Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "BÀN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN " ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.28 KB, 22 trang )

BÀN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN
ĐẶNG VŨ HUÂN
ThS. Bộ Tư pháp
MỞ ĐẦU
Quản lý Nhà nước được hiểu là sự tác động và
điều chỉnh mang tính quyền lực Nhà nước đối với các
quá trình, quan hệ xã hội, hành vi hoạt động của con
người do các cơ quan Nhà nước tiến hành để thực
hiện các chức năng của Nhà nước đối với xã hội. Sự
tác động mang tính quyền lực Nhà nước là sự tác
động bằng pháp luật và theo nguyên tắc pháp chế,
qua đó Nhà nước thể hiện quyền lực của mình đối với
mọi hoạt động trong xã hội.
Công tác thi hành án nói chung (bao gồm thi hành án
hình sự, thi hành án dân sự, kinh tế, lao động, hành
chính…) vừa là công tác chuyên môn, nghiệp vụ, vừa
thể hiện quyền lực Nhà nước, xuất phát từ nguyên tắc
Hiến định: “Các bản án và quyết định của Tòa án
nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ
quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các
đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng,
những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh
chấp hành” (Điều 136 Hiến pháp năm 1992).
Để một bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án phát sinh hiệu lực trên thực tế, cần
phải có sự chấp hành, phối hợp chấp hành, phối hợp
tác động của nhiều chủ thể. Tuy nhiên sự tác động,
điều chỉnh, hướng dẫn hành vi của các chủ thể này
theo cách nào đó nhằm hướng tới mục đích để phán
quyết của Tòa án thể hiện hiệu lực trên thực tế chính


là yêu cầu của quản lý Nhà nước về thi hành án.
So với hoạt động quản lý Nhà nước trên nhiều lĩnh
vực, hoạt động quản lý Nhà nước đối với công tác thi
hành án mang nhiều yếu tố đặc thù. Bởi lẽ, ngoài việc
phải thực hiện đúng chức năng, nguyên tắc, nội dung
của quản lý Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả của
công tác này, quản lý Nhà nước về thi hành án còn
nhằm khẳng định tính nghiêm minh của pháp luật,
thể hiện quyền lực Nhà nước, đảm bảo nguyên tắc
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nội dung quản lý, cách
thức tác động và cơ chế quản lý cũng thể hiện những
vấn đề riêng có, linh hoạt để công tác thi hành án đạt
hiệu quả cao, góp phần nâng cao ý thức pháp luật
trong quần chúng nhân dân.
ĐẶC THÙ TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
THI HÀNH ÁN
Hiện nay, có nhiều cuộc tranh luận xung quanh vấn
đề thi hành án là một giai đoạn của tố tụng hay là giai
đoạn độc lập mang tính hành chính – tư pháp. Đây
được coi là vấn đề khá mấu chốt cả về lý luận và thực
tiễn, hiện còn nhiều ý kiến khác nhau, song cần phải
thừa nhận hoạt động thi hành án nói chung không
hoàn toàn do pháp luật tố tụng điều chỉnh và hoạt
động này do cơ quan hành pháp thực hiện; các biện
pháp thực thi pháp luật chủ yếu do pháp luật hành
chính – tư pháp quy định. Giai đoạn thi hành án là
giai đoạn độc lập tiếp sau giai đoạn xét xử.
Trong tất cả các lĩnh vực thi hành án như hình sự, dân
sự, kinh tế, hành chính, lao động… đều do Chính phủ
- cơ quan hành chính cao nhất, cơ quan chấp hành

của Quốc hội - thống nhất quản lý Nhà nước về công
tác thi hành án.
Ở lĩnh vực thi hành án hình sự, tại điểm 12, Điều 8 –
Nghị định số 37/1998/NĐ-CP có quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Công an, Chính phủ đã
giao cho Bộ Công an thực hiện công tác quản lý Nhà
nước về thi hành án hình sự.
Ở lĩnh vực thi hành án dân sự, khoản 1, Điều 10 Pháp
lệnh Thi hành án dân sự có quy định: “… Bộ Tư pháp
giúp Chính phủ quản lý Nhà nước về công tác thi
hành án dân sự và tổ chức việc thi hành án dân sự”.
Ở các lĩnh vực thi hành án kinh tế, lao động, Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (Điều 88)
và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao
động (Điều 104) đều quy định việc thi hành các bản
án, quyết định của Tòa án về vụ án kinh tế; vụ án lao
động và việc giải quyết cuộc đình công được thi hành
theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự.
Ở lĩnh vực thi hành án hành chính, Điều 74, khoản 1
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
cũng quy định: “Chính phủ thống nhất quản lý Nhà
nước về công tác thi hành án hành chính trong phạm
vi cả nước…”.
Như vậy, về nguyên tắc, Chính phủ thực hiện thống
nhất quản lý Nhà nước đối với công tác thi hành án,
song việc tổ chức thực hiện ở mỗi loại hình thi hành
án có những điểm đặc thù khác nhau, điều này chi
phối rất nhiều hiệu quả của công tác quản lý Nhà
nước. Như phần đầu đã từng đề cập, việc thi hành
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp

luật liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau, nếu sự
tác động, định hướng hành vi của các chủ thể này
không đồng bộ nhằm hướng tới mục đích nhất định
sẽ không phát huy được hiệu quả.
Về nội dung của quản lý Nhà nước đối với công tác
thi hành án, có thể khái quát ở mấy nội dung chủ yếu
sau đây:
- Xây dựng cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động
thi hành án.
- Xây dựng cơ chế hoạt động thi hành án.
- Xây dựng cơ chế quản lý phù hợp.
- Chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra Nhà nước về thi hành
án.
- Quản lý cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh phí, phương
tiện cần thiết cho công tác thi hành án.
- Quản lý công tác đào tạo cán bộ, thực hiện chế độ,
chính sách đối với cán bộ làm công tác thi hành án…
Trên thực tế, vấn đề quản lý công tác thi hành án và
tổ chức thi hành án không phải đồng nhất do một cơ
quan quản lý thực hiện. Ở mỗi lĩnh vực, pháp luật
quy định cách thức tổ chức thực hiện khác nhau, cơ
quan thực hiện khác nhau nhưng giữa các cơ quan
này thiếu sự phối hợp đồng bộ, ăn ý, hợp tác, cho nên
việc thực hiện giám sát, thanh tra, tổng kết công tác
chưa đạt kết quả cao.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của pháp luật một số
nước về thi hành án, cho thấy tuy các hình thức tổ
chức khác nhau, nhưng có chung một nguyên tắc là
quản lý tập trung một đầu mối, tổ chức một cơ quan
thi hành án độc lập, có quyền ra quyết định thi hành

án và trực tiếp thực hiện quản lý mọi hoạt động liên
quan đến công tác thi hành án. Quyết định thi hành
án chỉ phụ thuộc vào tính tất yếu, có căn cứ và thời
hiệu của bản án và quyết định đã có hiệu lực của Tòa
án. Điều này bảo đảm được tính khách quan, kịp thời,
nghiêm minh của pháp luật, bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành
đúng thời hạn và phát huy hiệu quả, qua đó, công tác
quản lý Nhà nước đối với thi hành án cũng sâu sát,
nắm chắc được tiến độ và giải quyết kịp thời những
vấn đề phát sinh.
Ở nước ta, việc tổ chức quản lý cơ quan thi hành án
có những điểm đặc thù. Trong phạm vi bài viết này,
chúng tôi đề cập những nét đặc thù cơ bản của hai
lĩnh vực thi hành án chủ yếu là Hình sự và Dân sự
đưa đến đặc thù trong quản lý Nhà nước với hai lĩnh
vực này.
1. Đối với thi hành án hình sự
Thi hành án hình sự bao gồm: thi hành án tử hình, thi
hành án phạt tù và thi hành án các loại hình phạt
khác. Về nguyên tắc, Chính phủ quản lý thống nhất
đối với công tác thi hành án hình sự (và Chính phủ
giao cho Bộ Công an). Trong lĩnh vực thi hành án
phạt tù, Chính phủ giao cho Bộ Công an và Bộ Quốc
phòng giúp Chính phủ thực hiện quản lý và tổ chức
công tác thi hành án phạt tù. Cơ quan Nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân, gia đình người bị kết án tù và công dân có trách
nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án trong công
tác thi hành án…

Về việc thực hiện cụ thể, pháp luật tố tụng hình sự có
quy định:
+ Hội đồng thi hành án tử hình gồm các thành phần:
Công an, Viện kiểm sát, Tòa án.
+ Cơ quan công an có nhiệm vụ thi hành án phạt tù,
tù chung thân, trục xuất và tham gia thi hành án tử
hình, phối hợp áp dụng biện pháp cưỡng chế khi có
yêu cầu.
+ Chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan tổ
chức nơi có người bị kết án cư trú hoặc làm việc có
nhiệm vụ theo dõi, giám sát việc cải tạo của những
người được hưởng án treo hoặc bị phạt cải tạo không
giam giữ; đảm nhiệm việc thi hành án quản chế, cấm
cư trú, tước một số quyền công dân, cấm đảm nhiệm
một số chức vụ hoặc cấm làm một số nghề nhất định.
+ Chấp hành viên của cơ quan thi hành án dân sự, thi
hành án phạt tiền, tịch thu tài sản, bồi thường thiệt
hại.
+ Các tổ chức trong Quân đội thi hành án các bản án
và quyết định của Tòa án Quân sự.
+ Các cơ sở y tế, trường giáo dưỡng thi hành quyết
định bắt buộc chữa bệnh và quyết định áp dụng các
biện pháp tư pháp.
+ Các cơ quan thi hành án phải báo cáo cho Chánh án
Tòa án đã ra quyết định thi hành án về việc bản án
hoặc quyết định của Tòa án đã được thi hành; nếu
chưa được thi hành phải nói rõ lý do.
+ Việc ra quyết định thi hành bản án hình sự, hoãn,
tạm hoãn, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, xóa án,
xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt hoặc miễn

chấp hành hình phạt thuộc thẩm quyền của Chánh án
Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc được ủy quyền….
Xét về mặt hình thức, việc phân công nói trên là rành
mạch, khoa học, đảm bảo cho việc thi hành án hình
sự có nhiều cơ quan, tổ chức tham gia và phối hợp
thực hiện, đảm bảo tính khách quan, dân chủ, có điều
kiện để kiểm tra, giám sát… Nhưng thực tế, nó đang
bộc lộ tính chất phân tán, xé lẻ, chia cắt, không tập
trung quyền lực, thiếu đồng bộ và có ảnh hưởng rất
lớn đến chất lượng và hiệu quả công tác thi hành án
hình sự. Đặc biệt, chính cơ chế tổ chức thi hành án
đang làm giảm hiệu lực của quản lý Nhà nước về thi
hành án. Do sự phân chia việc thi hành các loại hình
phạt cho nhiều cơ quan đảm nhận nên không thể đảm
bảo sự phối hợp giữa các cơ quan này luôn đồng bộ
trong khâu quản lý, việc giám sát cũng khó thực hiện
do nhiều đầu mối, không có cơ quan chịu trách nhiệm
thống kê tổng thể. Hơn nữa, Tòa án không phải là cơ
quan quản lý Nhà nước về thi hành án hình sự, không
phải cơ quan tổ chức thi hành án, nhưng lại nắm giữ
những khâu then chốt quyết định hiệu quả của quản
lý Nhà nước về thi hành án. Tòa án phải làm thêm
các công việc hành chính – tư pháp trong khi đó rất
bận rộn trong việc xét xử. Lẽ ra, nếu giao những công
việc này cho cơ quan thi hành án đảm nhiệm rất có
thể sẽ đạt hiệu quả và tạo thế chủ động hơn nhiều.
Một thực trạng trong quản lý Nhà nước đối với công
tác thi hành án hình sự hiện nay cần quan tâm là công
tác thi hành án các hình phạt khác không phải hình
phạt tù, không có cơ chế giám sát, theo dõi và tổng

kết thực hiện.
Theo quy định của pháp luật thì chính quyền xã,
phường, thị trấn hoặc cơ quan tổ chức nơi có người bị
kết án cư trú hoặc làm việc có nhiệm vụ theo dõi,
giám sát việc cải tạo của những người được hưởng án
treo hoặc bị phạt cải tạo không giam giữ; đảm nhiệm
việc thi hành án quản chế, cấm cư trú, tước một số
quyền công dân, cấm đảm nhiệm một số chức vụ
hoặc cấm làm một số nghề nhất định. Tuy nhiên, trên
thực tế, những cơ quan này ít khi được coi là “cơ
quan có trách nhiệm tổ chức việc thi hành án”, vì vậy
họ không được gửi bản sao bản án đã có hiệu lực
pháp luật từ phía cơ quan Tòa án, nên không có cơ sở
để thực hiện chức năng theo dõi, giáo dục. Bên cạnh
đó, nhận thức pháp luật của cán bộ ở những cơ quan
này cũng không đầy đủ, nên khó có thể đòi hỏi ở họ
kết quả giám sát, theo dõi như ở các cơ quan chuyên
trách tổ chức việc thi hành án. Hoặc giả, nếu chính
quyền địa phương nơi cư trú, cơ quan tổ chức nơi
người bị kết án công tác thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ của mình trong công tác quản lý, giáo dục
người bị án, tạo điều kiện để Tòa có thể rút ngắn thời
gian chấp hành hình phạt, thời hạn thử thách và sớm
được xóa án, nhưng lại không có cơ chế đôn đốc,
theo dõi, giám sát các cơ quan chức năng thực hiện
nhiệm vụ này. Chế độ báo cáo cũng thất thường…
dẫn đến việc Tòa án (không phải cơ quan quản lý
Nhà nước về công tác thi hành án hình sự) lại phải
cất công theo dõi, kiểm tra và thực hiện những công
việc hết sức thủ tục hành chính để đảm bảo cho việc

ra các quyết định miễn giảm, xóa án… được chính
xác.
Hiệu quả của quản lý Nhà nước có thể đạt được từ
quản lý vĩ mô và quản lý trực tiếp. Song nếu thực
hiện đồng bộ và có sự bổ sung, quan hệ trực tiếp với
nhau thì hiệu quả của quản lý sẽ đạt cao hơn nhiều.
Với thực trạng hiện hành, chắc chắn không thể tránh
khỏi những sơ hở, vi phạm về tính thời hiệu của việc
thi hành bản án và những hậu quả tiêu cực khác dẫn
đến làm giảm sút niềm tin, giảm sút tính nghiêm
minh của pháp luật. Vì vậy, cần phải đổi mới, tổ chức
lại cách phân công thi hành án, giao cho một cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền quản lý tập trung, thống
nhất, chỉ đạo hướng dẫn tổng kết kinh nghiệm một
cách thường xuyên kịp thời. Có như vậy mới có thể
làm tăng hiệu quả quản lý Nhà nước đối với công tác
này và qua đó đảm bảo được tính nghiêm minh của
pháp luật, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, thể
hiện quyền lực Nhà nước.
2. Đối với thi hành án dân sự
Hiện nay, việc thi hành án kinh tế, lao động và các
quyết định về phần tài sản, quyền tài sản trong các
bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính
được thi hành theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự.
Bên cạnh đó, ngoài việc thi hành các bản án, quyết
định của vụ án dân sự đã có hiệu lực pháp luật, cơ
quan thi hành án dân sự còn thi hành cả án phạt tiền,
tịch thu tài sản, bồi thường thiệt hại (phần dân sự
trong bản án, quyết định của vụ án hình sự đã có hiệu
lực pháp luật). Với khối lượng công việc trên, nhiệm

vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự rất
phức tạp và nặng nề.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, Chính phủ
thống nhất quản lý Nhà nước về công tác thi hành án
dân sự trong phạm vi cả nước. Bộ Tư pháp giúp
Chính phủ quản lý Nhà nước về công tác thi hành án
dân sự và tổ chức việc thi hành án dân sự. Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ trưởng Bộ Tư pháp
giúp Chính phủ quản lý Nhà nước về công tác thi
hành quyết định về tài sản trong bản án hình sự của
Tòa án quân sự và tổ chức các cơ quan thi hành quyết
định về tài sản trong bản án hình sự của Tòa án quân
sự. Hiện nay trong lĩnh vực thi hành án dân sự, có 4
cơ quan sau đây thực hiện nhiệm vụ quản lý công tác
thi hành án dân sự:
- Cục quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp;
- Phòng quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng;
- Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Phòng Tư pháp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh.
Về nguyên tắc, hệ thống các cơ quan thi hành án
được tổ chức theo ngành dọc từ trung ương đến địa
phương: Cục Thi hành án (ở trung ương), Phòng Thi
hành án (ở tỉnh), Đội Thi hành án (ở huyện), nhưng
việc tổ chức thi hành án thì chỉ có cấp Phòng (ở tỉnh)
và Đội (ở huyện). Cục Thi hành án (ở trung ương)
thuộc Bộ Tư pháp chỉ thực hiện chức năng quản lý
Nhà nước và hướng dẫn nghiệp vụ, đôn đốc cấp
Phòng và Đội thực hiện tổ chức thi hành án. Cục
Quản lý thi hành án dân sự không có thẩm quyền ra

quyết định can thiệp vào công việc chuyên môn thi
hành án của cấp Phòng và cấp Đội. Việc ra quyết
định tạm hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ việc thi hành án
dân sự thuộc thẩm quyền của cơ quan tố tụng. Như
phần đầu đã trình bày, hiệu quả của quản lý Nhà
nước về thi hành án phụ thuộc và có mối quan hệ trực
tiếp đến hiệu quả của việc tổ chức thi hành án. Với
quy định của pháp luật hiện hành thì thẩm quyền của
cơ quan thi hành án cấp Trung ương không tác động
trực tiếp đến cơ quan thi hành án địa phương về chỉ
đạo nghiệp vụ. Trên thực tế, các công văn chỉ đạo
nghiệp vụ của cấp trên xuống cấp dưới ít phát huy
hiệu quả trực tiếp.
Trong khi đó, bản thân hệ thống cơ quan quản lý về
thi hành án cũng không được tổ chức theo ngành dọc.
Do cơ cấu, tổ chức của ngành tư pháp không theo
nguyên tắc tập trung thống nhất có tính ngành dọc
nên việc quản lý công tác thi hành án ở các địa
phương gặp nhiều bất cập, khó khăn. Mặc dù các cơ
quan tư pháp địa phương được giao nhiệm vụ thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước về công tác thi
hành án, song cả Sở Tư pháp và Phòng Tư pháp là bộ
phận có biên chế trực thuộc Ủy ban nhân dân cùng
cấp, hưởng lương từ ngân sách địa phương, không
chịu sự chi phối, quản lý trực tiếp của Bộ, Ngành
trung ương (có chăng là chịu sự quản lý vĩ mô).
Trong khi đó, những cơ quan thi hành án là đối tượng
quản lý của nó thì lại trực thuộc Bộ, Ngành trung
ương.
Chủ thể quản lý ở địa phương không quản lý về

chuyên môn nghiệp vụ, không quản lý về tổ chức,
kinh phí, ngân sách, cán bộ… do vậy, tính chi phối,
tác động trực tiếp của hoạt động quản lý kém hiệu
quả, đôi khi lại can thiệp sâu vào công việc chuyên
môn nghiệp vụ của cơ quan thi hành án. Mặt khác,
việc tổ chức thi hành án những vụ việc cụ thể có
nhiều vấn đề liên quan trực tiếp đến địa phương, cần
có sự phối hợp, huy động, tác động của nhiều ngành
ở địa phương nhưng ở nhiều nơi, nhiều lúc, cơ quan
thi hành án không được sự quan tâm ủng hộ của chủ
thể quản lý ở địa phương, đưa đến hiệu quả của công
tác thi hành án dân sự chưa cao, nhiều vụ án bị tồn
đọng hoặc không có điều kiện thi hành.
Ở những trường hợp như trên khó có thể định ra các
tiêu chí để đánh giá hiệu quả của công tác quản lý.
Với những quy định về cơ cấu tổ chức và cơ chế
quản lý hiện hành trong lĩnh vực thi hành án dân sự
đã đưa đến thực trạng thiếu sự quy định cụ thể, rõ
ràng về phạm vi và nội dung quản lý, vì vậy có nơi
thì quản lý lấn sân, nơi thì quá lỏng lẻo, không phát
huy được hết vai trò quản lý. Bên cạnh đó, cơ quan
thi hành án cấp Đội (ở quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh)
phải chịu quá nhiều tầng nấc thanh tra, kiểm tra và
giới hạn, phạm vi của tranh tra, kiểm tra trong lĩnh
vực này hiện nay chưa được quy định cụ thể.
Có thể nói, cũng như cơ chế quản lý trong thi hành án
hình sự, cơ chế quản lý Nhà nước đối với công tác thi
hành án dân sự hiện nay là chưa phù hợp và không
phát huy được hiệu quả. Mặc dù nhiều cơ quan thực
hiện chức năng quản lý nhưng nội dung quản lý và

phạm vi quản lý lại không rõ ràng. Bản thân các cơ
quan quản lý được tổ chức thiếu thống nhất, thiếu sự
phối hợp nên không có khả năng kết dính để thúc đẩy
và tạo điều kiện cho các cơ quan thi hành án tổ chức
hoạt động có hiệu quả, đôi khi còn can thiệp chỉ đạo
bất hợp lý vào công tác nghiệp vụ của cơ quan
chuyên môn.
Để hoạt động thi hành án dân sự đạt hiệu quả, cần
thiết phải quan tâm đến hoạt động đặc thù mang tính
chính trị – xã hội rộng lớn của nó để xây dựng cơ chế
quản lý phù hợp. Công tác quản lý thi hành án nói
chung và thi hành án dân sự nói riêng cần tập trung
thống nhất về một đầu mối, giao cho một cơ quan
Nhà nước đảm nhận, có thẩm quyền quản lý tập
trung, thống nhất, chỉ đạo hướng dẫn, chi phối và
phải chịu trách nhiệm về mọi vấn đề liên quan đến
công tác thi hành án. Bên cạnh đó, cần quy định cơ
chế phối hợp, phát huy sức mạnh của toàn xã hội
trong việc thực hiện công tác thi hành án. Suy cho
cùng, nếu hiệu quả pháp luật là kết quả đạt được trên
thực tế do sự tác động của pháp luật mang lại thì hiệu
quả của công tác thi hành án chính là kết quả hiện
hữu đã đạt được trên thực tế do sự tác động của pháp
luật. Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của
Tòa án mới chỉ là kết quả trên giấy tờ. Chỉ khi nào
phán quyết đó (bằng sự tác động của pháp luật) phát
huy hiệu lực trên thực tế mới đảm bảo được tính
nghiêm minh và hiệu quả của pháp luật, thể hiện
được quyền lực của Nhà nước đối với xã hội.


×