Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tiểu luận luật kinh tế Mâu thuẫn giữa Tổng giám đốcgiám đốc và HĐQTHĐTV. Nguyên nhân và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.03 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
------------

Môn: Luật kinh tế
Đề tài:

Mâu thuẫn giữa TGĐ/GĐ và HĐQT/HĐTV.
Nguyên nhân và giải pháp
GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI
NTH: Nhóm 3.
Lớp đêm 4 – Khóa 22.
Danh sách nhóm
1. Cao Nữ Nguyệt Anh
2. Trần Quốc Huy
3. Ngô Thị Yến Nhi
4. Trịnh Thị Thu Phương
5. Lê Trung Quốc (Nhóm trưởng)

0902738786

6. Lê Thị Phương Thảo
7. Đặng Thị Phương Trang
8. Mai Nguyễn Huyền Trang

TPHCM, tháng 03 năm 2013.


GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI

NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22



Nhận xét của Giảng viên.

.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
2


GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI


NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22

LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời gian qua đã có khơng ít các vụ mâu thuẫn, xung đột giữa nội bộ ban
quản trị các công ty và Hội đồng quản trị/Hội đồng thành viên; có những vụ việc chỉ “lời
qua tiếng lại” giữa các bên trên báo chí rồi lặng lẽ đi vào quên lãng nhưng cũng có những
vụ việc các bên kiện nhau ra tịa và vẫn chưa có hồi kết. Nhân thời gian đang nghiên cứu
tìm hiểu về mơn luật kinh tế, Nhóm 3 nhận được đề tài: “Tìm và phân tích ít nhất 5 vụ
việc thực tế về xung đột giữa TGĐ/GĐ với HĐQT/HĐTV trong thực tiễn kinh doanh
của Doanh nghiệp. Nguyên nhân và giải pháp”; qua đề tài này nhóm cũng muốn góp
phần tìm hiểu cặn kẽ hơn về các vụ lùm xùm giữa Giám đốc/Tổng Giám đốc và Hội đồng
quản trị/Hội đồng thành viên của công ty và từ đó đưa ra một số kiến nghị hữu ích cho
các nhà quản lý cơng ty, các cổ đơng. Ngồi ra, nhóm cũng mong muốn thơng qua đề tài
giúp cho những người quản lý, các cổ đơng có một cái nhìn rõ ràng, nhận thức đúng hơn
về vai trị, quyền hạn và nghĩa vụ của mình trong cơng ty; và quan trọng hơn hết là phải
tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật về lĩnh vực mình kinh doanh hoặc đầu tư.
Nhân đây, nhóm 3 xin cám ơn PGS.TS Bùi Xuân Hải đã dành thời gian q báu
của Thầy để hướng dẫn tận tình cho nhóm. Do kiến thức còn hạn chế và thời gian hạn hẹp
nên Bài tiểu luận khơng tránh khỏi những thiếu sót, nhóm 3 mong Thầy và các bạn trong
lớp đóng góp ý kiến để nhóm hồn thiện thêm.

3


GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI

NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22

MỤC LỤC


Nhận xét của Giảng viên...................................................................................................2
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................3
MỤC LỤC......................................................................................................................... 4
I.PHÂN TÍCH CÁC VỤ MÂU THUẪN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP................5
1.Vụ kiện giữa chủ tịch Hoa sen và cựu Tổng Giám đốc...............................................5
2.Vụ xung đột lợi ích trong cơng ty FPT ........................................................................8
Cơng ty Cổ phần FPT (FPT Corporation), thành lập ngày 13/09/1988, đã liên tục
phát triển và trở thành tập đồn cơng nghệ thông tin và viễn thông hàng đầu Việt
Nam.................................................................................................................................... 8
3.Mâu thuẫn giữa chủ tịch HĐQT và TGĐ công ty Sabeco........................................10
4.Rắc rối việc bổ nhiệm Tổng Giám đốc Sudico...........................................................15
5.Mâu thuẫn nội bộ trong công ty Bông bạch tuyết dẫn đến thất bại của công ty.....17
6.Mâu thuẫn giữa nội bộ công ty cổ phần Tràng Tiền.................................................20
7.Tình huống tại cơng ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư Phương Đông..........................21
II.MỘT SỐ KIẾN NGHỊ................................................................................................24
1.Một số kiến nghị dưới góc độ quản lý doanh nghiệp.................................................24
2.Một số kiến nghị thay đổi luật doanh nghiệp.............................................................25
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 26
Tài liệu tham khảo..........................................................................................................27

4


GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI

NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22

I.

PHÂN TÍCH CÁC VỤ MÂU THUẪN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP


1.

Vụ kiện giữa chủ tịch Hoa sen và cựu Tổng Giám đốc

1.1. Sơ nét về công ty Hoa Sen
Trong thời gian khoảng giữa tháng 4 năm 2012, chúng ta cũng thấy vụ lùm xùm kiện cáo
giữa chủ tịch Tập đoàn Hoa Sen với cựu Tổng Giám đốc.
Tập đoàn Hoa sen được thành lập ngày 8/8/2001. Tập đồn Hoa Sen có trụ sở tại Thị Xã
Dĩ An, Bình Dương. Qua hơn 10 năm phát triển thì cơng ty từ số vốn 30 tỷ đồng lúc thành
lập với 22 nhân viên và 3 chi nhánh; đến năm 2012 công ty đã đạt doanh thu xuất khẩu
hơn 180 triệu USD, trở thành một trong những doanh nghiệp xuất khẩu tôn mạ hàng đầu
Đông Nam Á, tổng số chi nhánh bán lẻ trên 108.
1.2. Nội dung vụ kiện
Vào giữa tháng 4 năm 2012, cựu Tổng giám đốc Cơng ty cổ phần tập đồn Hoa Sen
(HSG) Phạm Văn Trung đã nộp đơn khởi kiện HSG, doanh nghiệp mình từng làm việc
hơn 10 năm với lý do đã “vu khống, bôi nhọ, xúc phạm danh dự” ơng. Tịa án huyện Dĩ
An, Bình Dương đã tiếp nhận đơn kiện.
Vụ lùm xùm giữa HSG và cựu CEO của mình bắt đầu gay cấn khi Chủ tịch HĐQT HSG
Lê Phước Vũ phát biểu tại Đại hội cổ đông ngày 22/3 về lý do mà ông Phạm Văn Trung
nghỉ việc tại HSG là vì thiếu minh bạch trong điều hành. Sau đó, trên các phương tiện
truyền thơng bắt đầu cuộc khẩu chiến giữa cựu CEO của HSG với những lãnh đạo cốt cán
của HSG hiện tại.
Đến ngày 17/4, ông Phạm Văn Trung đã chính thức đệ đơn lên Tịa án Nhân dân huyện
Dĩ An (Bình Dương) khởi kiện HSG về việc vu khống, bôi nhọ, xúc phạm danh dự của
ông. Ơng u cầu HSG phải cải chính thơng tin sai sự thật và xin lỗi công khai trên 3 kỳ
báo.
Đáp lại, ngày 18/4 HSG đã gửi lên Ủy ban chứng khoán nhà nước và Sở giao dịch chứng
khoán TPHCM bản công bố thông tin cho biết là sẽ khởi kiện ông Phạm Văn Trung đòi
bồi thường 26 tỷ đồng và nhiều quyền lợi khác.

Theo HSG, vào ngày 22/10/2010, ông Phạm Văn Trung đã ký cam kết về chế độ trách
nhiệm của cán bộ quản lý đối với HSG, trong đó ghi rõ: “Trong thời gian hiệu lực hợp
đồng và trong vịng 36 tháng kể từ khi nghỉ việc tại cơng ty, tôi không được phép: cung
cấp thông tin, tiết lộ bí mật kinh doanh ra ngồi, khơng được phép hợp tác, sản xuất, kinh
doanh, làm đại lý sử dụng, tiết lộ thông tin về khách hàng, mặt hàng, sản phẩm tương tự
của công ty cho bất kỳ tổ chức, cá nhân nào nhằm phục vụ công việc riêng của cá nhân
mà chưa được sự đồng ý bằng văn bản từ phía cơng ty. Trường hợp bị phát hiện, cá nhân
đó sẽ bị khởi tố trước pháp luật”.
5


GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI

NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22

Ơng Trung giữ các vị trí điều hành quan trọng của HSG từ tháng 4/2007 với chức danh
Phó tổng giám đốc phụ trách kinh doanh. Ơng chính thức trở thành Tổng giám đốc HSG
từ ngày 1/4/2011. Đến ngày 18/4 thì ơng Trung nộp đơn xin thơi việc. Hội đồng quản trị
HSG chấp thuận miễn nhiệm chức danh Tổng giám đốc của ông Trung từ ngày 27/4/2011
nhưng chưa cho thôi việc.
Đến ngày 19/11/2011 thì ơng Trung được bầu vào làm thành viên Hội đồng quản trị của
công ty thép Nam Kim. Trong cùng ngày hơm đó, ơng Trung được bổ nhiệm chức vụ
Tổng giám đốc NKG.
Theo Hội đồng quản trị HSG, việc ông Phạm Văn Trung hợp tác làm việc với NKG với
chức danh thành viên Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc sau khi tự ý thôi việc tại
HSG mới chỉ 7 tháng là đã vi phạm nghiêm trọng cam kết chế độ trách nhiệm nêu trên.
Thời điểm đó HSG đã củng cố hồ sơ để khởi kiện ông Trung vi phạm cam kết này.
Trong đó, trọng điểm là HSG sẽ khởi kiện ơng Phạm Văn Trung địi bồi thường những
thiệt hại của HSG do ông Phạm Văn Trung gây ra liên quan đến các hợp đồng mua bán
với ước tính thiệt hại khoản 26 tỷ đồng; yêu cầu ơng Trung hồn trả những khoản tiền tạm

ứng, tiền nợ mua hàng mà ơng Trung khơng thanh tốn cho HSG và bồi thường những
thiệt hại khác của HSG do ông Trung gây ra trong thời gian ông điều hành HSG.
Theo Hội đồng quản trị HSG thì việc khiếu kiện này có thể ảnh hưởng đến hoạt động sản
xuất kinh doanh, uy tín và giá cổ phiếu NKG trên thị trường chứng khốn. Theo HSG thì
cơng ty này khơng có ý định cạnh tranh không lành mạnh với bất kỳ cơng ty nào, trong đó
có NKG nhưng buộc phải làm những động thái trên để bảo vệ quyền lợi của mình.
Trong cơng bố thơng tin của mình, HSG đề nghị NKG chấm dứt sử dụng lao động đối với
ông Phạm Văn Trung và các cán bộ quản lý khác đã từng làm việc tại HSG và có cam kết
chế độ trách nhiệm với HSG.
Hội đồng quản trị HSG khẳng định: “Nếu NKG không tiến hành chấm dứt sử dụng lao
động đối với các đối tượng trên thì HSG được quyền xem như NKG có chủ trương thơng
đồng, cấu kết với các cá nhân trên để cạnh tranh không lành mạnh với HSG và làm tổn
hại đến lợi ích hợp pháp của HSG. Trong trường hợp đó, chúng tơi buộc phải sử dụng các
biện pháp pháp lý và truyền thông cần thiết để bảo vệ lợi ích hợp pháp của chúng tôi”.
Qua các thông tin về vụ lùm xùm giữa Hoa Sen, cụ thể là chủ tịch Lê Phước Vũ và cựu
CEO, nhóm xin có những phân tích và bình luận như sau:
 Việc Hoa Sen yêu cầu ông Trung bồi thường thiệt hại liên quan đến các hợp đồng
mua bán trong thời gian ông Trung điều hành tại Hoa Sen thì phải căn cứ vào nội
dung các quy định của công ty, hợp đồng lao động ký kết để xem xét và giải quyết;
6


GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI

NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22

cụ thể tại khoản 4 điều 116 có nêu: “Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải điều hành
công việc kinh doanh hằng ngày của công ty theo đúng quy định của pháp luật,
Điều lệ công ty, hợp đồng lao động ký với công ty và quyết định của Hội đồng
quản trị. Nếu điều hành trái với quy định này mà gây thiệt hại cho cơng ty thì Giám

đốc hoặc Tổng giám đốc phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường
thiệt hại cho công ty”.
 Việc Hoa sen yêu cầu Nam Kim chấm dứt sử dụng lao động đối với ơng Trung thì
khơng hợp lý vì:
- Việc một doanh nghiệp ngăn cấm một người lao động đã từng làm việc cho
mình khơng được làm việc cho các doanh nghiệp khác trong một thời gian nhất
định là không thể được, dù lý do của việc ngăn cấm là hợp lý. Điều này trái với
các quy định của Hiến pháp và các quy định của Bộ Luật lao động nước ta; cụ
thể:
+ Tại điều 55 của Hiến pháp năm 1992: “Lao động là quyền và nghĩa vụ của
công dân”.
+ Tại điều 5 của Bộ Luật lao động quy định: “Mọi người đếu có quyền làm
việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ
nghề nghiệp, khơng bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã
hội, tín ngưỡng, tơn giáo”.
- Qua các thơng tin về vụ kiện thì chúng ta có thể thấy khơng có bất kỳ nội dung
nào cấm ông Trung không được phép làm việc với tư cách là người lao động
cho cơng ty đối thủ. Ngồi ra, người lao động có quyền tự do lựa chọn, làm
việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và ở bất kỳ nơi đâu mà pháp luật
không cấm.
- Ngoài ra, Nam Kim là một đơn vị pháp nhân có tư cách độc lập, có quyền tự
do thuê mướn, tuyển dụng lao động mà không phụ thuộc hoặc phải xin phép
bất kỳ bên thứ ba nào.
 Nguyên nhân:
- Chưa phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của Tổng Giám đốc.
- Các văn bản quy định, cam kết giữa công ty và TGĐ không rõ ràng.
 Giải pháp:
- Mô tả công việc rõ ràng, chi tiết cho chức danh TGĐ.
- Quy định định rõ quyền hạn và trách nhiệm của TGĐ.
- Hợp đồng lao động, các cam kết phải được nêu rõ ràng tránh các quy định

chung chung gây khó khăn khi thực hiện.

7


GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI
2.

NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22

Vụ xung đột lợi ích trong cơng ty FPT

Cơng ty Cổ phần FPT (FPT Corporation), thành lập ngày 13/09/1988, đã liên tục phát
triển và trở thành tập đồn cơng nghệ thông tin và viễn thông hàng đầu Việt Nam.
Như đã biết cơng ty cổ phần là loại hình cơng ty có cơ cấu tổ chức phức tạp do tính chất
đối vốn và số lượng cổ đông lớn, quy mô hoạt động lớn. Chính điều này quyết định đến
cơ cấu tổ chức của công ty. Tuy công ty cổ phần được thành lập bởi các sáng lập viên,
song sau khi cổ phần được phát hành, các sáng lập viên đó phải chia sẻ quyền lực với các
cổ đơng khác. Ngồi ra, số lượng cổ đơng linh hoạt thay đổi vì cổ đơng dễ dàng chuyển
nhượng cổ phần của mình cho người khác
Trong đó, trách nhiệm tối cao của hội đồng quản trị (HĐQT) trong một công ty cổ phần là
đại diện cho quyền lợi của các cổ đông. Một HĐQT hoạt động minh bạch, đặt quyền lợi
của cổ đông và sự phát triển của cơng ty lên trên lợi ích riêng của mình là một trong
những mục tiêu hướng đến của thông lệ tốt trong quản trị doanh nghiệp mà VN đang cố
gắng xây dựng.
Cổ đông là người sở hữu cổ phần đã phát hành của DN và có quyền quyết định đến các
vấn đề liên quan đến DN phụ thuộc vào tỷ lệ nắm giữ cổ phần. Hãy hình dung cơng ty
cũng giống như một Nhà nước, mỗi nhóm cổ đông sẽ đại diện cho một giai cấp nên bất kỳ
sự biến động chính trị nào cũng sẽ tác động ít nhiều đến lợi ích của các giai cấp khác
trong xã hội.

Thơng thường, xung đột lợi ích giữa các cổ đông lớn và Hội đồng quản trị (HĐQT) trong
nội bộ cơng ty đã là một vấn đề gây khó khăn cho DN
Từ câu chuyện 11 thành viên trong HĐQT Cơng ty FPT tự cho mình cái “đặc quyền”
được góp vốn vào các công ty “con” của FPT, cho thấy cơ chế bảo vệ lợi ích và đảm bảo
sự đối xử công bằng đối với mọi cổ đông trong FPT đã bị xâm phạm nặng nề.
Các cổ đông thiểu số của FPT khơng thể kiện vì HĐQT đã làm đúng theo quyền hạn mà
họ đã được đại hội cổ đông trao, tức được lập công ty con và quyết định những ai được
quyền góp vốn trong những cơng ty này. Thế giới cũng đã thống kê rằng các xung đột
quyền lợi “kiểu” FPT không phải là hiếm.
Cho nên, trong các rủi ro liên quan đến quản trị doanh nghiệp yếu kém, các nhà nghiên
cứu đã chỉ ra một trong các rủi ro lớn nhất là gian lận trong chuyển nhượng tài sản. Ở đó,
các cán bộ cấp cao chuyển nhượng tiền hoặc tài sản của cơng ty ra ngồi cơng ty một cách
khơng chính đáng. Đó chính là việc giá trị tài sản FPT được chuyển nhượng gần như bằng
không trong các thương vụ góp vốn, đổi lại là các thành viên HĐQT FPT được quyền
mua một tỉ lệ cổ phần lớn với giá gốc.
Việc FPT “ký hợp đồng” bán cổ phần trong các công ty “con” cho các thành viên trong
HĐQT được nhìn nhận là một kiểu lạm dụng quyền hạn của HĐQT và có thể đem lại rủi
ro đáng kể cho các nhà đầu tư nhỏ, bởi giao dịch này diễn ra theo những điều khoản có lợi
cho HĐQT và do đó đem đến bất lợi cho cơng ty như một tổng thể.
8


GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI

NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22

Vụ đem thương hiệu cơng ty mẹ đi góp vốn tràn lan khơng chỉ cần xem xét ở góc độ đạo
đức của người lãnh đạo mà cũng cần phân tích vai trị của ban kiểm sốt cơng ty. Ban này
được sinh ra với nhiệm vụ chủ yếu là xem xét các khoản chi đầu tư hoặc rút vốn đầu tư
quan trọng, giám sát những xung đột quyền lợi tiềm ẩn của các thành viên HĐQT, thành

viên ban giám đốc và các cổ đơng lớn, trong đó có cả việc sử dụng sai tài sản công ty.
Nếu nhận thấy điều lệ của FPT đang “sơ hở”, tạo điều kiện cho HĐQT lạm dụng để phục
vụ lợi ích cho mình thì chính ban này phải kiến nghị đến các cổ đơng để có những thay
đổi cần thiết.
Bên cạnh đó khác với công ty TNHH 2 thành viên trở lên, các cổ đông trong công ty cổ
phần không thể trực tiếp quản lý điều hành như thành viên trong công ty TNHH. Các cổ
đông phải họp lại với nhau, tạo nên Đại hội đồng cổ đơng, chọn ra một số người thay
mình quản lý cơng ty. CTCP có sự tách bạch giữa sở hữu và quản trị điều hành trong công
ty. Do đó, CTCP là sự biểu hiện rõ nét nhất của mơ hình quản lý 3 cấ p: Đại hội đồng cổ
đông (cơ quan chủ sở hữu), Hội đồng quản trị (cơ quan quản lý), Ban giám đốc (cơ quan
điều hành) . Mỗi cấp quản lí có một nhiệm vụ, chức năng riêng biệt hồn thiện bộ máy
quản trị cơng ty. Ngồi ra, Ban kiểm sốt được thành lập ở những cơng ty có trên 11 cổ
đơng là cá nhân, hoặc có cổ đơng là tổ chức nắm trên 50% tổng số cổ phần của cơng ty,
có chức năng giám sát hội đồng quản trị và Tổng giám đốc trong việc quản lý và điều
hành cơng ty. Chính vì vậy, việc tổ chức quản lí cơng ty cổ phần sẽ khó khăn và dễ dẫn
đến lạm quyền nếu không được pháp luật quy định một cách chặt chẽ.
Như đã biết một trong những sự kiện đáng nhớ nhất diễn ra tại FPT là vào ngày
31/12/2008, khi Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Trương Gia Bình cơng bố quyết
định sẽ chuyển giao vị trí Tổng Giám đốc điều hành cho Chủ tịch HĐQT FPT Software,
lúc đó là ơng Nguyễn Thành Nam. Đây là bước chuyển mới khi tách bạch giữa cơ quan
quản lý và cơ quan điều hành. Tuy nhiên ông Nguyễn Thành Nam đã rời khỏi ghế CEO
của FPT chỉ sau vỏn vẹn hai năm trong sự tiếc nuối của nhiều người. Lý do khi từ nhiệm
của ông được công bố đơn giản là: do FPT muốn thực hiện trẻ hóa đội ngũ nhân sự cao
cấp. Chỉ xét về tuổi tác đơn thuần, ở độ tuổi 50 như ông Nguyễn Thành Nam, đương
nhiên lý do này rất hợp lý. Nhưng những người hiểu nội tình FPT lại khơng hiểu như lý
do mà FPT cơng bố.
Ngay sau đó là sự xuất hiện của CEO mới trong sự chờ đợi của cả tập đồn. Trương Đình
Anh nhậm chức với hình ảnh của một nhà lãnh đạo trẻ, tài năng, thông minh song đề cao
tính thực dụng. Đáng chú ý, thời gian Trương Đình Anh ngồi ghế CEO cịn ngắn hơn
người tiền nhiệm Nguyễn Thành Nam. Sự ra đi chóng vánh này khiến ai chưa hiểu sẽ

hiểu. Tại sao một cộng sự tin cậy và mềm dẻo như ông Nguyễn Thành Nam cũng không
thể yên vị ở chiếc ghế CEO FPT như ông Trương Gia Bình đã ngồi suốt 22 năm qua? Tại
sao một người táo bạo, nói được làm được như Trương Đình Anh cũng chỉ trụ được ở đó
đúng một năm? Tổng Giám đốc một cơng ty cổ phần bình luận, sự va chạm trong công
việc giữa Chủ tịch HĐQT với Tổng Giám đốc là không tránh khỏi. Sự khác biệt về tư duy
quản trị cũng là điều dễ hiểu. Nhưng những va chạm, chi phối, xung đột phức tạp trong
quyền lực lại là câu chuyện hoàn toàn khác. Tại nhiều doanh nghiệp, không hiếm CEO đi
9


GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI

NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22

làm th bị coi như "bù nhìn", bởi khơng được chủ doanh nghiệp tin tưởng và trao thực
quyền, mặc dù bề ngồi có vẻ như vậy.
 Ngun nhân:
- Trên thực tế, do nhận thức không đầy đủ về quyền hạn của cổ đơng, của
HĐQT, ban kiểm sốt, giám đốc cũng như thủ tục trình tự đại hội đồng cổ
đơng, đặc biệt là đại hội đồng cổ đông bất thường, nên dẫn đến cổ đông lạm
quyền và can thiệp quá sâu vào công tác quản lý, điều hành công ty, gây nên
những xung đột nội bộ khơng đáng có.
- Việc không tách rời giữa những người đại diện chủ sở hữu vốn (HĐQT) và
những người điều hành doanh nghiệp (giám đốc) và có thể là những lao động
trong doanh nghiệp (mà không phải là cổ đông) dẫn đến cần hiểu rõ quyền hạn
và nghĩa vụ và việc giám sát của các bên tham gia trong mối quan hệ này.
- Ban giám sát hoạt động không thực sự hiệu quả.
 Giải pháp:
- Phải tách bạch giữa các cơ quan : cơ quan chủ sỡ hữu, cơ quan quản lý, cơ
quan điều hành và ban giám sát.

- Cần nhận thức rõ tầm quan trọng của kiểm soát nội bộ, và xây dựng những hệ
thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu. Hội đồng các tổ chức tài trợ Uỷ ban
Treadway (COSO) xây dựng mơ hình đánh giá hệ thống kiểm sốt nội bộ được
thừa nhận và áp dụng rộng rãi trên thế giới.
- Theo mơ hình này, kiểm sốt nội bộ được định nghĩa là “Quy trình do HĐQT,
ban điều hành và các cá nhân thực thi, được xây dựng nhằm đưa ra sự đảm bảo
ở mức độ hợp lý đối với mục đích đạt được của những nội dung như: tính hiệu
quả và hiệu năng của quá trình hoạt động; mức độ tin cậy của các báo cáo tài
chính; và tính tuân thủ các quy định và luật pháp hiện hành”. Một hệ thống
kiểm soát nội bộ được coi là hữu hiệu khi được thiết kế bao gồm: mơi trường
kiểm sốt; đánh giá rủi ro; những hoạt động kiểm sốt; thơng tin và trao đổi
thơng tin, giám sát
- Có thể nói trong hoạt động công ty cổ phần, việc đảm bảo hài hồ lợi ích giữa
chủ sở hữu doanh nghiệp với người quản lý là một trong những nội dung cơ
bản của quản trị công ty.
3.

Mâu thuẫn giữa chủ tịch HĐQT và TGĐ cơng ty Sabeco

Khơng tìm được tiếng nói chung trong quá trình điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh
của tổng công ty sabeco, Chủ tịch hội đồng quản trị và tổng giám đốc bị bộ chủ quản buộc
thôi nhiệm vụ quản lý phần vốn nhà nước ở Sabeco vào ngày 3/5/12.
Được thành lập theo Quyết định số 74/2003/QĐ-BCN ngày 6/3/2003 và đến năm 2008 đã
được tiến hành cổ phần hóa theo chủ trương của Nhà nước. Theo đó, ngày 7/4/2008, đại
10


GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI

NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22


hội đồng cổ đông đã thông qua Điều lệ Sabeco, trong đó, cổ phần của Nhà nước chiếm
89,59% vốn điều lệ; Sabeco hoạt động theo Luật Doanh nghiệp của năm 2005 và Điều lệ
Sabeco. Ngay sau đó, Bộ Cơng thương với vai trị là Bộ chủ quản được Chính phủ giao
quản lý phần vốn Nhà nước tại Sabeco đã cử ông Nguyễn Bá Thi giữ chức Chủ tịch Hội
đồng quản trị, phụ trách bộ phận. Và đến ngày 22/4/2008, ông Nguyễn Bá Thi đã có văn
bản số 01/2008/GUQ-HĐQT ủy quyền lại cho ông Nguyễn Quang Minh, Tổng giám đốc.
Sau hơn 8 năm đi vào hoạt động, tính tới thời điểm Thanh tra Chính phủ tiến hành thanh
tra tại Sabeco, Sabeco được biết đến là một doanh nghiệp lớn có địa bàn hoạt động sản
xuất, kinh doanh rộng, có nhà máy và cơ sở tại nhiều tỉnh, thành trên cả nước, bao gồm: 2
nhà máy hạch toán phụ thuộc, 3 đơn vị sự nghiệp hạch toán độc lập (100 vốn Sabeco), 10
cơng ty con (Sabeco góp trên 50% vốn), 1 Công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một
thành viên (có 9 Cơng ty cổ phần thương mại trực thuộc) và hợp tác xã sản xuất bia Sài
Gòn với 5 công ty khác.
Tuy nhiên, sau quãng thời gian tăng trưởng và phát triển ấn tượng, từ năm 2007 đến năm
2010, nhiều bất ổn trong quá trình hoạt động của Sabeco đã nổi lên. Cụ thể:
-

Trước tình hình biến động của thị trường Malt và Houblon - hai mặt hàng quan trọng
để phục vụ việc sản xuất bia, ngày 11/8/2008, HĐQT Tổng công ty Cổ phần Bia Rượu - Nước giải khát Sài Gịn (TCT BR-NGK SG) đã thơng qua Nghị quyết số
08/2008/NQ-HĐQT về việc ký hợp đồng mua Malt và Houblon dài hạn nội dung nêu
rõ: Để đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty, việc mua Malt và
Houblon có thể ký hợp đồng dài hạn với nhà cung cấp trực tiếp về số lượng và chất
lượng; giá mua sẽ quyết định hàng năm. Sau khi chọn xong đối tác chiến lược sẽ xem
xét giá mua dài hạn. Đối với các công ty thương mại trung gian, chỉ ký hợp đồng mua
từng năm một. Giao Tổng Giám đốc chủ trì xây dựng Quy chế mua, bán ngun vật
liệu của Tổng cơng ty để trình HĐQT phê duyệt, ban hành thực hiện.

-


Trong các cuộc họp HĐQT TCT BR - NGK SG, nhiều lần ông Minh nêu những biến
động của thị trường để thuyết phục HĐQT đồng ý phương án cho Tổng Giám đốc
được ký mua Malt và Houblon dài hạn, nhưng HĐQT đã không ủng hộ chủ trương
này để hạn chế thấp nhất rủi ro và thiệt hại của Tổng Công ty.

-

Từ nghị quyết của HĐQT, ngày 18/8/2008, Chủ tịch HĐQT TCT BR-NGK SG
Nguyễn Bá Thi đã có thơng báo số 84/2008/TB-HĐQT gửi Tổng Giám đốc Tổng
Cơng ty nhắc lại: việc mua Malt và Houblon có thể ký hợp đồng dài hạn với nhà cung
cấp trực tiếp về số lượng và chất lượng; giá mua sẽ quyết định hàng năm. Sau khi
chọn xong đối tác chiến lược sẽ xem xét giá mua dài hạn...

-

Tuy nhiên, trong thực tế ông Nguyễn Quang Minh không chấp hành sự chỉ đạo của
HĐQT và trước đó ơng đã liên tục ký các hợp đồng dài hạn: Ngày 23/11/2007, ông
Minh đã ký Hợp đồng dài hạn - 5 năm số: Sabeco/JC003 với nhà cung cấp Hop
JOZEF CAS và chốt giá mua cho cả 5 năm. Ngày 28/2/2008, ông Minh tiếp tục ký
hợp đồng dài hạn - 5 năm số Sabeco/JB004 và Hợp đồng số Sabeco/JB005 với
11


GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI

NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22

Joh.Barth and Sohn GmbH and Co.HG mặt hàng Houblon viên và chốt giá không đổi
cho cả 5 năm. Nếu những hợp đồng này được thực hiện thì Tổng cơng ty Sabeco sẽ
thiệt hại rất lớn bởi giá mua Houblon được thỏa thuận trong hợp đồng cao hơn giá thị

trường tại thời điểm ký kết rất nhiều.
-

Hơn nữa tại thời điểm ký kết, Houblon bị mất mùa nên giá bán thế giới tăng gấp đôi
hoặc gấp 4 lần giá bán trung bình hàng năm. Vì thế việc chốt giá mua cho 5 năm sau
theo giá tại thời điểm cao nhất là một việc làm thiếu kinh nghiệm. Nếu tiếp tục thực
hiện hợp đồng thì chắc chắn gây tổn thất lớn cho Tổng Cơng ty. Nếu khơng thực hiện
thì Sabeco sẽ đứng trước việc phải hầu kiện tại Hội đồng trọng tài Quốc tế và phần
thắng sẽ không thuộc về Sabeco. Ngồi ra thiệt hại về uy tín của Sabeco trên thương
trường Quốc tế là khơng thể tính được bằng tiền.

-

Trước thực tế đó, để tránh thiệt hại cho Sabeco, ngày 13/12/2008, ơng Nguyễn Bá
Thi, Chủ tịch HĐQT đã có văn bản thông báo gửi Tổng Giám đốc TCT CP-BR-NGK
SG yêu cầu ông Minh - Tổng Giám đốc phải đàm phán lại với nhà cung ứng để xem
xét điều chỉnh lại giá mua cho sát với giá thực tế của thị trường để trình HĐQT phê
duyệt kết quả đàm phán.

-

Tuy nhiên sau 2 ngày (ngày 12 và 13/2/2009) đàm phán căng thẳng với đối tác
JOZEF CAS, phía Sabeco đã nhượng bộ bằng cách mua tăng số lượng Houblon hàng
năm của JOZEF CAS và đề nghị JOZEF CAS giảm khung giá mà ông Minh đại diện
Sabeco đã ký HĐ nguyên tắc với JOZEF CAS từ khung giá 429,50 và 419,50 euro/kg
alpha acid để mua 6.000kg alpha acid xuống 155 euro/kg alpha acid. Mặc dầu giá thị
trường tại thời điểm này chỉ là 115 euro/kg alpha acid, nhưng giá của Sabeco đưa ra
cao hơn giá thị trường (155 euro) vậy mà đối tác vẫn khơng chịu và địi giá 200 euro.
JOZEF CAS cịn lợi dụng vụ việc này để ép Sabeco mua gấp đơi số lượng cho các
năm 2008-2009 và giá thì cao hơn giá thị trường.


-

Chính việc làm trái với nghị quyết của HĐQT TCT BR-NGK SG của Tổng Giám đốc
Nguyễn Quang Minh nói trên mà Tổng Cơng ty CP BR-NGK SG phải gánh chịu
những thiệt hại to lớn.

-

Thêm vào đó ngày 18/9/2008, ông Nguyễn Quang Minh đã ký kết hợp đồng số:
CrownSaigon/Sabeco No: 098 với Công ty TNHH Crown Beverage CansSaigon mua
400.000.000 lon nhôm rỗng và nắp với giá 98,00 USD/ 1.000 bộ. Tổng trị giá hợp
đồng cộng 10% VAT là 43.120.000 USD. Đến ngày 24/2/2009, ông Nguyễn Quang
Minh ký phụ kiện Hợp đồng số 01 - Hợp đồng số 98 với Công ty TNHH Crown
Beverage CansSaigon điều chỉnh giá giảm còn 97,5USD/1.000 lon 333. Đơn giá áp
dụng kể từ ngày 24/2/2009.

-

11 ngày sau, ngày 5/3/2009, cũng việc mua hộp và nắp lon bia 333, ông Nguyễn
Quang Minh ký hợp đồng số 102/HĐ-MH với Cơng ty Cổ phần tập đồn HANAKA
(Cơng ty trong nước) mua 120.000.000 bộ lon và nắp hộp bia 333. Điều khác biệt
trong hợp đồng này với hợp đồng mua lon 333 nêu trên là giá thành chỉ có
12


GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI

NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22


75,00USD/1.000 bộ. So với hợp đồng ông Minh ký với Cơng ty TNHH Crown
Beverage CansSaigon thì mỗi 1.000 bộ rẻ hơn được 22,50USD. Như vậy, tính sơ bộ
hợp đồng mà ông Minh ký mua 400.000.000 bộ lon 333 với Công ty TNHH Crown
Beverage CansSaigon gây thiệt hại cho Tổng Cơng ty một khoản tiền rất lớn.
-

Mặc dù, sau đó ngày 31/12/2009, ông Minh tiếp tục ký Phụ lục hợp đồng số 2, Hợp
đồng số 98 với Công ty TNHH Crown Beverage CansSaigon để điều chỉnh giảm giá
từ 97,50USD xuống 96,98 USD/1.000 bộ lon và nắp nhưng giá này vẫn cịn cao hơn
rất nhiều so với thị trường.

-

Điều đáng nói trong thương vụ mua giá cao này là cùng thời điểm năm 2008 và 2009,
tại Việt Nam đã có một vài đơn vị sản xuất được vỏ hộp lon bia 333. HĐQT TCT BRNGK SG cũng đã có văn bản quy định hướng dẫn việc phải tiến hành đấu thầu và
chào hàng cạnh tranh, nhưng ông Nguyễn Quang Minh đã phớt lờ những quy định
hiện hành để ký kết các hợp đồng mua lon bia 333 cao hơn giá chào bán của các công
ty khác. Chỉ riêng những hợp đồng này đã gây thiệt hại khoảng 7 triệu USD cho TCT.

-

Chính những sai phạm này đã khiến Bộ Tài chính và Bộ Cơng thương phải thành lập
các đồn thanh tra để tiến hành thanh tra nhiều hoạt động của Sabeco và đưa đến kết
luận: Việc Tổng Giám đốc Nguyễn Quang Minh ký hợp đồng mua phụ tùng với Hãng
Krones trước sau đó mới báo cáo HĐQT là vi phạm quy chế quản lý. Ngoài ra với
những hợp đồng lớn, dài hạn phải báo cáo HĐQT và được HĐQT đồng ý, nhưng
trong việc mua nguyên liệu Malt, Houblon, Tổng Giám đốc đã tự ý ký, chốt giá. Theo
kết luận thanh tra thì việc làm này khơng chỉ gây bất lợi cho Tổng cơng ty, gây bất
bình trong lãnh đạo Sabeco, mà còn thể hiện việc thiếu trách nhiệm, non kém về
nghiệp vụ của Tổng Giám đốc.


-

Về việc mua lon bia 333, kết luận thanh tra xác định: Theo quy định việc mua lon
phải đấu thầu, chào hàng cạnh tranh. Nhưng Tổng Giám đốc đã không thực hiện, mà
vẫn mua với giá cao hơn. Đây là việc làm sai nguyên tắc, gây phản ứng mạnh mẽ từ
các đơn vị sản xuất, dẫn đến thua thiệt hàng chục tỉ đồng...

-

Và cũng trong Kết luận thanh tra này của Bộ Cơng thương có nội dung kỷ luật đối
với ông Nguyễn Bá Thi và ông Nguyễn Quang Minh với cùng hình thức là khiển
trách do mất đoàn kết.

-

Những tưởng sau khi kết luận trên được ban hành, những vấn đề mà Sabeco gặp phải
sẽ được tháo gỡ, nội bộ Sabeco vì thế cũng đồn kết hơn thì đến ngày 27/5/2011,
trong kết luận thanh tra Sabeco số 1305 của Thanh tra Chính phủ lại cho thấy đây là
chính là nguyên nhân chính dẫn tới nhiều thiệt hại cho Sabeco. Điển hình là việc mua
cổ phần Cơng ty cổ phần Bia Sài Gòn-Hà Nội (Sahabeco).

-

Theo kết luận trên, mặc dù đã đi đến thống nhất chủ trương đầu tư 51% vốn điều lệ
của Sabeco và khi nhà máy đi vào hoạt động từ tháng 12/2008 đã có hiệu quả và đến
năm 2010, cổ tức mà Sabeco thu về là 27,54 tỷ đồng. Tuy nhiên, trong quá trình thực
hiện mua bán trên, nội bộ Hội đồng quản trị Sabeco không thống nhất (Tổng giám đốc
13



GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI

NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22

Nguyễn Quang Minh nhiều lần không đồng ý) nên Chủ tịch Hội đồng quản trị
Nguyễn Bá Thi có tờ trình số 01/2008/VN-BPQLVNN xin ý kiến của Bộ trưởng Bộ
Cơng thương và được Bộ Công thương đồng ý nhưng phải chỉ đạo, thẩm định, đánh
giá toàn diện dự án đầu tư.
-

Mặc dù đã có ý kiến chỉ đạo nhưng qua thanh tra, Thanh tra Chính phủ thấy: Hội
đồng quản trị của Sabeco dù đã có Nghị quyết và Bộ Cơng thương đã chỉ đạo cần
thẩm định đánh giá kỹ thuật, công suất và tổng mức đầu tư… nhưng không được
Sabeco thực hiện đầy đủ, đã quyết định mua cổ phần của Sahabeco.
 Nguyên nhân:
- Trước hết là do Tổng Giám đốc Nguyễn Quang Minh có biểu hiện yếu kém trong
nghiệp vụ quản lý kinh tế và thiếu ý thức trách nhiệm trước HĐQT. HĐQT, Ban
điều hành, Ban kiểm soát chưa thực hiện đúng, đầy đủ, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn được giao. HĐQT thiếu kiên quyết trong việc hủy, chấm dứt nhanh các
quyết định của Tổng Giám đốc trái quy định của Sabeco.
- Mâu thuẫn giữa Chủ tịch HĐQT và Tổng Giám đốc, mất đoàn kết trong thời gian
dài làm ảnh hưởng đến hoạt động và uy tín của TCty.
- Khơng phân định rõ quyền hạn của cổ đơng góp vốn; của chủ tịch HĐQT và tổng
giám đốc trong điều hành kinh doanh của tổng công ty.
- Cơ quan quản lý vốn của nhà nước - Bộ Công Thương can thiệt quá sâu vào hoạt
động kinh doanh của mình: Với những quy định như quy định bộ phận quản lý
vốn nhà nước phải thống nhất tuyệt đối mới được thông qua HĐQT, cử nhiều
đoàn thanh tra, kiểm tra vào thanh tra tại Sabeco mà không xử lý dứt điểm, không
phân xử kịp thời, minh bạch những vấn đề thiếu thống nhất trong bộ phận quản lý

vốn nhà nước… đã gây mâu thuẫn nội bộ kéo dài, làm giảm quyền hạn của
HĐQT theo quy định của Luật Doanh nghiệp, không tôn trọng các cổ đơng thiểu
số, trong đó có nhà đầu tư nước ngồi. Và cũng vì thế mà hoạt động của HĐQT
Sabeco nghiêng nhiều về sự vụ điều hành, mất nhiều thời gian để xử lý vụ việc
trong khi các nghị quyết chưa thể hiện chiến lược, thiếu hoạch định kế hoạch lâu
dài và do đó làm cho hoạt động của Sabeco thiếu tính linh hoạt cần thiết.
- Mơ hình Chủ tịch HĐQT là người đại diện pháp lý, thay vì Tổng giám đốc như
tại các doanh nghiệp khác,
 Giải pháp:
- Ban hành Quy chế làm việc của Bộ máy điều hành, mối quan hệ chủ tịch HĐQT
của SABECO với Ban điều hành, mối quan hệ cty mẹ- công ty con nhằm phân
định rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên.
- Ban hành Quy chế bán hàng, Quy chế tài chính... Để tạo khung pháp lý cho hoạt
động của HĐQT
14


GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI

NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22

- Bộ Công thương cần tổ chức thực hiện, phối hợp hoạt động của các Vụ: Tổ chức
cán bộ, Cơng nghiệp nhẹ, Tài chính, thanh tra của Bộ nhằm hướng dẫn, chỉ đạo
điều chỉnh và kiểm soát hoạt động của Tổng công ty Sabeco để bám sát thực hiện
các chỉ đạo của Bộ cũng như nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty.
4.

Rắc rối việc bổ nhiệm Tổng Giám đốc Sudico

Cuối tháng 9/2011, Công ty cổ phần Đầu tư Phát triển đô thị và Khu công nghiệp Sông

Đà (Sudico) có thơng báo thay tổng giám đốc. Ơng Ngơ Vĩnh Khương được bổ nhiệm
làm Tổng giám đốc thay ông Vi Việt Dũng.
Đầu tháng 10, Sở Kế hoạch và Đầu Tư thành phố Hà Nội đã cấp đổi giấy phép đăng ký
kinh doanh cho Công ty cổ phần Đầu tư Phát triển đô thị và Khu công nghiệp Sông Đà.
Theo đó Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội chứng nhận việc thay đổi người đại
diện theo pháp luật của công ty là ông Ngô Vĩnh Khương, chức danh Tổng giám đốc thay
ông Vi Việt Dũng.
Báo cáo của Sudico cho thấy, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đạt kết
quả rất thấp. Tổng giá trị đầu tư đạt 19% kế hoạch; tổng giá trị sản xuất kinh doanh đạt
18% kế hoạch; doanh thu đạt 6%; lợi nhuận đạt 3% kế hoạch. Từ năm 2008 đến năm
2011, kết quả sản xuất kinh doanh, các chỉ tiêu giá trị đầu tư, giá trị sản xuất kinh doanh
đều có xu hướng giảm dần.
Ơng Phan Ngọc Diệp, Chủ tịch HĐQT Sudico cho hay, sau khi phân tích nguyên nhân,
một số thành viên đã yêu cầu công ty phải cơ cấu lại nhân sự chủ chốt để đáp ứng yêu cầu
tồn tại và phát triển trong thời gian tới. Do đó, HĐQT đã họp và quyết định thơi giữ chức
vụ của ơng Vi Việt Dũng.
Trong khi đó, ơng Dũng lại có những lý lẽ riêng. Theo ơng Dũng, 9 tháng đầu năm kết
quả kinh doanh không được như kế hoạch ngồi ngun nhân khách quan do thị trường
tài chính có nhiều bất ổn, địa ốc suy giảm cịn do lỗi của Chủ tịch HĐQT là ông Phan
Ngọc Diệp.
Cụ thể, năm 2008, dự án Nam An Khánh (Hoài Đức- Hà Nội) nằm trong diện rà soát và
phải điều chỉnh quy hoạch. Do đó, dự án bị chậm kế hoạch và kéo dài hơn 2 năm và
không đủ điều kiện triển khai đầu tư, dẫn đến trong 9 tháng đầu năm sản lượng đầu tư tại
dự án Nam An Khánh chỉ đạt 7%, tương đương với 101 tỷ đồng, trong khi kế hoạch là
1.313 tỷ.
Ơng Dũng cịn thơng tin thêm, trong năm nay, Chủ tịch HĐQT đã ban hành một số quyết
định yêu cầu ông kinh doanh trái quy định hơn 20 ha đất dự án Nam An Khánh mà không
báo cáo phịng ban nghiệp vụ cơng ty.
Tại cuộc họp, Chủ tịch HĐQT đã yêu cầu HĐQT thông qua việc kinh doanh dự án Nam
An Khánh để thu 1.000 tỷ đồng trong tháng 10. Trong khi đó, theo quy định của Nghị

định 71, dự án chưa hoàn thành thủ tục đầu tư, chưa xong cơ sở hạ tầng, chưa triển khai
công trình kiến trúc thì khơng được phép kinh doanh.
15


GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI

NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22

Ông Dũng cho biết: “Việc kinh doanh tại dự án Nam An Khánh không tuân thủ pháp luật
và chưa được sự chấp thuận của Tập đồn nên tơi đã không đồng ý. Lấy lý do này, Chủ
tịch HĐQT đã đề nghị miễn nhiệm chức vụ tổng giám đốc”.
Ông Phan Ngọc Diệp khẳng định, việc thay đổi người đại diện trước pháp luật công ty đã
được Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cấp phép, và đương nhiên, việc đó là đúng pháp luật.
Ơng Diệp nhấn mạnh, việc kinh doanh dự án Nam An Khánh đảm bảo đúng luật, nếu sai
phạm ông sẵn sàng chịu trách nhiệm trước pháp luật.
“Cở sở hạ tầng của Nam An Khánh có chỗ ổn định, có chỗ khơng, có chỗ xong, có chỗ
chưa xong. Chỗ nào đủ cơ sở pháp lý chúng tôi mới kinh doanh”
Ơng Diệp cũng khẳng định khơng có mâu thuẫn với ông Vi Việt Dũng về dự án Nam An
Khánh.
Tuy nhiên, chỉ 4 ngày sau khi có thơng báo thay đổi tổng giám đốc, Tập đồn Sơng Đà
(cổ đơng lớn giữ 36,3% vốn điều lệ của Sudico) lập tức có văn bản gửi Sở Kế hoạch đầu
tư đề nghị tạm dừng cấp phép thay đổi Người đại diện theo pháp luật trong đăng ký kinh
doanh của Sudico.
Theo Tập đoàn Sông Đà, tại thời điểm thực hiện biểu quyết thông qua việc miễn nhiệm
Tổng giám đốc Công ty Sudico là ông Vi Việt Dũng và bổ nhiệm ông Ngô Vĩnh Khương
chỉ có mặt 3 trên tổng số 5 thành viên hội đồng quản trị. Theo Luật Doanh nghiệp, cuộc
họp hội đồng quản trị được tiến hành khi có từ ba phần tư tổng số thành viên dự họp.
Điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cũng ghi rõ, các cuộc họp của hội đồng quản trị
chỉ được tiến hành và thơng qua quyết định khi có ít nhất ba phần tư số người có mặt trực

tiếp hoặc có đại diện thay thế.
Ngồi ra, Tập đồn Sơng Đà cho rằng, ông Phan Ngọc Diệp - Chủ tịch Hội đồng quản trị
chưa xin ý kiến bằng văn bản về việc bổ nhiệm tổng giám đốc mới. Điều này vi phạm quy
định về quyền và nghĩa vụ của người đại diện vốn của Tập đồn tại cơng ty khác. Tập
đồn u cầu HĐQT Sudico thu hồi quyết định thay đổi nhân sự cấp cao đã ban hành.
Đây không phải là lần đầu tiên, Công ty Sudico gặp rắc rối khi bổ nhiệm tổng giám đốc
mới. Trước đó, Tổng giám đốc được bổ nhiệm là ông Vi Việt Dũng làm việc một thời
gian dài nhưng khơng có con dấu vì đã bị người tiền nhiệm giữ. Ông này cho rằng, các
quyết định cắt chức khơng dân chủ, thậm chí khơng hợp pháp, và vì thế ơng khơng chấp
hành.
Theo điều 108 khoản 2 thì Hội đồng quản trị có quyền miễn nhiệm, bổ nhiệm Tổng Giám
đốc của công ty cổ phần. Theo khoản 3 điều 108 thì HĐQT thơng qua quyết định bằng
cách biểu quyết tại cuộc họp, lấy ý kiến bằng văn bản hoặc hình thức khác. Như vậy, việc
bổ nhiệm hay bãi nhiệm TGĐ do HĐQT quyết định và phải được biểu quyết phù hợp với
quy định của luật doanh nghiệp và điều lệ của công ty. Chủ tịch HĐQT không được
quyền tự ý để bổ nhiệm và bãi nhiệm TGĐ.
 Nguyên nhân:
16


GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI

NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22

- Mâu thuẫn về quan điểm quản lý điều hành công ty giữa chủ tịch HĐQT và TGĐ.
- Thiếu sự phối hợp giữa các lãnh đạo và phòng ban nghiệp vụ của công ty.
- Việc bổ nhiệm và bãi nhiệm TGĐ không theo đúng pháp luật và điều lệ công ty.
- Chủ tịch HĐQT chưa nhận thức đúng quyền hạn và trách nhiệm của mình.
 Giải pháp:
- Thực hiện bổ nhiệm và bãi nhiệm TGĐ theo đúng quy định của pháp luật và điều

lệ công ty.
- Phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của ban lãnh đạo; chủ tịch HĐQT.
- Nâng cao tinh thần đoàn kết trong nội bộ công ty nhằm lèo lái công ty đạt được
kết quả kinh doanh tốt.
5.

Mâu thuẫn nội bộ trong công ty Bông bạch tuyết dẫn đến thất bại của công ty

5.1 Sơ lược về tình hình cơng ty Bơng bạch tuyết năm 2008
Chính thức đi vào hoạt động từ năm 1997 - Công ty Cổ phần Bông Bạch Tuyết (viết tắt
Công ty CP BBT, trụ sở tại 550 Âu Cơ phường 10 quận Tân Bình) được biết đến như một
thương hiệu quốc gia trong thời kỳ đổi mới, kể từ khi thành lập cơng ty làm ăn có lãi và
ln khẳng định được ưu thế trên thị trường; Tuy nhiên, Trong 4 năm 2005 – 2008, nội bộ
Công ty CP BBT thường xuyên xảy ra xung đột, mâu thuẫn trong công tác quản lý, điều
hành khiến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty không hiệu quả. Dù các công ty
kiểm toán đã chỉ ra các yếu tố loại trừ mang tính trọng yếu nhưng lãnh đạo cơng ty khơng
thực hiện điều chỉnh và tiếp tục để những sai phạm này (hạch tốn chi phí khơng đúng,
ghi nhận doanh thu khống, công nợ khống…) diễn ra vào các năm tiếp theo. Khơng chỉ
vậy, lãnh đạo cơng ty cịn chỉ đạo chỉnh sửa hồ sơ, sổ sách để chứng minh rằng hoạt động
kinh doanh của cơng ty có lãi.
Năm 2008 đánh dấu bước ngoặt của BBT khi cơng ty chính thức công khai các thông tin
lỗ và mâu thuẫn trong nội bộ hội đồng cổ đông. Trong lúc đứng bên bờ vực phá sản, nội
bộ công ty vẫn không thể chấm dứt những xung đột để tìm ra lối thốt cho công ty.
Theo kết quả kiểm tra của Ủy ban chứng khoán nhà nước và Sở giao dịch chứng
khoán TPHCM BBT có những sai phạm nghiêm trọng sau:
Đồn đã phát hiện trong thời gian dài, Hội đồng quản trị, Ban kiểm sốt, Ban điều hành
BBT đã khơng làm trịn trách nhiệm trong việc điều hành, lãnh đạo công ty, thiếu trách
nhiệm trong việc công bố thông tin, không minh bạch trong các báo cáo tài chính của
cơng ty này. Ban giám đốc BBT đã có những biểu hiện sai phạm như để xảy ra tình trạng
mất đồn kết nội bộ, lập báo cáo tài chính quý và năm sai lệch để cơng bố ra thị trường,

dù đã có ý kiến của kiểm tốn nhưng vẫn khơng sửa đổi.
Ban điều hành BBT cịn lập hố đơn khống làm tăng doanh thu, lợi nhuận của công ty,
không công khai thông tin về những sai sót trong hạch tốn doanh thu, quản lý tài chính
17


GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI

NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22

lỏng lẻo dẫn đến việc nhân viên lợi dụng việc thanh lý tài sản lấy tiền mua. Về các báo
cáo tài chính q và hàng năm, đồn phát hiện nhiều sai sót trong q trình kiểm tốn.
Qua báo cáo tài chính hàng năm, hầu như cơng ty lâm vào tình trạng thua lỗ, khơng duy
trì được điều kiện niêm yết là kinh doanh có lãi. Từ khi được niêm yết trên sàn (ngày 153-2004) đến nay chỉ có năm tài chính 2005 là kinh doanh có lãi (lãi 982 triệu đồng), còn
lại các năm 2004, 2006, 2007 đều bị lỗ. Riêng quý I và II năm 2008 lỗ thêm 4,5 tỉ đồng.
Đoàn kiểm tra đã chỉ ra các vi phạm khác của BBT như vi phạm quy chế niêm yết cổ
phiếu tại HoSE, vi phạm quy định báo cáo, công bố thông tin, vi phạm quy chế quản trị
nội bộ cơng ty.
Khó khăn của Bơng Bạch Tuyết bắt nguồn từ việc đầu tư sai lầm 2 dây chuyền sản xuất
cơng nghệ với máy móc khơng đồng bộ từ năm 2003 với giá trị đầu tư quá lớn, nợ ngân
hàng vượt quá khả năng chi trả. Không đáp ứng được nhu cầu sản xuất, sản phẩm không
tiêu thụ được nhưng trong các bản báo cáo hằng năm, hằng quý, kết quả sản xuất kinh
doanh vẫn có lãi. Sự khơng trung thực và không minh bạch này kéo dài trong nhiều năm
liền, đẩy công ty vào những mâu thuẫn sâu sắc trong nội bộ cũng như trong việc điều
hành quản lý của ban lãnh đạo. Theo ông Trần Lê Việt Hùng, Trưởng Ban Kiểm sốt nói :
“tình trạng bè phái, bất hợp tác giữa người cũ và người mới xảy ra liên tục trong hàng ngũ
lãnh đạo cơng ty”.
5.2 Phân tích mâu thuẫn nội bộ
Nguyên nhân mâu thuẫn là sự thiếu công khai, thiếu minh bạch về việc làm ăn với nhau
giữa Hội đồng quản trị với các cổ đông lớn kéo dài từ những năm 2006 đến tận 2007 mới

bắt đầu bị phát giác. Mâu thuẫn lớn nhất nằm ở cổ đông chiếm 30% thị phần của BBT
không đồng ý phương án phát hành thêm cổ phần cho công ty chiến lược nhằm vực dậy
BBT sắp phá sản;
Tại đại hội cổ đông ngày 14/7/2008 nhằm lấy ý kiến về việc phát hành cổ phần, Tổng
giám đốc Công ty dệt may Gia Định Lê Đông Triều, đại diện sở hữu 30% vốn Nhà nước
trong Bông Bạch Tuyết, không biểu quyết phương án phát hành thêm 8,16 triệu cổ phiếu
BBT cho cổ đông chiến lược nhằm tăng vốn điều lệ lên 150 tỷ đồng; Lý do ông Triều đưa
ra là là đại hội cổ đông năm trước công ty công bố lãi 2,2 tỷ nhưng thực chất mức lỗ hai
năm 2006 và 2007 hơn 14 tỷ đồng. Điều đó chứng tỏ Hội đồng quản trị, Ban giám đốc
cùng Ban kiểm sát công ty chưa hoàn thành nhiệm vụ, làm mất niềm tin cho cổ đơng. Ơng
Triều kiến nghị thay đổi thành viên Ban quản trị, đồng thời xem xét lại thời điểm cũng
như số lượng phát hành thêm cổ phiếu vì đưa ra thị trường ngay thời điểm này, cổ phiếu
BBT sẽ bị pha lỗng. Đồng thời cổ đơng khơng cịn tin tưởng vào bộ máy lãnh đạo hiện
tại cũng như những số liệu có liên quan đến tình hình hoạt động của công ty nữa. "Thay
đổi lãnh đạo BBT là cách ứng cứu cơng ty hiệu quả nhất, sau đó Hội đồng quản trị có thể
xin ý kiến cổ đơng bằng văn bản về vấn đề tăng vốn điều lệ", ông Triều nói.
Quan điểm của đại diện Dệt may Gia Định nhận được sự phản ứng dữ dội của Tổng giám
đốc BBT, ơng Tạ Xn Thọ. Ơng này địi rút khỏi đại hội với lượng cổ phiếu nắm giữ lên
đến hơn 700 nghìn đơn vị (chiếm hơn 10% vốn cổ phần cơng ty). Ơng Thọ cho rằng, hiện
18


GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI

NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22

cơng ty rất cần tiền để giải quyết khó khăn hiện tại, nợ ngân hàng chưa giải quyết, thiếu
vốn sản xuất, vốn lưu động. Phương án tăng vốn được cho là giải pháp khả thi để vực dậy
Bông Bạch Tuyết, nhưng lại vấp phải sự kháng cự của chính thành viên lãnh đạo công ty.
Theo ông, mong muốn thông qua phương án tăng vốn là nội dung chính của lãnh đạo

công ty trong đại hội cổ đông lần này.
Ngày 06/8/2008, là ngày hẹn cuối cùng của Ngân hàng Hàng Hải (Maritimes Bank) dành
cho Công ty Cổ phần Bông Bạch Tuyết về khoản nợ. Tuy nhiên, đến cuối ngày 05/8, cơng
ty này vẫn khơng cịn một đồng để trả nợ. Trong khi đại diện phần vốn Nhà nước là Công
ty Dệt may Gia Định vẫn giữ nguyên lập trường không tán thành phát hành tăng vốn,
khiến phương án kiếm tiền để cứu cơng ty hồn tồn bế tắc.
Sau ngày 14/7/2008 chưa có kết quả, UBND TP.HCM đã có cuộc làm việc với hai bên để
giải quyết mâu thuẫn nội bộ nhằm tìm ra giải pháp cứu vãn cho BBT; tuy nhiên cuộc làm
việc này cũng khơng thể hịa giải để đi đến một giải pháp nào; Sau đó, HĐQT BBT triệu
tập các cuộc họp để bàn việc công ty nhưng cũng bất thành vì Dệt may Gia Định thơng
báo bận, 3 cán bộ của Dệt may Gia Định đại diện quản lý phần vốn Nhà nước tham gia
vào HĐQT BBT đã không đến dự họp.
Đến giây phút quyết định mà nội bộ Ban quản trị công ty vẫn không thể tìm được tiếng
nói chung, sự biến mất của BBT gần như đã được định đoạt.
 Nguyên nhân
-

Sự thiếu minh bạch trong tài chính của BBT làm mất lịng tin của cổ đông.

-

Sự tư lợi của Ban quản trị dẫn đến khơng đồng nhất lợi ích của các bên ( Ban điều
hành sử dụng tiền công để mua đất riêng sử dụng, tự yêu cầu tăng lương cho ban
quản trị không đúng quy định)

-

Trình độ quản trị của Ban điều hành kém, công ty thua lỗ nặng trong nhiều năm
liền khiến cho cổ đông chịu nhiều thiệt hại.


-

Cơ chế quản lý nhà nước thiếu minh bạch, quan liêu, chủ quan.

 Giải pháp
-

Theo quan điểm cá nhân, mâu thuẫn nội bộ của BBT quá lớn, kéo dài, dai dẳng từ
nhiều năm trở lại, chính vì vậy mà giải pháp cho cơng ty khơng thể là giải pháp tức
thời, trọn vẹn. Địi hỏi giải quyết mâu thuẫn nội bộ chỉ có thể là thay đổi thành
phần Ban quản trị, thay thế thành phần cổ đơng chủ chốt thì mới thay đổi được tình
trạng mâu thuẫn phức tạp trong thời điểm ấy.

-

Theo nhận định chủ quan, thì yêu cầu của Đại diện vốn nhà nước chiếm 30% CP
công ty BBT là thay đổi Ban quản trị là ý kiến sáng suốt nếu muốn vực dậy BBT,
Ban quản trị với đường lối quản trị cũ, với tư tưởng quan liêu bao cấp và quan
trọng nhất là với những mâu thuẫn khơng thể hịa giải khơng thể nào tiếp tục điều
hành công ty trong trường hợp công ty được cấp thêm vốn.
19


GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI

NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22

-

-


6.

Vậy sẽ có một giải pháp: thay đổi Ban quản trị, đồng thời với điều này là tìm kiếm
đối tác hợp tác đầu tư để giúp công ty vượt qua khủng hoảng về tài chính; tìm kiếm
một người lãnh đạo mới đủ khả năng giải quyết những vướng mắc tồn tại trong
lòng BBT một thời gian dài như vậy; Bên cạnh đó, phải đồng thời xúc tiến nghiên
cứu sản phẩm, nghiên cứu thị trường để bắt kịp nhu cầu thị trường.
Cịn mâu thuẫn giữa các cổ đơng là mâu thuẫn về lợi ích kinh tế và hiềm khích kéo
dài quá lâu, đó là mâu thuẫn chỉ có thể giải quyết bằng pháp luật, quy trách nhiệm
cho sự vô trách nhiệm, thiếu minh bạch, thiếu đạo đức của những người thao túng
công ty, đưa công ty đứng trên bờ vực phá sản.
Mâu thuẫn giữa nội bộ công ty cổ phần Tràng Tiền

Ngày 4/11/2008, Giám đốc điều hành và Kế toán trưởng kiêm chủ tịch Cơng đồn Cơng
ty CP Kem Tràng Tiền yêu cầu chủ tịch HĐQT thanh toán chi trả lương hiệu quả kinh
doanh bằng 50% lợi nhuận sau thuế cho CBCNV.
Chủ tịch HĐQT khơng đồng ý vì Điều lệ hoạt động của công ty và quy chế lương đã đăng
ký với Sở LĐ TBXH khơng có quy định này.
Sau đó CT HĐQT có gửi thư thơng báo mời họp có xác nhận của Giám đốc điều hành và
KTT để thoả thuận mức 5% thay vì 50% nhưng GĐ ĐH và KTT khơng tham dự với lý do
khơng nhất trí cuộc họp báo. Sau đó GĐĐH có những phát ngơn gây tổn hại cho thương
hiệu và lợi ích kinh doanh của Cơng ty.
Ngày 23/07/2009 CT HĐQT quyết định đình chỉ cơng tác đối với GĐĐH và KTT. Sau
khi đình chỉ cơng tác của GĐĐH và KTT thì cơng ty cũng tiền hành kiện 2 vị lãnh đạo
này ra tòa dân sự địi bồi thường thiệt hại.
Trước đó, ngày 2/2, Chủ tịch HĐQT Cty (đồng thời là người đại diện theo pháp luật của
Cty) ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với Chi nhánh Cty TNHH VNT để sản xuất, bán
kem Tràng Tiền tại TP Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, đầu tháng 7, trên báo Đất Việt, GĐĐH khẳng định, từ trước tới nay, kem

Tràng Tiền xịn chỉ được phân phối tại khu vực Hà Nội, chưa thể xuất hiện tại TPHCM.
Tất cả những nơi treo biển bán kem Tràng Tiền đều lợi dụng thương hiệu nổi tiếng hơn 50
năm qua.
Theo chủ tịch HĐQT, sau phát biểu của GĐĐH khiến nhiều đại lý kem Tràng Tiền tại TP
Hồ Chí Minh khơng bán được, doanh số bán hàng của Cty bị giảm sút nghiêm trọng, gây
tổn hại lớn đến hoạt động của Cty tại TP Hồ Chí Minh.
Việc GĐĐH địi trích 50% từ lợi nhuận sau thuế để chi lương kinh doanh là hồn tồn
khơng đúng về nội dung kinh tế của tiền lương, trái qui định trong luật Lao động, Luật
Doanh nghiệp, Luật thuế thu nhập DN về việc sử dụng LNST. Đối với cơng ty cổ phần thì
lợi nhuận sau thuế là của các cổ đông. Tiền được dùng từ LNST để chia cho cổ đơng được
gọi là cổ tức, đó nó là lợi nhuận thu về từ việc đầu tư vốn chứ khơng có ý nghĩa trả cơng
lao động.
20


GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI

NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22

Về việc phân phối thu nhập sau thuế phải do đại hội đồng cổ đông thông qua trên cơ sở đề
xuất của HĐQT, người lao động không được phép địi hỏi vấn đề này. Vấn đề về lương
cơng ty chi trả cho người lao động phải dựa vào luật lao động, quy chế lương của công ty,
thỏa ước lao động tập thể, hợp đồng lao động chứ không phải từ những địi hỏi từ phía
người lao động. Như vậy việc HĐQT không đáp ứng yêu cầu của GĐĐH là đúng.
Cịn vấn đề sa thải GĐ ĐH và KTT thì phải căn cứ vào quyền hạn và trách nhiệm của GĐ
công ty và KTT khi thực hiện các công việc chun mơn của mình có gây tổn hại thiệt hại
cho cơng ty hay khơng? Vì theo khoản 2 điều 116 có nêu: “Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
là người điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty; chịu sự giám sát của Hội
đồng quản trị và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và trước pháp luật về việc thực
hiện các quyền và nhiệm vụ được giao”. Việc sa thải để có câu trả lời chính xác thì phải

cần nhiều thơng tin hơn.
 Ngun nhân
-

GĐĐH chưa nhận thức đúng quyền hạn và trách nhiệm của mình trong công ty.

-

Việc công bố thông tin của công ty không được chuẩn bị, nghiên cứu và cân nhắc
đến tác dụng của nó.

 Giải pháp
-

Việc cơng bố thơng tin khi họp báo có thể sử dụng một người đại diện truyền
thông cho công ty, thông tin được chuẩn bị và cân nhắc kỹ cũng như xin ý kiến của
HĐQT trước khi cơng bố chính thức.

-

7.

Chủ tịch HĐQT phải giải thích rõ quyền hạn và trách nhiệm của GĐĐH hiểu.

Về việc chi lương kinh doanh cho người lao động khi tình hình kinh doanh của
cơng ty được thuận lợi để khích lệ nhân viên làm việc lâu dài thì HĐQT có thể
trình xin ý kiến của cổ đơng thơng qua.
Tình huống tại công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư Phương Đông

Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư Phương Đông (OMC) được cấp phép thành lập và đi

vào hoạt động từ cuối năm 2006, trụ sở đặt tại 258 Ter Điện Biên Phủ, P7, Q3. Giữa năm
2011, ông Khiết (chủ tịch HĐQT) và các cổ đông chuyển nhượng 67% vốn điều lệ (25 tỉ
đồng) cho 14 cổ đông mới. Sở hữu 33% vốn của OMC, ông Khiết vẫn là chủ tịch HĐQT,
ơng Nguyễn Minh Cường (nhóm cổ đơng mới) giữ chức phó chủ tịch, bà Trần Quỳnh
Hương giữ chức tổng giám đốc (TGĐ) OMC.
Rắc rối phát sinh khi TGĐ Hương đệ đơn xin từ chức ngày 28-2-2012 vì “không thể thực
hiện theo chỉ đạo trái pháp luật” của ông Cường liên quan đến việc rút 7,6 tỉ đồng từ ngân
hàng về OMC. Ông Khiết lấy làm lạ bởi chính nhóm ơng Cường đưa bà Hương lên làm
TGĐ, nay lại bị bà này “tố”.
Tìm hiểu thực tế, ơng giật mình khi biết 10/14 cổ đơng mới của OMC làm việc tại Cơng
ty cổ phần CK Sài Gịn Tourist (STSC), trong đó nhiều người giữ vị trí chủ chốt. Cụ thể,
21


GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI

NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22

ơng Cường là Trưởng phịng đầu tư STSC, bà Dương Thị Minh Châu là Trưởng phịng
hành chính, bà Nguyễn Thị Hiền là Kế toán trưởng... Riêng bà Trần Quỳnh Hương khi
làm Phó TGĐ Cơng ty OMC cũng đồng thời là Trưởng phòng giao dịch của STSC. Lên
TGĐ của OMC ngày 3-11-2011, bà Hương mới rời vị trí tại STSC.
Ơng Khiết cho biết, từ đơn tố cáo của TGĐ Hương, ông nhận ra sự bất thường khi một
lực lượng hùng hậu của STSC nhảy sang OMC. Nắm hơn 2/3 số cổ phần và giữ nhiều
chức vụ trọng yếu của OMC (ơng Cường là phó chủ tịch thường trực HĐQT, bà Hương
làm TGĐ, bà Trần Thị Thanh Hoa làm trưởng ban kiểm sốt...), nhóm cổ đơng mới dễ
dàng thao túng, thực hiện ý đồ riêng. Thực tế, ông Cường đã chỉ đạo làm nhiều việc vi
phạm pháp luật nghiêm trọng, nếu bà Hương khơng đứng ra tố cáo thì hậu quả khôn
lường.
Để chứng minh, ông Khiết đưa ra hai hợp đồng (HĐ) “ủy thác” do bà Hương đại diện

OMC ký với đối tác trị giá 6.445 tỷ đồng, cao gấp 257,8 lần vốn điều lệ của OMC. Hợp
đồng thứ nhất kèm 13 HĐ “con” ký ngày 19-7-2011 trị giá hơn 1.657 tỉ đồng; HĐ thứ hai
kèm 18 HĐ “con” ký ngày 17-8-2011, trị giá hơn 4.788 tỷ đồng. Bà Hương khẳng định
việc ký cả hai HĐ trên đều theo sự chỉ đạo của ông Cường.
Từ những vụ việc lộn xộn tại OMC có thể đưa ra bốn điểm sai nghiêm trọng của hai HĐ
trên:
Thứ nhất, việc ký HĐ “ủy thác” được OMC quy định rất chặt chẽ. Khâu bắt buộc đầu
tiên, TGĐ phải trình HĐQT xem xét về nguồn tiền và chủ của nó cũng như mục đích
nhận ủy thác rồi mới phê duyệt. Vậy mà cả hai HĐ lên đến 6.445 tỉ đồng, Phó chủ tịch
HĐQT Cường chỉ đạo TGĐ Hương “lén” ký với đối tác, không thông qua HĐQT. Theo
luật doanh nghiệp và điều lệ cơng ty thì điểm này khơng hợp lý, Phó TGĐ và TGĐ đã
khơng tn thủ theo đúng quy định của công ty.
Theo thỏa thuận thì cả hai HĐ đều đầu tư vào “trái phiếu chính phủ” nhưng sau khi ký
xong mới lập ra chiến lược đầu tư vào cổ phiếu với giá trị đặc biệt lớn, khơng đúng thực
tế, mang tính rủi ro rất cao. Phía ủy thác lại đưa điều kiện “khơng cần xác nhận của nhà
đầu tư”, nhưng khi xảy ra hậu quả thì OMC sẽ lãnh đủ”.
Thứ hai, vì đã “lén” ký HĐ nên sau khi thực hiện ủy thác thì không thông qua Hội đồng
đầu tư của OMC. Cả việc lập quy trình quản lý kiểm sốt đầu tư cũng không được chú
trọng. Đến nay, các HĐ đã quá hạn nhưng chưa thanh lý khiến OMC không thu hồi được
nguồn tiền nhận ủy thác. Vụ việc này TGĐ đã điều hành doanh nghiệp gây thiệt hại cho
công ty và phải chịu trách nhiệm trước HĐQT và ban kiểm soát theo điều 116 của luật
Doanh nghiệp.
Thứ ba, theo thỏa thuận trong HĐ thì lãi là 22%/năm. Với 6.445 tỉ đồng, sau một năm sẽ
“đẻ” ra hơn 1.417 tỉ tiền lãi (chưa kể lãi con). Tính từ lúc nhận ủy thác đến nay đã gần 18
tháng, số lãi lên đến hơn 2.100 tỷ đồng. Như vậy có thể thấy có sự mờ ám và khuất tất
gây thiệt hai lờn cho công ty khi mà số tiền gốc và lãi cực lớn chưa thu được.
22


GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI


NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22

Thứ tư, khi ký hai HĐ “ủy thác”, bà Trần Quỳnh Hương là Phó TGĐ Cơng ty OMC đồng
thời là Trưởng phòng giao dịch của STSC. Hơn ai hết, cả ông Cường - bà Hương đều biết
rõ việc làm này vi phạm quy chế của Bộ Tài chính về tổ chức và hoạt động của công ty
quản lý quỹ (điểm g, khoản 3, điều 10).
Ơng Khiết cho biết, ngồi hai HĐ ủy thác, ơng Cường cịn có hành vi sai phạm nghiêm
trọng khác khi qua mặt HĐQT, tự ý duyệt chi “tạm ứng” hơn 16,6 tỉ đồng. Khi bị phát
hiện, thay vì ngồi lại cùng HĐQT OMC tìm biện pháp khắc phục thì ơng Cường chiếm
đoạt con dấu cơng ty, cùng một số cổ đông như Nguyễn Thị Hiền, Dương Thị Minh Châu
ký vào đơn yêu cầu triệu tập đại hội cổ đông bất thường để giải quyết “tranh chấp nội
bộ”.
Ngày 1-10-2012, nhóm ơng Cường đứng ra tổ chức đại hội cổ đơng thay đổi tồn bộ nhân
sự OMC. Theo đó, bà Hiền làm chủ tịch HĐQT, ơng Cường nắm quyền TGĐ.
Đến ngày 20-10-2012 ông Cường thay bà Hiền ngồi vào ghế chủ tịch HĐQT, bổ nhiệm
bà Nguyễn Thị Mai Trinh làm TGĐ.
Ở đây có 3 vấn đề chúng ta cần phải phân tích:
-

Việc Phó chủ tịch HĐQT làm sai trái quy trình, quy chế và quy định của công ty
chỉ đạo trực tiếp TGĐ thực hiện các hợp đồng ủy thác khơng hợp pháp. Vì lợi ích
riêng vị phó chủ tịch đã thao túng cơng ty và làm nguy hại cho cơng ty.

-

Tính pháp lý của người đứng ra ký các hợp đồng ủy thác là không hợp pháp, trái
với quy chế tổ chức và hoạt động của công ty quản lý quỹ đầu tư của Bộ tài chính.
Rõ ràng, cơng ty biết rất rõ về việc làm sai trái của mình nhưng vẫn thực hiện. Về
góc độ cơ quan kiểm sốt nhà nước cũng khơng theo sát thực tế để có hình thức xử

phạt theo đúng quy định.

-

Mâu thuẫn trong nội bộ HĐQT, mà đặc biệt là 2 nhóm cổ đơng có mục tiêu và lợi
ích khác nhau đã làm tổn hại đến lợi ích chung của cơng ty, của các cổ đơng và sau
đó là các cán bộ nhân viên của cơng ty. Việc nhóm của ông Cường tiến hành họp
Hội đồng cổ đông chỉ được tiến hành nếu có “số cổ đơng dự họp đại diện ít nhất
65% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy
định” (theo điều 102 của luật doanh nghiệp); việc bầu chủ tịch HĐQT mới phải
đảm bảo có “số cổ đơng đại diện ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ
đông dự họp chấp thuận; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định” (theo khoản 3
điều 104 của luật doanh nghiệp).

 Nguyên nhân
- Mâu thuẫn lợi ích của các nhóm cổ đơng trong cơng ty.
- Cơ quan quản lý nhà nước khơng kiểm sốt tốt hoạt động chuyển quyền sở hữu và
người đại diện pháp luật của cơng ty, cũng như các vị trí lãnh đạo phải tuân thủ
theo quy chế của bộ tài chính.
- Một nhóm cổ đơng có động cơ thâu tóm công ty.
 Giải pháp
23


GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI
-

II.

NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22


Cơ quan quản lý nhà nước phải tăng cường thanh tra, giám sát chắc chẽ hơn các
loại hình cơng ty quản lý quỹ.
Phải có những hình phạt thích đáng cho những người lãnh đạo cố ý làm trái quy
định của pháp luật để nhằm bảo vệ lợi ích cho các cổ đông nhỏ và cán bộ nhân
viên của công ty.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

Qua các phân tích về các vụ mâu thuẫn giữa nội bộ ban quản trị của công ty ở trên, nhóm
xin đưa ra một số kiến nghị để góp phần nâng cao sự thuận lợi trong cơng tác điều hành
cơng ty và bảo vệ được lợi ích của những người có liên quan đến các tranh chấp và mâu
thuẫn.
1.

Một số kiến nghị dưới góc độ quản lý doanh nghiệp
-

Các công ty cần phải ban hành các quy chế, quy trình làm việc hợp lý cho ban
TGĐ và HĐQT để tạo khung pháp lý cho ban điều hành và HĐQT có cơ sở để
thực hiện.

-

Phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của TGĐ/GĐ và HĐQT để TGĐ và
HĐQT thực hiện đúng chức năng, quyền hạn tránh hiện tượng lạm dụng quyền lực
để thực hiện các giao dịch vì tư lợi cá nhân gây ra hậu quả nghiêm trọng cho doanh
nghiệp.

-


Nâng cao vai trị của ban kiểm sốt cơng ty, qua các tình huống có thể thấy ban
kiểm sốt các cơng ty khơng thực hiện đúng chức năng và khơng có hành động để
bảo vệ được lợi ích của công ty.

-

Thông nhất quan điểm đường lối chiến lược trong nội bộ ban điều hành và Hội
đồng quản trị là rất quan trọng, nó góp phần cho doanh nghiệp phát triển ổn định
và bền vững trong tương lai. Những người quản lý và chủ sở hữu phải cùng chung
lợi ích, nếu có sự mâu thuẫn về lợi ích tất yếu sẽ làm doanh nghiệp bị thiệt hại.

-

Cơng ty có vốn của nhà nước cũng cần phải có quy chế quản lý ban hành bởi cơ
quan chủ quản thật rõ ràng, tránh chồng chéo, thanh tra giám sát nhiều lần nhưng
vẫn không giải quyết được vấn đề công ty đang gặp phải điển hình như trường hợp
của Sabeco.

-

Cơng bố thơng tin của doanh nghiệp, phải có sự thống nhất ý kiến của ban lãnh đạo
và Hội đồng quản trị trước khi công bố trên các phương tiện truyền thông.

24


GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI
2.

NTH: Nhóm 3 – lớp Đêm 4- K22


Một số kiến nghị thay đổi luật doanh nghiệp
-

Trong trường hợp HĐQT không thực hiện bãi bỏ quyết định đã ban hành trái với
pháp luật hoặc điều lệ của cơng ty thì cổ đơng có quyền u cầu tịa án bãi bỏ
quyết định đó.

-

Bổ sung quyền khởi kiện của Cổ đơng/thành viên : Cổ đơng/thành viên cơng ty có
quyền khởi kiện TGĐ/GĐ, thành viên HĐQT, Chủ tịch HĐTV nếu họ có hành vi
vi phạm nghĩa vụ theo qui định của pháp luật, Điều lệ công ty và gây thiệt hại cho
cổ đông/thành viên hoặc công ty. Người quản lý cơng ty có hành vi vi phạm phải
chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi của mình và tự chịu trách nhiệm bồi thường
mọi thiệt hại phát sinh.

-

Cần bổ sung thẩm quyền của ĐHĐCĐ tại Điều 96.2 cần thêm một mục nhỏ như
sau: ‘Xem xét, chấp thuận các hợp đồng có giá trị bằng hoặc lớn hơn 30% tổng giá
trị tài sản ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty, trừ trường hợp Điều lệ
công ty qui định một tỷ lệ khác nhỏ hơn.’

-

Cần có qui định trong Luật doanh nghiệp rằng: ‘Những quy định trong Điều lệ hay
quyết định/nghị quyết của ĐHĐCĐ, HĐQT mà tước bỏ quyền theo luật định của
cổ đơng thì khơng có giá trị pháp lý’. Quy định như vậy sẽ ngăn chặn sự lạm quyền
của cổ đông/thành viên lớn trong việc hạn chế quyền của cổ đông thiểu số bằng

quy định trong Điều lệ hay nghị quyết/quyết định ĐHĐCĐ, HĐTV (ví dụ như hạn
chế dự họp, biểu quyết, phát biểu, chuyển nhượng cổ phần …). Qui định như vậy,
sẽ hạn chế sức ép của cổ đông lớn lên cổ đông thiểu số trong việc thực hiện các
quyền của cổ đông/thành viên theo qui định của pháp luật.

25


×