Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Quốc tế hóa nền kinh tế thế giới và chính sách cho hàng hóa may mặc việt nam ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (487.83 KB, 92 trang )

Lời mở đầu

Đặc trưng quan trọng của tình hình thế giới ngày nay là xu hướng quốc tế hoá. Nền
kinh tế thế giới ngày càng phát triển, mỗi nước dù lớn hay nhỏ đều phải tham gia
vào sự phân công lao động khu vực và quốc tế. Ngày nay không một dân tộc nào có
thể phát triển đất nước mình mà chỉ bằng tự lực cánh sinh. Đặc biệt đối với các
nước đang phát triển như Việt Nam thì việc nhận thức đầy đủ những đặc trưng quan
trọng này và ứng dụng vào tình hình thực tế đất nước có tầm quan trọng hơn bao giờ
hết. ở nước ta, Khi xác định những quan điểm lớn về công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã khẳng định “kiên
trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những sản
phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả, phát huy lợi thế so sánh của đất nước cũng
như của từng vùng, từng nghành, từng lĩnh vực trong từng thời kỳ, không ngừng
nâng cao sức mạnh cạnh tranh trên thị trường trong nước, thị trường khu vực và thị
trường thế giới” .
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, trong những năm
qua thương mại Việt Nam đã đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng, góp
phần tạo nên những biến đổi sâu sắc nền kinh tế - xã hội nước ta và vị thế mới trên
thị trường quốc tế. Việt Nam đã thiết lập được nhiều mối quan hệ ngoại giao với
nhiều nước, tiếp tục mở rộng hoạt động ngoại thương theo hướng đa dạng hoá, đa
phương hoá, tích cực hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tham gia các tổ chức thương
mại quốc tế như ASEAN, AFTA, APEC . Điều này đã đạc biệt làm cho lĩnh vực
xuất nhập khẩu ngay càng trở nên sôi động.
2

Trong số 10 mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, phải
kể đến hàng dệt may. Tuy đứng ở vị trí thứ hai, nhưng đây là mặt hàng có nhiều lợi
thế so sánh và có khả năng phát triển cao. Hơn nữa, với điều kiện tình hình nước ta
hiện nay, tập trung phát triển hàng dệt may là hoàn toàn phù hợp.
Như vậy, cả về mặt lý luận và thực tiễn, đề tài “ Một số biện pháp đẩy mạnh xuất
khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt May Việt Nam” góp phần giải quyết


những vấn đề đặt ra quan trọng và cần thiết. Trong đề tài này, tôi chỉ tập trung phân
tích tình hình thực tế hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc của Tổng
Công ty Dệt May Việt Nam giai đoạn 1995 - 1998, tìm ra những thành công và
những vấn đề còn tồn tại ở Tổng Công ty . Trên cơ sở đó, đưa ra một số biện pháp
kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động và tăng cường hiệu quả kinh doanh xuất khẩu
hàng may mặc của Tổng Công ty trong thời gian tới.
Đề tài chia làm ba chương :
Chương I : Một số vấn đề lý luận về xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu hàng may
mặc đối với nền kinh tế Việt Nam.
Chương II : Thực trang xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty dệt may Việt Nam
giai đoạn 1995 - 1998.
Chương III : Phương hướng và giải phấp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu hàng may
mặc của tổng Công ty trong thời gian tới.
Trong quá trìng tìm hiểu và hoàn thành đề tài, Tôi đã được sự chỉ bảo chi tiết của
thầy giáo - MBA Bùi Anh Tuấn, sự giúp tận tình của các bác, các cô ở Tổng Công
ty Dệt may Việt Nam. Tôi xin chân thành cảm ơn và rất mong nhận được ý kiến
nhận xét giúp tôi có thể hoàn thiện kiến thức chuyên môn của mình.
3

chương I: Một số vấn đề lý luận về xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu hàng may
mặc trong doanh nghiệp
I. khái niệm, các hình thức xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu
1. Khái niệm :
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó
không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán
trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm bán sản phẩm,
hàng hoá sản xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ, qua đẩy mạnh sản xuất
hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế oỏn định từng bước nâng cao mức
sống nhân dân.
Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên

của một doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh nghiệp đã đa
dạng hoá hoạt động kinh doanh của mình.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của một
quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của
nước này với nước khác. Nền sản xuất xã hội phát triển như thế nào phụ thuộc rất
nhiều vào hoạt động kinh doanh này.
2. Các hình thức xuất khẩu thông dụng ở Việt Nam
a/ Xuất khẩu uỷ thác
Trong phương thức này, đơn vị có hàng xuất khẩu là bên uỷ thác giao cho đơn vị
xuất khẩu gọi là bên nhận uỷ thác tiến hành xuất khẩu một hoặc một số lô hàng nhất
định với danh nghĩa của mình (bên nhận uỷ thác) nhưng với chi phí của bên uỷ thác.
Về bản chất, chi phí trả cho bên nhận uỷ thác chính là tiền thu lao trả cho đại lý.
4

Theo nghị định 64-HĐBT, chi phí uỷ thác xuất khẩu không cao hơn 1% của tổng số
doanh thu ngoại tệ về xuất khẩu theo điều kiện FOB tại Việt Nam.
Ưu nhược điểm của xuất khẩu uỷ thác:
-Ưu điểm: Công ty uỷ thác xuất khẩu không phải bỏ vốn vào kinh doanh, tránh được
rủi ro trong kinh doanh mà vẫn thu được một khoản lợi nhuận là hoa hồng cho xuất
khẩu. Do chỉ thực hiện hợp đồng uỷ thác xuất khẩu nên tất cả các chi phí từ nghiên
cứu thị trường, giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng không
phải chi, dẫn tới giảm chi phí trong hoạt động kinh doanh của Công ty.
-Nhược điểm: do không phải bỏ vốn vào kinh doanh nên hiệu quả kinh doanh thấp
không bảo đảm tính chủ động trong kinh doanh. Thị trường và khách hàng bị thu
hẹp vì Công ty không có liên quan tới việc nghiên cứu thị trường và tìm khách hàng.
b/ Xuất khẩu trực tiếp:
Trong phương thức này, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp ký kết hợp
đồng ngoại thương, với tư cách là một bên phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Hợp
đồng ký kết giữa hai bên phải phù hợp với luật lệ quốc gia và quốc tế, đồng thời bảo
đảm được lợi ích quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của doanh nghiệp. Để thực

hiện hợp đồng xuất khẩu, đơn vị kinh doanh phải tiến hành các khâu công việc:
Giục mở L/C và kiểm tra luận chứng (nếu hợp đồng quy định sử dụng phương pháp
tín dụng chứng từ), xin giấy phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng hoá làm thủ tục hải
quan, giao hàng lên tàu, mua bảo hiểm, làm thủ tục thanh toán và giải quyết khiếu
nại (nếu có).
Ưu nhược điểm của hình thức xuất khẩu trực tiếp:
-Ưu điểm: Với phương thức này, đơn vị kinh doanh chủ động trong kinh doanh, tự
5

mình có thể thâm nhập thị trường và do vậy có thể đáp ứng nhu cầu thị trường, gợi
mở, kích thích nhu cầu. Nếu đơn vị tổ chức hoạt động kinh doanh tốt sẽ đem lại
hiệu quả kinh doanh cao, tự khẳng định mình về sản phẩm, nhãn hiệu dần dần
đưa được uy tín về sản phẩm trên thế giới.
- Nhược điểm: Trong điều kiện đơn vị mới kinh doanh được mấy năm thì áp dụng
hình thức này rất khó do điều kiện vốn sản xuất hạn chế, am hiểu thương trường
quốc tế còn mờ nhạt, uy tín nhãn hiệu sản phẩm còn xa lạ với khách hàng
c/ Gia công hàng xuất khẩu.
Gia công hàng xuất khẩu là một phương thức kinh doanh trong đó một bên (gọi là
bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác
(gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và
nhận thù lao ( gọi là chi phí gia công). Tóm lại, gia công xuất khẩu là đưa các yếu tố
sản xuất (chủ yếu là nguyên vật liệu) từ nước ngoài về để sản xuất hàng hoá theo
yêu cầu của bên đặt hàng, nhưng không phải để tiêu dùng trong nước mà để xuất
khẩu thu ngoại tệ chênh lệch do hoạt động gia công đem lại. Vì vậy, suy cho cùng,
gia công xuất khẩu là hình thức xuất khẩu lao động, nhưng là loại lao động dưới
dạng được sử dụng(được thể hiện trong hàng hoá) chứ không phải dưới dạng xuất
khẩu nhân công ra nước ngoài.
Gia công xuất khẩu là một phương thức phổ biến trong thương mại quốc tế. Hoạt
động này phát triển sẽ khai thác được nhiều lợi thế của hai bên: bên đặt gia công và
bên nhận gia công.

3.Vị trí, vai trò của hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó
6

không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán
trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm bán sản phẩm,
hàng hoá sản xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ, qua đó có thể đẩy mạnh
sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định từng bước nâng cao
mức sống nhân dân. Do vậy, xuất khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại để đem lại
những hiệu quả đột biến cao hoặc có thể gây thiệt hại vì nó phải đối đầu với một hệ
thống kinh tế khác từ bên ngoài mà chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ
dàng khống chế được.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của
một quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng
của nước này với nước khác. Nền sản xuất xã hội phát triển như thế nào phụ thuộc
rất nhiều vào hoạt động kinh doanh này.
Đối với nước ta, nền kinh tế đang bước đầu phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật còn
thấp kém, không đồng bộ, dân số phát triển nhanh nên việc đẩy mạnh xuất khẩu thu
ngoại tệ cải thiện đời sống và phát triển kinh tế là cực kỳ quan trọng. Đảng và Nhà
nước ta chủ trương phát triển quan hệ đối ngoại và kinh tế đối ngoại đặc biệt hướng
mạnh vào xuất khẩu hàng hoá là một chủ chương đúng đắn phù hợp với quy luật
kinh tế khách quan. Hơn bao giờ hết, xuất khẩu hàng hoá thực sự có vai trò quan
trọng, cụ thể là:
Thứ nhất: Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn vốn ngoại tệ quan trọng để đảm bảo nhu
cầu nhập khẩu.
Trong kinh doanh quốc tế, xuất khẩu không phải là chỉ để thu ngoại tệ về, mà là với
mục đích đảm bảo cho nhu cầu nhập khẩu hàng hoá dịch vụ khác nhằm thoả m•n
7

nhu cầu tiêu dùng, tăng trưởng nền kinh tế và tiến tới xuất siêu (xuất khẩu > nhập

khẩu), tích luỹ ngoại tệ (thực chất là đảm bảo chắc chắn hơn nhu cầu nhập khẩu
trong tương lai).
Xuất khẩu và nhập khẩu trong thương mại quốc tế vừa là điều kiện, vừa là tiền đề
của nhau xuất khẩu để nhập khẩu và nhập khẩu để phát triển xuất khẩu. Đặc biệt
trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, để phát triển kinh tế, tránh được nguy
cơ tụt hậu với thế giới, đồng thời còn tìm cách đuổi kịp thời đại, Đảng và Nhà nước
ta đã đề ra công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Trong đó nhập
khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại là một điều kiện tiên quyết. Muốn nhập
khẩu, chúng ta phải có ngoại tệ, có các nguồn ngoại tệ sau:
- Xuất khẩu hàng hoá. dịch vụ.
- Viện trợ đi vay, đầu tư
- Liên doanh đầu tư nước ngoài với ta.
- Các dịch vụ thu ngoại tệ: ngân hàng, du lịch
Có thể thấy rằng, trong các nguồn trên thì xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ là nguồn
quan trọng nhất vì: nó chiếm tỷ trọng lớn, đồng thời là khả năng bảo đảm trả được
các khoản đi vay, viện trợ trong tương lai. Như vậy cả về dài hạn và ngắn hạn,
xuất khẩu luôn là câu hỏi quan trọng cho nhập khẩu.
Thứ hai: Hoạt động xuất khẩu phát huy được các lợi thế của đất nước.
Để xuất khẩu được, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu phải lựa chọn được
những ngành nghề, mặt hàng có tổng chi phí (chi phí sản xuất và chi phí xuất khẩu)
nhỏ hơn giá trị trung bình trên thị trường thế giới. Họ phải dựa vào những ngành
hàng, những mặt hàng khai thác được các lợi thế của đất nước cả về tương đối và
8

tuyệt đối. Ví dụ như trong các mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của ta thì dầu mỏ, thuỷ
sản, gạo, than đá là những mặt hàng khai thác lợi thế tuyệt đối nhiều hơn (vì chỉ một
số nước có điều kiện để sản xuất các mặt hàng này). Còn hàng may mặc khai thác
chủ yếu lợi thế so sánh về giá nhân công rẻ. Tuy nhiên, phân biệt lợi thế tuyệt đối
và lợi thế so sánh chỉ mang ý nghĩa tương đối.
Hoạt động xuất khẩu vừa thúc đẩy thai thác các lợi thế của đất nước vừa làm cho

việc khai thác đó có hiệu quả hơn vì khi xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu có ngoại tệ để nhập máy móc, thiết bị tiên tiến đưa năng suất lao động lên cao.
Các lợi thế cần khai thác ở nước ta là nguồn lao động dồi dào, cần cù, giá thuê rẻ,
nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và địa thế địa lý đẹp.
Thứ ba: Hoạt động xuất khẩu góp phần làm chuyển dịch cơ cấu sản xuất, định
hướng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Chúng ta biết rằng có hai xu hướng xuất khẩu: xuất khẩu đa dạng và xuất khẩu mũi
nhọn.
Xuất khẩu đa dạng là có mặt hàng nào xuất khẩu được thì xuất khẩu nhằm thu được
nhiều ngoại tệ nhất, nhưng với mỗi mặt hàng thì lại nhỏ bé về quy mô, chất lượng
thấp (vì không được tập trung đầu tư) nên không hiệu quả.
Xuất khẩu hàng mũi nhọn: Tuân theo quy luật lợi thế so sánh của David Ricardo tức
là tập trung vào sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà mình có điều kiện nhất,
có lợi thế so sánh hay chính là việc thực hiện chuyên môn hoá và phân công lao
động quốc tế. Khi đó, nước ta có khả năng chiếm lĩnh thị trường, trở thành "độc
quyền" mặt hàng đó và thu lợi nhuận siêu ngạch. Xuất khẩu mũi nhọn có tác dụng
như đầu của một con tàu, tuy nhỏ bé nhưng nó có động cơ, do đó nó có thể kéo cả
9

đoàn tàu tiến lên. Hiện nay, đây là hướng xuất khẩu chủ yếu của nước ta, có kết hợp
với xuất khẩu đa dạng để tăng thu ngoại tệ.
Và khi mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn đem lại hiệu quả cao thì các doanh nghiệp sẽ
tập trung đầu tư để phát triển ngành hàng đó, dẫn đến phát triển các ngành hàng có
liên quan. Ví dụ: Khi ngành may xuất khẩu phát triển làm cho ngành dệt cũng phát
triển để cung cấp nguyên vật liệu cho ngành may dẫn đến ngành trồng bông, đay
cũng phát triển để cung cấp nguyên vật liệu cho ngành dệt.
Hơn nữa, xu hướng xuất khẩu là mũi nhọn làm thay đổi cơ cấu các ngành sản xuất
trong nền kinh tế vì cơ cấu một nền kinh tế chính là số lượng các ngành sản xuất và
tỷ trọng của chúng so với tổng thể.
Rõ ràng, tỷ trọng ngành hàng mũi nhọn là tăng lên và tăng mạnh còn trong nội bộ

ngành đó thì những khâu, những loại sản phẩm ưa chuộng trên thị trường thế giới
cũng sẽ phát triển hơn. Tức là xuất khẩu hàng mũi nhọn làm thay đổi cơ cấu ngành
và cả cơ cấu trong nội bộ một ngành theo hướng khai thác tối ưu lợi thế so sánh của
đất nước.
Mặt khác, trên thị trường thế giới yêu cầu về hàng hoá dịch vụ ở mức chất lượng
cao, cạnh tranh gay gắt. Chỉ có các doanh nghiệp đủ mạnh ở mỗi nước mới tham gia
thị trường thế giới. Do đó, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải nâng
cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí để tồn tại và phát triển.
Toàn bộ các tác động trên làm cho nền kinh tế phát triển tăng trưởng theo hướng
tích cực. Đó là ý nghĩa kinh tế của hoạt động xuất khẩu.
Thứ tư: Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tạo thu nhập và tăng mức
sống.
10

Về ngắn hạn, để tập trung phát triển các ngành hàng xuất khẩu thì phải cần thêm lao
động, còn để xuất khẩu có hiệu quả thì phải tận dụng được lợi thế lao động nhiều,
giá rẻ ở nước ta. Chính vì thế mà chúng ta chủ trương phát triển ngành nghề cần
nhiều lao động như ngành may mặc. Với một đất nước hơn 70 triệu dân, tỷ lệ thất
nghiệp tương đối cao thì đây là một vấn đề có ý nghĩa rất lớn trong điều kiện nước
ta hiện nay.
Thứ năm: Hoạt động xuất khẩu nâng cao uy tín nước ta trên thị trường thế giới tăng
cường quan hệ kinh tế đối ngoại.
Hoạt động xuất khẩu đem lại ngoại tệ, góp phần làm cân bằng cán cân thanh toán, là
một trong bốn điều kiện đánh giá nền kinh tế của một nước: GDP, lạm pháp, thất
nghiệp và cán cân thanh toán. Cao hơn nữa là xuất siêu, tăng tích luỹ ngoại tệ, luôn
đảm bảo khả năng thanh toán với đối tác, tăng được tín nhiệm. Qua hoạt động xuất
khẩu, hàng hoá Việt Nam được bầy bán trên thị trường thế giới, khuyếch trương
được tiếng vang và sự hiểu biết.
Hoạt động xuất khẩu làm cho các quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn, làm tiền đề thúc đẩy
các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như dịch vụ du lịch, ngân hàng, đầu tư, hợp

tác, liên doanh
Tóm lại : phát triển hoạt động xuất khẩu là một chiến lược để phát triển nền kinh tế
nước ta.
II. Vai trò của xuất khẩu hàng may mặc đối với việt nam.
Trước khi tìm hiểu vai trò của xuất khẩu chúng ta phải xác định được nhiệm vụ của
chúng đó là:
- Phải biết khai thác có hiệu quả lợi thế của đất nước, kích thích các ngành kinh tế
11

phát triển.
- Phải góp phần tăng tích luỹ, mở rộng sản xuất tăng thu nhập cho nền kinh tế quốc
dân.
- Xuất khẩu là cải thiện đời sống nhân dân thông qua việc tạo công ăn việc làm, tạo
nguồn thu nhập.
- Phải biết khai thác những thị trường hiện có và quan tâm tới thị trường chưa được
khai thác.
- Lợi dụng khối lượng mua hàng lớn lao của nước ngoài.
- Tìm thị trường cho sản phẩm khi lượng bán giảm sút.
- Mở rộng nền tảng bán hàng để trải rộng chi phí bán hàng.
- Sử dụng năng lực sản xuất thừa.
- Biết được những phương pháp kỹ thuật tiên tiến được sử dụng ở nước ngoài.
- Theo dõi sự cạnh tranh của các đối thủ có sản phẩm cùng loại trên thị trường.
Ngoài ra hoạt động kinh doanh xuất khẩu còn phải có nhiệm vụ góp phần thực hiện
tốt chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước: “Đa dạng hoá và đa phương hoá
quan hệ quốc tế, tăng cường hợp tác khu vực “.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ kể trên thì công tác xuất khẩu phải nhận rõ các vai trò
quan trọng sau:
- Thu ngoại tệ về cho đất nước, đây là nguồn vốn quan trọng để thoả m•n nhu cầu
nhập khẩu và tích luỹ phát triển sản xuất. Thật vậy, nhập khẩu cũng như vốn đầu tư
của một nước thường dựa vào ba nguồn chủ yếu là viện trợ, đi vay, xuất khẩu.

Trong khi mức viện trợ là bị đọng và có hạn, còn đi vay sẽ tạo thêm gánh nặng cho
nền kinh tế thì xu hướng phát triển xuất khẩu để tự đảm bảo và phát triển được coi
12

như một chiến lược quan trọng mà hầu hết các nước đều ứng dụng.
- Xuất khẩu là công cụ giải quyết thất nghiệp trong nước; theo International Trade
1980-1990 ở Mỹ và các nước công nghiệp phát triển cứ xuất khẩu 1tỷ USD thì tạo
được 40 nghìn việc làm trong nước, còn ở các nước tư bản đang phát triển khác có
thể tạo ra 45-50 nghìn chỗ việc làm. ở nước ta nền công nghiệp còn lạc hậu, năng
suất lao động thấp nên xuất khẩu 1 tỷ USD thì sẽ tạo được trên 50 nghìn chỗ làm
việc trong nước.
- Xuất khẩu làm tăng hiệu quả sản xuất trong nước và tăng hiệu quả sử dụng vốn
thông qua tác động ngược chiều đối với việc đổi mới trang thiết bị hiện đại và
phương thức quản lý tiên tiến.
- Khai thác các tiềm năng, phát huy các lợi thế của đất nước, kích thích các ngành
lts phát triển cả về quy mô lẫn chiều sâu. Đặc biệt là sự tác động đến sự thay đổi cơ
cấu ngành kinh tế theo hướng ngày càng sử dụng có hiệu quả các lợi thế đất nước.
Phát triển các ngành công nghiệp, áp dụng kỹ thuật tiên tiến giúp có thêm nguồn lức
công nghiệp mới, tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí lao động xã hội.
- Tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá của quốc gia.
- Đẩy mạnh xuất khẩu còn có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các nước,
nâng cao địa vị và uy tín của Việt Nam trên thương trường quốc tế. Nhờ có những
hàng xuất khẩu mà nhiều Công ty nước ngoài biết đến năng lực của ta và sẵn sàng
thiết lập quan hệ buôn bán và đầu tư.
Như vậy, xuất khẩu nó không chỉ đóng vai trò xúc tác, hỗ trợ phát triển mà nó có
thể thành yếu tố bên trong của sự phát triển; trực tiếp tham gia vào việc giải quyết
các vấn đề bên trong của nền kinh tế quốc dân như vốn, kỹ thuật, lao động, nguyên
13

liệu, thị trường

III. thị trường cho hàng may mặc và xu hướng nhập khẩu hàng may mặc trên thế
giới.
1. Về thị trường may mặc Việt Nam.
1.1. thị trường EU:
Thị trường EU với dân số 340 triệu là nơi tiêu thụ lớn và đa dạng các loại quần áo.
Mức tiêu thụ thị trường này là khá cao: 17 kg / người / năm. ở đây, người ta có thấy
đủ loại hàng hoá từ các nước như Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Hồng Kông, Đài Loan.
Hàng năm EU nhập khoảng 63 tỷ USD quần áo vừa qua hạn ngạch mà EU dành cho
công nghệ là 22 nghìn tấn hàng dệt may giá trị khoảng 450 triệu USD và hiệp định
ký cho giai đoạn tới 1998-200 giá trị sẽ tăng 40% và so với giá trị hiệp định cũ (chi
giai đoạn 1993-1997). Đây là thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam và EU ký
hiệp định buôn bán dệt may từ năm 1992 trong đó có hạn ngạch gia công thuần tuý
(TPP). Có nghĩa là khách hàng gửi nguyên phụ liệu từ một nước thứ ba thuê gia
công tại Việt Nam, sau đó xuất sang EU. Còn nếu khách hàng EU gửi nguyên phụ
liệu từ EU sang gia công tại Việt Nam, sau đó xuất ngược lại sang EU thì không
tính vào hạn ngạch. Qua 5 năm thực hiện hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU
sản xuất hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường này đã có bước tiến vững
chắc. Năm 1993 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam vào EU đạt
được khoảng 250 triệu USD, năm 1996 đạt 400 triệu USD và dự kiến năm 1998 sẽ
đạt 650 triệu USD.
Cũng như các năm trước đây mặt hàng áo Jacket luôn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ
cấu xuất khẩu may mặc đi EU và thường chiếm 50% trong tổng kim ngạch. Chất
14

lượng hàng may mặc Việt Nam đã được khách hàng chấp nhận, chỉ tính riêng năm
1996 hàng dệt-may Việt Nam đã xuất sang tất cả các nước EU với giá trị hàng trăm
triệu USD, đứng đầu là Đức ( 150 triệu USD), Pháp (60 triệu USD), Tây Ban Nha (
16 triệu USD), Bỉ ( 10 triệu USD), Thuỵ Điển (7,5 triệu USD), Bồ Đào Nha ( 1,3
triệu USD)
Thị trường may mặc EU có tiềm năng và triển vọng rất lớn đối với các doanh

nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, để có được điều đó, các doanh nghiệp Việt Nam phải
tuân thủ những quy định khá nghiêm ngặt khi xuất khẩu vào thị trường này như:
- Không được mua bán, chuyển nhượng hạn ngạch để xuất khẩu các mặt hàng có
xuất xứ từ các nước khác vào EU.
- Các doanh nghiệp Việt Nam không được lợi dụng thuế ưu đ•i, giá nhân công trong
nước rẻ để bán hàng rẻ hơn mức giá hiện hành gây bất lợi cho các nhà sản xuất cùng
loại hàng đó hoặc các mặt hàng trực tiếp bị cạnh tranh của EU. Có thể sẽ bị áp dụng
quy định cụ thể đ• được hai bên thoả thuận.
- Các doanh nghiệp Việt Nam không được phép bán hàng cho nước thứ ba để tái
xuất vào EU.
- Đối với hàng gia công tại Việt Nam khi xuất sang EU phải ghi rõ phí gia công, giá
trị nguyên vật liệu mua tại Việt Nam để làm căn cứ giảm thuế nhập khẩu vào EU.
Trong hiệp định cũng quy định rõ danh mục hàng hoá và kim ngạch mà Việt Nam
đưa vào EU ( tổng cộng 151 nhóm mặt hàng với 108 nhóm thoe hạn ngạch và 43
nhóm tự do). Hạn ngạch năm trước không dùng hết có thể chuyển sang năm sau.
Đặc biệt trong hiệp định này còn quy định hàng năm Việt Nam và EU sẽ xem xét
khả năng xuất khẩu của Việt Nam để nới lỏng hạn ngạch cấp cho Việt Nam. Bởi
15

vậy, đây là thị trường tiềm năng lớn, các doanh nghiệp của ta cần tuân thủ tốt các
quy định này, tránh làm tổn hại đến quan hệ buôn bán giữa nước ta và cộng đồng
kinh tế Châu Âu.
1.2. Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu may mặc lớn thứ ba thế giới và đây là thị
trường phi hạn ngạch. Nhưng đây cũng là một thị trường khó tính với những đòi hỏi
khắt khe cả về chất lượng và giá cả, họ thường yêu cầu kiểm tra chất lượng chi tiết
và quan tâm nhiều tới mẫu mốt. Ví dụ như:
- Đồ lót, tất: mốt chiếm 70,5%
- Quần áo nữ: 56,4%là mốt; 37,5% là giá và còn lại là phẩm chất.
- Comple nam: 50% là phẩm chất; 43,7% là mốt và còn lại là giá cả.

Với dân số khoảng 120 triệu người và mức thu nhập bình quân đầu người 26 nghìn
USD/năm thì nhu cầu về may mặc là không nhỏ, hàng năm Nhật Bản nhập khẩu
khoảng 7-8 tỷ USD hàng may mặc. Năm 1994 hàng may Việt Nam xuất sang Nhật
xấp xỉ 130 triệu USD, năm 1996 xuất sang Nhật chiếm 90% kim ngạch của mảng thị
trường không hạn ngạch và đạt 500 triệu USD. Mặt khác, xuất sang Nhật thường là
áo Jacket, quần áo sơ mi do các đơn vị phía Bắc gia công, áo Kimono do các đơn vị
phía Nam thực hiện.
Đây tuy là thị trường đòi hỏi cao song cũng đầy hứa hẹn, neus như đầu tư tốt, nâng
cao được chất lượng, mẫu mã phong phú, màu sắc đa dạng, nắm vững thị hiếu thì có
khả năng hàng may mặc của ta sé phát triển mạnh ở thị trường này.
1.3. Thị trường Hoa Kỳ và Bắc Mỹ
Mỹ là thị trường khá hấp dẫn, lý tưởng của ngành dệt-may vì dân số Mỹ khá đông,
16

hiện có 253 triệu người, đa số sống ở thành thị có mức thu nhập quốc dân cao. Do
đó người Mỹ có sức mua lớn và nhu cầu đa dạng. Riêng hàng dệt may nhu cầu nhập
khẩu hàng năm lên tới 30-36 tỷ USD như năm 1996 là 34 tỷ USD. Nguồn nhập chủ
yếu là từ các nước Châu á:
Bảng 6: Một số nguồn nhập khẩu chính về hàng may mặc tại Châu á của Hoa Kỳ.
Nước Giá trị ( tỷ USD)
Trung Quốc 6,1
Hồng Kông 5
Hàn Quốc 1,8
Đài Loan 2,3
Các nước ASEAN khác 4,5
(Nguồn: Tổng Công ty dệt may Việt Nam.)
Tháng 2/1994 Mỹ bỏ cấm vận với Việt Nam, tháng 8/1994 Mỹ bỏ cấm vận viện trợ
và tháng 7/1995 Mỹ bình thường hoá mối quan hệ với Việt Nam. Tuy nhiên, chúng
ta đang mong chờ được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN-The Most Favourel
Nation) cho hàng nhập khẩu từ Mỹ vào Việt Nam. Đây cũng là điều kiện chìa khoá

để xâm nhập thị trường Mỹ.
Phải nói rằng, thị trường may mặc Bắc Mỹ là một miếng mồi béo bở, hấp dẫn ngay
bởi mức cầu lơn, tính thời trang, mẫu mốt và thị hiếu thể hiện rất rõ phong cách của
người Mỹ; đó là sự phong phú và khác biệt. Song với Việt Nam sự lạc quan đó vẫn
nằm trong nỗi ô âu vì Mỹ chưa dành cho Việt Nam MFN và như vậy hàng may Việt
Nam qua Mỹ phải chịu thuế nhập khẩu còn rất cao, từ 40-49% giá trị nhập khẩu.
Trong khi Trung Quốc và một số nước khác được hưởng quy chế này chỉ phải chịu
17

thuế 25%. Ưu thế cạnh tranh đã không tthuộc về các doanh nghiệp Việt Nam. Mặt
khác, ngân hàng hai nước chưa có mối quan hệ bạn hàng bang giao chặt chẽ nên
việc thanh toán còn là một vấn đề bất cập. Trường hợp này đã có thực tế khi có một
Công ty Mỹ muốn trả tiền cho Công ty may Phương Đông, họ không thể mở L/C từ
Mỹ mà phải sang tận Việt Nam yêu cầu Vietcombank Thành phố Hồ Chí Minh cho
phép vừa mở vừa nhận tiền và họ phải trả bằng tiền mặt.
Do những hạn chế nêu trên, kim ngạch hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ
mới chỉ là mức tương đối. Năm 1994 đạt 2 triệu USD, năm 1995 đạt 5 triệu, năm
1996 đạt 25 triệu và năm 1997 đạt trên 30 triệu USD. Đây mới chỉ là những con số
rất nhỏ bé so với nhu cầu của thị trường Mỹ và khả năng xuất khẩu của ta. Vậy
chúng ta phải làm gì để tích cực xâm nhập được vào thị trường đầy triển vọng này
đang là câu hỏi đặt ra là hết sức cấp bách cho nhiều nhà quản lý và cả phía doanh
nghiệp.
1.4. Thị trường SNG và một số nước Đông Âu
Trong những năm trước khi các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan vỡ thì tỷ trọng
kim ngạch của ta vào thị trường này chiếm vị trí khá lớn và đóng vai trò quan trọng,
xuất khẩu theo những hiệp định hàng đổi hàng. Qua thời gian dài đó nhà xuất khẩu
của ta phần nào nắm bắt được thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng ở khu vực này
và người tiêu dùng cũng đã phần nào quen với hàng may mặc của ta. Tuy nhiên, kể
từ khi các nước XHCN Đông Âu tan vỡ thì kim ngạch hàng may mặc của ta vào thị
trường này giảm mạnh. Hiện nay, hàng may mặc của ta vào thị trường này chủ yếu

do các thương gia buôn theo từng chuyến còn về phía doanh nghiệp thì chỉ mức thấp
do chưa tìm được phương thức thanh toán hợp lý thây thế cho phương thức hàng đổi
18

hàng trước đây.
Như vậy có thể nói, với Việt Nam đây là thị trường truyền thống mà mấy năm vừa
qua chúng ta để vượt khỏi tầm tay. Cần nhanh chóng tìm ra giải pháp cần thiết để
nối lại quan hệ với thị trường không kém phần hấp dẫn này. Các doanh nghiệp cần
mạnh dạn triển khai phương thức thanh toán mới phát huy lợi thế vốn có của ta
trong nhiều năm qua trên thị trường này.
1.5. Thị trường các nước ASEAN
Việt Nam đã là thành viên chính thức của ASEAN và đang trên tiến trình thực hiện
AFTA, bên cạnh những cơ hội lớn mở ra cũng còn nhiều thách thức. Phải tiến hành
cắt giảm thuế quan và hàng hoá được lưu chuyển tự do giữa các nước ASEAN tạo
nên sự cạnh tranh gay gắt đối với hàng hoá Việt Nam, buộc các doanh nghiệp Việt
Nam phải nỗ lực cải tiến công nghệ, áp dụng phương thức quản lý hiện đại và phải
tạo được cho mình một nền tảng vững chắc về mọi mặt để trụ vững trên thương
trường. Sản phẩm có được thị trường chấp nhận hay không quyết định đến sự tốn tại
của Công ty. Dưới sức ép đó sẽ xoá bỏ đi được các Công ty làm ăn trì trệ. Tuy
nhiên về phía Việt Nam chắc chắn sẽ có nhiều Công ty cần phải “lột xác “.
Bù lại, thị trường ASEAN với 430 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người hàng
năm 1.608 USD, tốc độ phát triển bình quân 6-8%/ năm, thì đây quả là một thị
trường lớn cho hàng may mặc. ASEAN còn là một thị trường có nền văn hoá tương
đồng lẫn nhau. Do đó thị hiếu, lối sống cũng tương đối giống nhau, điều này là điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp may mặc Việt Nam xâm nhập dế ràng hơn.
1.6. Thị trường trong nước
Chúng ta chủ yếu chú trọng đến sản xuất hàng may xuất khẩu và đã có những đóng
19

góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Song chúng ta đã để lại khoảng trống sau

lưng mình đó là thị trường nội địa. Hiện nay, dân số Việt Nam trên 75 triệu người,
chỉ tính khiêm tốn sức mua cũng vào khoảng 750 triệu USD/năm (10
USD/người/năm). Đây là con số không nhỏ có sức hấp dẫn đối với bất kỳ nhà đầu
tư nào.
Thực tế trên thị trường Việt Nam còn nhiều mặt hàng second-hand của nước ngoài,
chứng tỏ rằng nhu cầu đa vượt khả năng cung cấp trong nước. Do vậy, các doanh
nghiệp Việt Nam một mặt tăng cường sản xuất hàng xuất khẩu, một mặt phải chú ý
đến sản xuất hàng phục vụ nhu cầu nội địa. Nhà nước chỉ có biện pháp như giao chỉ
tiêu cho một số doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc đáp ứng tiêu dùng trong nước.
Tránh bỏ trống thị trường ngay trong tầm tay.
Trên đây là một số thị trường lớn mà chúng ta đã và đang có được. Cần phải có biện
pháp và định hướng đúng đắn để khai thác nó một cách triệt để. Mặt khác phải tăng
cường mở rộng và tìm kiếm những thị trường đang bị bỏ ngỏ, đây cũng là mục tiêu
mà chúng ta đang đặt ra. Chẳng hạn sẽ tìm cách tiếp cận thị trường Trung Cận Đông
và Mỹ La Tinh là một ví dụ.
2. Xu hướng nhập khẩu hàng may mặc trên thế giới.
Thị trường thế giới sau nhiều năm vận hành độc lập nay đã trở nên có tổ chức và
đang hoạt động trong sự ràng buộc chặt chẽ các thể chế sau:
- Các định chế kinh tế như WTO. GSP. MFA, các công ước về lao động, về sở hữu
trí tuệ
- Các thể chế về khu vực: EU, NAPTA, ASEAN
- Các thể chế về tài chính: WB,IMF, ADB và các hiệp định liên ngân hàng.
20

- Các hiệp định về hàng hoá như về cao su thiên nhiên, cà phê, dầu mở , hàng dệt
may
- Các trung tâm giao dịch: Sỏ giao dịch hàng hoá ở Luân Đôn, Paris, Singapore,
Chicago
- Các công hội vận tải biển, tổ chức hàng không quốc tế (ICAO), tổ chức du lịch
quốc tế, các tính chất liên lạc viễn thông quốc tế, các mạng lưới và trung tâm dịch

vụ tiêu thụ
Hoạt động của các thể chế quốc tế và khu vực đã đưa lại hiệu quả giúp cho thương
mại quốc tế được ổn dịnh và phát triển. Trong tương lai các định chế này sẽ không
thể không tham gia một cách tích cực vào các định chế thế giới và khu vực nói trên.
Với cơ chế hoạt động của thị trường thế giới như vậy đã ảnh hưởng tới việc sản xuất
và tiêu thụ hàng dệt may trên thế giới. Như khu vực EU đã có các mức thuế ưu đãi
đối với hàng dệt may của các nước đang phát triển xuất khẩu vào thị trường này.
Hiệp định các nước EU đã có hiệp định về hàng may mặc với từng nước cụ thể,
dưới các quy định các sản phẩm Dệt may của Trung Quốc.
Với các định chế này, nó tạo ra sự công bằng giữa các nước có nền công nghiệp
may phát triển và các nước đang phát triển.
Trong bối cảnh chung của thị trường thế giới như hiện nay, tình hình sản xuất và
xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cũng có nhiều biến động và nổi lên một số đặc
điểm sau:
+ Năm 1997 đã kết thúc hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU hạn ngạch 22
nghìn tấn dệt may đạt giá trị 450 triệu. Gần đây, Việt Nam đã ký hiệp định trong
lĩnh vực này cho giai đoạn 1998-2000, điều đó sẽ mở ra một triển vọng to lớn về
21

xuất khẩu hàng dệt may của nước ta.
+ Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ được cải thiện một cách cơ bản, song quy chế tối
huệ quốc cho Việt Nam vẫn còn là một câu hỏi chưa chính xác. Nếu chế độ này
được áp dụng thì đây sẽ là cơ hội lớn về thị trường hàng dệt may cho Việt Nam.
+ Kinh tế khu vực phát triển chận lại : việc trao trả Hồng Kông cho Trung Quốc vào
1/7/1997 vừa qua có thể ảnh hưởng đến kinh tế thị trường khu vực. Hiện nay một số
khách hàng Hồng Kông đang đặt gia công hàng may mặc tại Việt Nam như vậy sẽ ít
nhiều bị biến động. Bên cạnh đó cuộc khủng hoảng kinh tế ở Châu á vừa qua làm
ảnh hưởng nặng nề tới việc tiêu thụ cũng như khả năng sản xuất trên thị trường các
mặt hàng nói chung và hàng may mặc nói riêng.
+ Trước đây khách hàng EU tập trung vào thuê gia công áo Jacket ba lớp (cat 21) và

sơ mi (cat 8) tại Việt Nam. Thời gian tới xu hướng chung là giảm cat 21 và cat 8, đi
vào một số cat khác như quần (cat 78), áo (cat 161).
+ Xí nghiệp may không ngừng cải tiến trang thiết bị, máy móc nâng cao năng suất
lao động. Bên cạnh đó một số xí nghiệp liên doanh sản xuất hàng may mặc đã đi
vào hoạt động.
+ Mọi năm các xí nghiệp có quota cat 21 thì bắt buộc các khách hàng nước ngoài
phải làm gia công ở xí nghiệp đó để tận dụng quota cat 21. Thời gian tới, những xí
nghiệp nào làm chất lượng tốt, đảm bảo thời gian giao hàng đúng hạn thì khách
hàng mới đặt hàng.
+ Giá cả sợi để dệt vải trên thế giới tăng cao đã ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm
quần áo và liên quan tới gia công. Trong khi đó, giá cả sản phẩm bán ra lại hạ mà
giá gia công của Việt Nam nói chung thì ngày càng cao do yêu cầu của đời sống và
22

lượng thu nhập ngày càng tăng lên của nhân dân. Nó đã tạo sự mâu thuẫn giữa phía
Việt Nam và phí các khách hàng nước ngoài.
+ Bộ Thương mại có chủ trương sắp tới bỏ hoạt động cấp quota cho các doanh
nghiệp sản xuất mà tổ chức đấu thầu quota. Thông tư liên bộ Thương mại - Công
nghiệp điều chỉnh cơ chế giao quyền sử dụng hạn ngạch hàng dệt may xuất đi EU.
Nhà nước cho phép các doanh nghiệp tự quyết định giá cả.
+ Đặc biệt, Viện Mốt của Việt Nam đã đi vào hoạt động đang từng bước nghiên cứu
các kiểu mốt được thịnh hành trên các thị trường thế giới và trong nước.
+ Hàng may mặc của Việt Nam xuất đi chủ yếu dưới hình thức gia công, xuất khẩu
trực tiếp còn rất thấp. Bên cạnh đó là sự yếu kém trong việc cung cấp nguyên liệu
dầu vào các ngành dệt cho ngành may mặc.
Tính theo kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thì hàng may mặt Việt Nam có tốc độ
tăng trưởng lớn nhất. Năm 1995 tăng gấp 5 lần so với năm 1991. Đây là con số khả
quan đánh giá sự phát triển ngành may mặc xuất khẩu, song nhìn vào thực tế thì giá
trị ngoại tệ thực thu từ gia công đem lại là 150 triệu USD trên tổng giá trị xuất khẩu
là 874 triệu USD, còn năm 1996 là 194 triệu USD trên tổng số kim ngạch xuất khẩu

là 1,1 tỷ USD thì quả là xuất khẩu kiểu này không mấy hiệu quả.
Hiện nay năng lực sản xuất hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam có thể đạt 2,15
tỷ USD. Đó là kết quả của sự đầu tư không ngừng của các doanh nghiệp, xí nghiệp
Việt Nam - hầu hết các địa phương đều có xí nghiệp may ra đời, các xí nghiệp may
như : Công ty may 10, Công ty may Việt Tiến, Công ty may Đức Giang, Công ty
may Nhà Bè không ngừng cải tiến trang thiết bị, đào tạo đội ngũ quản lý, công
nhân phục vụ quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm chất lượng cao.
23

Hiệp hội các xí nghiệp may của Việt Nam hoạt động tích cực, mới đây đã thành lập
Viện mốt với nhiệm vụ tạo mốt, mẫu mã kỹ thuật phục vụ các Công ty may sản xuất
có hiệu quả. Bên cạnh sự đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam các Công ty nước
ngoài cũng đã tham gia đáng kể trong việc đầu tư vào ngành may mặc, nhiều liên
doanh trong lĩnh vực may mặc đã đi vào hoạt động thu kết quả khả quan. Tất cả đã
tạo ra một năng lực sản xuất mới cho ngành may mặc Việt Nam. Quy mô sản xuất
được mở rộng, tay nghề công nhân không ngừng được nâng lên, mẫu mã được cải
tiiến phong phú, đa dạng. Các yếu tố này gây nên sự hấp dẫn đối với các khách
hàng có ý định hợp tác.
3. Một số kinh nghiệm thực tiễn từ hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất hàng may
mặc.
Ngành công nghiệp may mặc xuất khẩu Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ
và được nhiều đơn vị, thành phần kinh tế tham gia. Hệ thống các Công ty , xí nghiệp
may từ Trung ương đến địa phương đều trưởng thành đáng kể. Năm 1997 có trên
400 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu dự kiến 1998 con số này sẽ là gần 500 doanh
nghiệp. Không những đội ngũ may xuất khẩu tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp
mà quy mô doanh nghiệp công nghệ sản xuất, chất lượng, đội ngũ công nhân lành
nghề đang từng bước được nâng cao. Tất cả những điều này đang là dấu hiệu tốt cho
sự khởi sắc của ngành may Việt Nam khi vươn ra thị trường thế giới.
Tuy nhiên, để làm tốt hơn nữa chứng từ xuất khẩu may mặc, phát huy hết mọi sức
mạnh tiềm tàng của đất nước thì bên cạnh các biện pháp chuyên môn các nhà xuất

khẩu Việt Nam cần phải thường xuyên học hỏi kinh nghiệm từ các cơ sở may xuất
khẩu trong nước và ngoài nước. Thường xuyên coi trọng công tác tự đánh giá và rút
24

ra những bài học chính mình để kịp thời điều chỉnh những vấn đề còn yếu kém,
tránh thua thiệt trong cạnh tranh, tránh xu hướng đầu tư sai lầm mà trong thời gian
ngắn khó có thể thay đổi được Cụ thể trong thực tiễn hoạt động của chúng ta đang
còn nổi cộm lên một số vấn đề lớn sau và cần được nhìn nhận lại một cách nghiêm
túc.
Trong đầu tư mua sắc, chuyển giao máy móc công nghệ một số đơn vị do nguồn vốn
hạn hẹp phải mua thiết bị Second-hand đã để khách hàng nước ngoài lợi dụng đưa
thiết bị quá cũ, tân trang lại nên hiệu quả sử dụng rất hạn chế ; nguy cơ là bãi thải
công nghiệp với những cỗ máy lạc hậu tới hàng thế kỷ. Bên cạnh đó công tác lập
luận chứng đầu tư còn phiến diện, thiếu đồng bộ. Có trường hợp khi mua thiết bị sợi
về thấy thiếu thiết bị lạnh lại phải chờ lập luận chứng mua thiết bị lạnh nên phải mất
thêm 2 năm mới sử dụng được, hoặc thiếu sự phối hợp giữa các khâu trong đầu tư
dẫn đến máy móc thiết bị nhập về rồi mới tính chất đào tạo công nhân. Tình trạng
đã dẫn tới thời gian vay nợ kéo dài nhiều khi ảnh hưởng lớn tới uy tín Công ty vì
nguồn vốn vay đầu tư không được trả đúng hạn thậm chí có trường hợp mất khả
năng chi trả.
Khi giao nhận nguyên vật liệu và thành phẩm có trường hợp Công tylàm hàng gia
công trong nước do sơ xuất trong việc cụ thể hoá các chỉ tiêu như : định mức tiêu
hao vật liệu, kiểu cách kết hợ gam màu thời gian và địa điểm giao nhận, phương
thức thanh toán nên khi thực hiện hợp đồng đã để xảy ra những kết cục tranh chấp
đáng tiếc.
Như chúng ta đã biết, hàng may mặc luôn đi kèm với yếu tố thời trang, khi tham gia
thị trường trên thế giới thì các yếu tố đó lại càng phức tạp. Do đó tăng cường thực
25

hiện chiến lược sản phẩm là con đường thiết thực nhất, thường xuyên cách tân,

thay đổi mẫu mốt, kiểu dáng và nâng cao chất lượng sản phẩm. Hãy để chính sản
phẩm lên tiiếng là việc làm hiệu quả hơn bất cứ nỗ lực nào. Đây cũng là bí quyết tất
cả các doanh nghiệp thành công nhất trên trường quốc tế.
Học hỏi kinh nghiệm trong đàm phán, ký kết hợp đồng với nước ngoài cũng đang
được coi là việc làm cần thiết. Công tác đàm phán cần được chuẩn chu đáo bởi đây
sẽ là thời điểm xác định lợi ích kinh tế của các bên. Muốn đạt được lợi ích lớn trước
hết phải có nghệ thuật đàm phán khôn khéo, nhiều khi khách hàng đang có rất nhiều
mối hàng nhưng do nghệ thuật thuyết phục của ta mà họ vẫn chấp nhận đặt hàng với
những điều kiện có lợi cho chúng ta. Trong đàm phán rất cần thiết phải hiểu rõ đối
phương (về văn hoá, tài chính, thái độ, phong tục ); tuỳ theo từng đối tượng mà sử
dụng các chiến lược đàm pháp kiểu cứng, chiến lược đàm phán kiểu mềm hay chiến
lược đàm phán kiểu hợp tác. Ngoài ra còn phải chủ ý tới việc nên áp dụng chiến
thuật đàm phán gì ? chiến thuật tri thức hay chiến thuật tâm lý.
Kinh nghiệm tạo uy tín và tạo khả năng xâm nhập vào thị trường nước ngoài của các
doanh nghiệp thành đạt cho thấy cần phải thực hiện song song hai chiến lược đó là :
chiến lược marketing và chiến lược sản phẩm một cách tốt nhất. Thực hiện chiến
lược marketing hợp lý sẽ cho phép sản phẩm của Công ty được mọi người quan tâm,
chú ý. Khi sản phẩm đã được nhiều người biết đến cần tiếp tục củng cố lòng tin và
uy tín với khách hàng bằng chính với yếu tố nội tại sản phẩm, nhất là với hàng may
mặc cần luôn luôn tạo ra tính đặc thù, có như vậy mới mong duy trì được trên thị
trường một cách bền vững. Có câu nói thấy triết lý mà bao hàm toàn bộ nội dung
trên, đó là : “Hãy tạo dựng uy tín so cho khách hàng sẽ mua sản phẩm của Công ty

×