánh giá hiệu quả của việc thi hành án
phạt tù, cách đánh giá thông dụng nhất là phân tích
mức độ tái phạm, số lượng người thụ án tái phạm
nhiều chứng tỏ hiệu quả giáo dục trong khi thi hành
án phạt tù thấp, hình phạt đã không đạt được mục
đích phòng ngừa. Ở nước ta hiện nay, các số liệu
thống kê được cho thấy một thực trạng đáng lo ngại
là tỷ lệ tái phạm chiếm từ 25% đến 30%. Và còn một
thực tế nữa là còn khoảng 8-12% số người chấp hành
hình phạt xong đi đâu, làm gì, có tiếp tục phạm tội lại
hay không, không ai quản lý và biết được.
Báo cáo của TAND Tối cao trước Quốc hội đã thừa

nhận là cho đến nay đang có hơn 8.000 người bị án
không rõ vì lý do gì vẫn sống ngoài vòng pháp luật,
chưa bị bắt đi thụ hình, riêng tại TP. Hồ Chí Minh
trong năm 1999 số lượng người phải thụ án là 13.875
người, nhưng chỉ giải quyết được 10.691 người, còn
3.184 người phải thụ án chưa giải quyết; năm 2000
có 13.521 người phải thụ án, nhưng chỉ mới giải
quyết được 10.767 người, còn 2.754 người phải thụ
án chưa bị bắt đi cải tạo ở các trại giam1.
Đối với các loại hình phạt khác như phạt tiền chẳng
hạn, tỷ lệ thi hành đạt được khoảng 60-80%2. Tại Tp.
HCM, thống kê các năm gần đây cho thấy các loại
hình phạt tiền, tịch thu tài sản còn ít hơn, chỉ đạt
khoảng 45-50%, ví dụ như các vụ án điển hình như
Epco-Minh Phụng, Tamexco, Ngọc Thảo…3.
* Những nguyên nhân chủ yếu làm giảm hiệu quả của
hoạt động thi hành án hình sự:
- Ở giai đoạn thủ tục thi hành, tức là ở giai đoạn đưa
bản án ra thi hành bị chậm trễ ở khâu thủ tục giấy tờ
hành chánh, thiếu sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ
giữa cơ quan xét xử và cơ quan thi hành án, số liệu
thống kê riêng ở TP. Hồ Chí Minh trong năm 1999
cho thấy: tổng số phạm nhân phải chấp hành hình
phạt tù là 13.875 người, nhưng thiếu thủ tục (bản án,
quyết định Thi hành án) nên không thể thi hành được
là 1.450 người, chiếm tỷ lệ 12% hoặc đã có đủ thủ
tục nhưng chờ quyết định phân loại, duyệt đi các trại
của Cục quản lý trại giam là 986 người, chiếm tỷ lệ
8,6%. Năm 2000 thì có giảm, nhưng vẫn còn
850/13.521 phạm nhân chờ thủ tục để thi hành4.

Đây là nguyên nhân chính để tình trạng hàng ngàn bị
án có án phạt tù vẫn đang còn ở ngoài xã hội, tạo ra
mối nghi ngờ của nhân dân về tính công bằng và
nghiêm minh của pháp luật, đồng thời tạo ra sự đe
dọa mất an ninh và trật tự xã hội.
- Công tác thi hành án bị phân tán ở nhiều cơ quan
chức năng khác nhau, làm cho công tác quản lý Nhà
nước về thi hành án không tập trung ; hiệu lực của
các bản án, quyết định của Tòa án tác dụng trong
thực tế không cao, không kết hợp thi hành án phạt tù
với các hình phạt bổ sung khác, do đó làm hạn chế
đến hiệu quả của công tác thi hành án và tính nghiêm
minh của hình phạt.
Theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án phạt tù thì
Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về công tác
thi hành án trong phạm vi cả nước. Bộ Công an, Bộ
Quốc phòng giúp Chính phủ quản lý công tác thi
hành án phạt tù và tổ chức công tác thi hành án phạt
tù. Tuy vậy trong thực tế công tác thi hành án theo
pháp luật hiện hành còn được giao cho nhiều cơ quan
khác nữa cùng tham gia, thực hiện như Tòa án nhân
dân, UBND các cấp, cơ quan, tổ chức nơi người bị
kết án cư trú, cơ quan y tế thi hành quyết định của
Tòa án về bắt buộc chữa bệnh nhưng lại không có
một cơ quan chuyên trách nào được giao nhiệm vụ
theo dõi, quản lý việc thi hành đó. Vì vậy mục đích
của hình phạt và các biện pháp tư pháp khác không
đạt được kết quả, tác dụng phòng ngừa vi phạm và tội
phạm bị hạn chế.
- Việc theo dõi và quản lý phạm nhân còn chồng

chéo, kém hiệu quả, trên thực tế đã tồn tại tình trạng
là sau khi ra quyết định thi hành án phạt tù, Tòa án
hoàn toàn không thể biết rõ được phạm nhân được
đưa đi cải tạo ở đâu, bởi vì trên cơ sở tiếp nhận bị án,
cơ quan thi hành án của Bộ Công an lập danh sách bị
án, ra quyết định đưa họ đi cải tạo tại các trại cải tạo
do mình quản lý trên cả nước, đến khi thực hiện thủ
tục xét giảm án, tha tù (quy định tại Điều 58, Điều
59, Điều 61 của Bộ luật hình sự 1999) thì về nguyên
tắc - theo quy định tại khoản 1, Điều 238 Bộ luật Tố
tụng hình sự và Thông tư liên ngành số 04-89/TTLN
ngày 15-8-1989 của TATC-VKSTC-BNV - việc xét
giảm thời hạn thi hành do Tòa án nhân dân cấp tỉnh
nơi người bị kết án chấp hành hình phạt tù căn cứ vào
hồ sơ đề nghị của Trại quản lý và cải tạo phạm nhân,
mà có thể Tòa án, Viện kiểm sát nơi này hoàn toàn
không thể biết được bị án này đã chấp hành nghiêm
chỉnh các nghĩa vụ khác do Tòa án nơi đã tuyên án
hoặc ra quyết định thi hành án, đồng thời luật cũng
không có quy định là gửi bản sao quyết định giảm án,
tha tù cho các Tòa, Viện kiểm sát nơi này biết .
- Thông tư liên ngành số 04-89/TTLN chỉ quy định 2
điều kiện để xét giảm là thời hạn chấp hành hình phạt
và đã quyết tâm cải tạo tốt như tích cực hối lỗi, tích
cực lao động, học tập, nghiêm chỉnh chấp hành chế
độ nội quy của Trại, nhưng không quy định một số
điều kiện về việc thực hiện trách nhiệm khác trong
bản án đã tuyên. Điều này dẫn đến tình trạng là
những người được xét giảm án, tha tù trước thời hạn,
sau khi ra trại, đã không nghiêm chỉnh thi hành các

nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, trách nhiệm dân sự
trong bản án hình sự, chưa thi hành các hình phạt
tiền…, coi như việc mình đi tù đã thay cho việc thực
hiện các nghĩa vụ đó, vì thế đã làm cho lòng tin của
nhân dân bị suy giảm phần nào.
- Việc thực hiện chế độ, chính sách đối với người thụ
án tại các trại giam còn có nhiều hạn chế, nhiều mục
tiêu và nguyên tắc đã được quy định tại Pháp lệnh
Thi hành án phạt tù, Nghị định số 60/CP ngày 16-9-
1993; Thông tư liên ngành số 12/TTLN của các Bộ
NV, Bộ YT, Bộ LĐTBXH, Bộ TC, Bộ QP; Thông tư
số 03/TTLN ngày 30-6-1993 của TATC, VKSTC,
BNV… vẫn chưa được thực hiện đầy đủ trong thực
tiễn, vẫn còn tình trạng ngược đãi phạm nhân, nạn
“đại bàng” hành hạ bạn tù trong các trại giam; hoặc
chưa phân biệt chế độ giam giữ, cải tạo, chế độ ưu
tiên đối với phạm nhân là người chưa thành niên,
người già, phụ nữ…
II. Một số giải pháp hoàn thiện:
Trước các thực trạng đã nêu trên, chúng ta cần phải
xác định nhiệm vụ cấp bách hiện nay là đổi mới tổ
chức và hoạt động cơ quan thi hành án, và phải được
tiến hành theo các định hướng sau đây :
- Đổi mới tổ chức, hoạt động thi hành án hình sự phải
được đặt trong quá trình đổi mới hệ thống các cơ
quan Tư pháp:.
Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thi hành án hình sự
phải gắn chặt với tổ chức và hoạt động của các bộ
phận cấu thành trong hệ thống các cơ quan hoạt động
Tư pháp. Vì vậy, cần phải xác định rõ việc đổi mới tổ

chức và hoạt động của cơ quan thi hành án hình sự
phải dựa trên cơ sở để đảm bảo cho việc đổi mới hệ
thống tư pháp theo định hướng mà Đảng đã đề ra
nhằm thực hiện tốt dân chủ XHCN, phát huy đầy đủ
vai trò lãnh đạo của Đảng.
- Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành
án phải kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ trọng tâm của
việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước trong những
năm trước mắt là cải cách nền hành chính nhà nước.
Từ định hướng đó, có thể đưa ra các giải pháp chủ
yếu sau đây:
1. Ban hành luật và đổi mới tổ chức, hoạt động của
cơ quan Thi hành án:
a. Khẩn trương ban hành Bộ Luật Thi hành án hình
sự:
Việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án là một
vấn đề khá cấp bách, nằm trong tiến trình cải cách Tư
pháp, cải cách bộ máy Nhà nước. Vì vậy hoàn thiện
pháp luật về thi hành án trên tất cả các phương diện,
nhằm bảo đảm tính hiệu lực của các bản án, quyết
định của Tòa án, tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới
tổ chức và hoạt động của cơ quan Thi hành án là một
yêu cầu cấp bách hiện nay. Công tác thi hành án do
nhiều cơ quan khác nhau thực hiện: Tòa án xét xử sơ
thẩm ra quyết định thi hành án phạt tù, Bộ Công an
đảm nhiệm việc thi hành án phạt tù, Bộ Quốc phòng
tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án
Quân sự; lĩnh vực quản chế, cải tạo không giam giữ,
án treo do chính quyền cơ sở hoặc cơ quan tổ chức
nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc đảm nhiệm;

việc ra quyết định miễn, giảm hoặc thời hạn chấp
hành hình phạt tù do Toà án cấp tỉnh thực hiện. Thực
tế đó cho thấy hoạt động thi hành án do nhiều cơ
quan thực hiện đã tạo ra sự thiếu thống nhất trong
quản lý thi hành án, thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa
các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành án, do đó
ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của công tác
thi hành án.
Xuất phát từ tình hình đó, trong lĩnh vực đấu tranh
phòng, chống tội phạm, đã có Bộ luật Hình sự xác
định hành vi nào là tội phạm và hình phạt tương ứng,
Bộ luật Tố tụng hình sự quy định trình tự thủ tục điều
tra, truy tố, xét xử và trình tự chung thi hành bản án,
quyết định của Tòa án, vì vậy chúng tôi kiến nghị
giải pháp quan trọng nhất là sớm ban hành Luật thi
hành án hình sự, đây là yêu cầu cấp bách nhằm tạo
lập hành lang pháp lý, quy định rõ những nguyên tắc
chủ yếu, những thủ tục thi hành án, quyền và nghĩa
vụ của các chủ thể liên quan đến việc thi hành hình
phạt tù, có như vậy mới khép kín một quá trình tố
tụng, truy cứu trách nhiệm hình sự đầy đủ; đáp ứng
yêu cầu đổi mới toàn diện công tác thi hành án, một
bộ phận quan trọng trong công cuộc cải cách Tư pháp
hiện nay.
Luật Thi hành án hình sự là cơ sở pháp lý bảo đảm
cho tính thống nhất của chính sách hình sự, các
nguyên tắc thi hành hình phạt, có như vậy mới bảo
đảm tính thống nhất của pháp luật ( bảo đảm nguyên
tắc pháp chế XHCN ). Có thể xây dựng ngay chính
sách xã hội hóa đối với mới một số hình phạt tù

(chẳng hạn như những tội ít nghiêm trọng trong lĩnh
vực kinh tế), áp dụng các biện pháp tư pháp như phạt
tiền, tịch thu tài sản, đặt tiền hoặc các tài sản khác để
bảo đảm…; và đối với một số đối tượng hạn chế như
bị án là người chưa thành niên, người già, phụ nữ
giao cho gia đình quản lý, giáo dục, đồng thời phải có
những quy định hủy bỏ biện pháp này, bắt đưa vào
trại nếu những đối tượng này tái phạm.
Sự ra đời của Luật, sẽ là chỗ dựa cho việc tổ chức,
xây dựng một hệ thống bộ máy thi hành hình phạt,
tránh được tình trạng tổ chức phân tán, chức năng
thẩm quyền không rõ ràng của các cơ quan chịu trách
nhiệm thi hành án hình sự hiện nay. Đồng thời quy
định rõ quyền và cũng là trách nhiệm giám sát, kiểm
tra của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, mà chủ
yếu là Viện kiểm sát nhân dân các cấp.
b. Đổi mới hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án hình
sự:
Theo phương hướng trong Nghị quyết của Hội nghị
Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8 Khóa VII và
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần
thứ 3 Khóa VIII đã đề ra: “Kiện toàn các tổ chức thi
hành án, bảo đảm thi hành đầy đủ, nhanh chóng các
bản án và quyết định của Tòa án; chấn chỉnh các trại
giam để giáo dục, cải tạo tốt phạm nhân”, và “Chuẩn
bị điều kiện để tiến tới giao cho một cơ quan quản lý
tập trung thống nhất công tác thi hành án”.
Vì vậy cần phải tìm ra mô hình tổ chức hợp lý để
tăng cường hiệu quả của công tác thi hành án, thực
hiện nghị quyết của Đảng đã đề ra. Đây là một vấn đề

mới và do đó có thể có nhiều phương án khác nhau,
nhưng dù là theo phương án nào thì mô hình tổ chức
cơ quan thi hành án cũng nên theo hướng :
- Đảm bảo yêu cầu của công tác quản lý Nhà nước về
thi hành án.
- Đảm bảo sự tập trung, thống nhất, giảm bớt tầng
nấc và các khâu trung gian.
- Đảm bảo nguyên tắc mọi phán quyết của Tòa án có
hiệu lực pháp luật đều được tôn trọng và thi hành
nghiêm chỉnh.
Từ yêu cầu đó, nên chăng tổ chức thi hành án hình sự
cần được thành lập độc lập và giao cho Chính phủ
thống nhất quản lý, có thể có tên gọi như là Cơ quan
Thi hành án và cải tạo phạm nhân ( một số nước trên
thế giới gọi là Cơ quan Trừng giới và cải tạo ). Theo
mô hình này ở trung ương thành lập cơ quan giúp
Thủ tướng chính phủ quản lý Nhà nước về thi hành
án hình sự , ở địa phương do UBND cấp tỉnh và cấp
quận huyện thực hiện việc quản lý nhà nước về thi
hành án. Do vậy, Cơ quan này phải thuộc về bộ máy
Nhà nước, không thể xã hội hóa được.
Cơ quan này ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương chịu trách nhiệm thi hành án tử hình, phạt tù,
phạt tiền, tịch thu tài sản theo thẩm quyền.
Ở cấp huyện chịu trách nhiệm thi hành án cảnh cáo,
cải tạo không giam giữ, cấm đảm nhiệm chức vụ
hoặc chờ một công việc nhất định, quản chế, phạt
tiền, tịch thu tài sản theo thẩm quyền.
Về tổ chức và xây dựng lực lượng, nhằm tránh tối đa
việc tăng biên chế, có thể có 3 phương án:

- Nếu trực thuộc Bộ Công an: chúng ta có thể tăng
cường cơ sở vật chất, con người để nâng Cục Quản lý
trại giam (V. 26) thành một cơ quan độc lập có chức
năng thi hành án và cải tạo phạm nhân trực thuộc Bộ
trưởng quản lý, chỉ đạo điều hành. Phương án này có
lợi điểm là trực thuộc Bộ trưởng không qua nấc trung
gian, tận dụng được kinh nghiệm, tổ chức, bộ máy
sẵn có hàng chục năm nay của Bộ để tránh được việc
phải đào tạo nghiệp vụ lại cho cán bộ, đồng thời đạt
được mục đích là ngoài chức năng giáo dục, cải tạo
phạm nhân còn thực hiện được các hoạt động nghiệp
vụ khác của ngành Công an trong công tác bảo vệ các
nhà tù, trại giam và cải tạo phạm nhân.
- Nếu trực thuộc Chính phủ; chúng ta có thể tách Cục
Quản lý trại giam ra khỏi Bộ Công an; cùng với số
cán bộ đang thực hiện khâu Thi hành án hình sự đang
có ở TAND các cấp thành lập Cơ quan thi hành án và
cải tạo phạm nhân như tên gọi ở trên. Thủ trưởng cơ
quan này do Thủ tướng trực tiếp bổ nhiệm, trên cơ sở
đề nghị của TATC, VKSTC và Bộ Công an. Tuy
nhiên phương án này khó khả thi vì phải đầu tư cơ sở
vật chất, đào tạo huấn luyện nghiệp vụ cho đồng nhất
giữa hai nguồn cán bộ của hai ngành từ Trung ương
cho đến địa phương.
- Nếu trực thuộc Bộ Tư pháp: cũng như phương án
thứ hai, sát nhập Cục Quản lý Trại giam, bộ phận Thi
hành án hình sự ở Tòa án các cấp và Cục Thi hành án
dân sự (của Bộ Tư pháp quản lý trước đây) đặt tên là
Cảnh sát Tư pháp. Phương án này có ưu điểm là phối
hợp được các khâu Thi hành án hình sự với Thi hành

án dân sự, ngoài ra cơ quan này còn có chức năng
dẫn giải bị can, bị cáo, bảo vệ phiên toà, truy bắt
phạm nhân…Nhưng có nhược điểm là còn thiếu kinh
nghiệm trong công tác bảo vệ trại giam và cải tạo
phạm nhân.
Nhưng dù trực thuộc ngành nào quản lý, Cơ quan này
vẫn phải đảm bảo 2 chức năng chính: thi hành các
quyết định, bản án hình sự của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật, quản lý trại cải tạo và bảo vệ phiên toà,
dẫn giải bị can, bị cáo, truy nã….
Để phù hợp với chức năng, cơ quan này cần đặt văn
phòng ngay tại Tòa án, để ngoài việc bảo vệ phiên
tòa, dẫn giải bị can, bị cáo…còn có nhiệm vụ chính là
ra ngay quyết định Thi hành án, thực hiện các thủ tục
phân loại để đưa bị án đi các trường, trại cải tạo; bắt
và truy nã bị án khi họ trốn không chấp hành quyết
định, bản án có hiệu lực pháp luật. Nếu thục hiện
được, chúng ta sẽ chấm dứt tình trạng thủ tục giấy tờ,
thủ tục bắt giữ phức tạp như trước đây; theo dõi, quản
lý phạm nhân tập trung vào một đầu mối, thuận tiện
cho việc báo cáo, kiểm tra, xét giảm án, tha tù…
Bên cạnh đó, cơ quan này cần thiết phải có bộ phận
nghiên cứu khoa học, với nhiệm vụ nghiên cứu tâm,
sinh lý phạm nhân, điều kiện và nguyên nhân phạm
tội, môi trường và cuộc sống hoàn lương… để có
những dự báo tình hình giúp cho việc phòng, chống
tình trạng tái phạm có hiệu quả.
Mô hình tổ chức này có ưu điểm là tạo được sự quản
lý Nhà nước tập trung thống nhất, giảm bớt tầng nấc
trong tổ chức và hoạt động, phù hợp với xu hướng

phân cấp hiện nay; có điều kiện đảm bảo cho sự đầu
tư về cán bộ, cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương
tiện kỹ thuật; đảm bảo sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm
tra, giám sát chặt chẽ, điều hành nhanh, kịp thời phát
hiện và tháo gỡ khó khăn vướng mắc, tránh được sự
can thiệp vào hoạt động thi hành án, đảm bảo hoạt
động thi hành án có hiệu quả.
Mặt khác chính việc tổ chức thi hành án hình sự theo
mô hình này sẽ kết hợp được thi hành án phạt tù, thi
hành phần dân sự trong bản án hình sự và các hình
phạt bổ sung khác đối với người phải chấp hành án.
Việc kết hợp thống nhất này sẽ tạo ra động lực quan
trọng trong việc thực hiện nghĩa vụ pháp lý không chỉ
đối với người phải chấp hành án mà cả đối với người
thân và gia đình của họ. Điều này có ý nghĩa không
chỉ thúc đẩy việc chấp hành án mà còn có ý nghĩa
gắn kết người thân và gia đình họ trong quá trình giáo
dục, cải tạo phạm nhân.
Đồng thời cũng đã đến lúc phải nghĩ tới việc sử dụng
có hiệu quả lực lượng lao động là phạm nhân, một
mặt tạo thêm nhiều công ăn việc làm để phạm nhân
lao động tự cải tạo mình sớm hoàn lương trở về hòa
nhập với cộng đồng, xóa được mặc cảm, chính bằng
kết quả lao động mà phạm nhân có một phần thu
nhập phần này được giữ lại để chấp hành nghĩa vụ
dân sự và giúp họ ít nhiều có vốn liếng để khi hết thời
hạn chấp hành hình phạt tù họ có thể tìm kiếm được
công việc làm, ổn định đời sống cá nhân và tạo được
sự an toàn xã hội. Mặt khác, việc sử dụng hàng chục
ngàn lao động là phạm nhân (đa số là thanh niên) ở

các trại cải tạo hiện nay vào việc xây dựng các công
trình giao thông, công trình trọng điểm ở các vùng
sâu, vùng xa… của quốc gia để tạo nguồn thu nhập,
tái đầu tư vào việc sửa chữa các trường, trại giam, cải
thiện đời sống vật chất, tinh thần cho phạm nhân…
cũng là một hình thức tiết kiệm, giảm nhẹ gánh nặng
kinh phí cho Nhà nước.
Đối với các bản án, quyết định của Tòa án quân sự thì
vẫn giao cho Bộ quốc phòng chịu trách nhiệm tổ
chức thi hành án.
Với những ý kiến về nguyên nhân, thực trạng và giải
pháp đã trình bày ở trên, chúng tôi mong muốn rằng
sẽ được quý vị tham gia góp ý, để có được những giải
pháp đổi mới Luật và tổ chức bộ máy nhằm đạt được
mục đích là hoạt động thi hành án phạt tù phải đảm
bảo thực hiện nghiêm minh, kịp thời đấu tranh
nghiêm trị các loại tội phạm, bảo vệ được quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, khắc phục được
những biểu hiện hữu khuynh trong công tác đấu tranh
chống tội phạm, chấn chỉnh các trại giam để giáo
dục, cải tạo phạm nhân tốt hơn theo quan điểm là kết
hợp trừng trị và giáo dục, thuyết phục; trừng trị
nghiêm khắc kết hợp với khoan hồng trên cơ sở lòng
tin vào khả năng cải tạo của con người; tôn trọng các
quyền cơ bản của con người.

1 Báo cáo các năm 1999-2000 của Phòng KSGG-CT,
VKSND TP.HCM.
2 Số liệu trên thu thập từ các Báo cáo của TATC
trước Quốc hội năm 1994-1995.

3Báo cáo của Phòng Thi hành án TP. HCM năm
1998-1999.
4 Báo cáo các năm 1999-2000 của Phòng KSGG-CT,
VKSND TP. HCM.

×